Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ DUNG

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN BÌNH LIÊU
TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ DUNG

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN BÌNH LIÊU
TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thị Vân Hƣơng

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết luận khoa học nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nào. Những tư liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc
và trích dẫn rõ ràng

Tác giả

Hoàng Thị Dung


LỜI CẢM ƠN

Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với
những hỗ trợ, sự giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người
khác. Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Học viện Hành
chính Quốc gia, đến nay em đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành quản
lý công. Để có được kết quả này, em đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ, quan
tâm, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo, hướng dẫn của quý thầy cô, gia đình, đồng
nghiệp và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin trân trọng gửi đến quý
thầy cô của trường đã rất tâm huyết truyền đạt vốn kiến thức quý báu và tạo điều

kiện thuận cho chúng em trong thời gian qua.
Và đặc biệt có được thành công trong công trình nghiên cứu khoa học
này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến với cô Nguyễn
Thị Vân Hương đã trực tiếp tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, định hướng cho em
trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã nhiệt
tình ủng hộ, giúp đỡ, cung cấp thông tin, tư liệu, tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Dung


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

7

1.1. Khái quát về đơn vị hành chính và chính quyền cấp xã


7

1.1.1. Đơn vị hành chính cấp xã

7

1.1.2. Chính quyền cấp xã

8

1.1.3. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã

10

1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã

12

1.2. Cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã

14

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

14

1.2.2. Tầm quan trọng của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã

17


1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã

20

1.3.1. Khái niệm chất lượng

20

1.3.2. Khái niệm chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã

21

1.3.3. Tiêu chí phản ánh chất lượng CBCC cấp xã

24

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng CBCC cấp xã

32

1.4.1. Các yếu tố khách quan

32

1.4.2. Các yếu tố chủ quan

36

Tiểu kết chương 1


40

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ TẠI HUYỆN BÌNH LIÊU TỈNH QUẢNG NINH

41

2.1. Khái quát về huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh

41

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

41

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội

42

2.2. Khái quát về cán bộ công chức cấp xã trên địa bàn huyện Bình Liêu

44

2.3. Thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh

53


2.3.1. Cơ sở pháp lý


53

2.3.2. Thực trạng chất lượng CBCC cấp xã huyện Bình Liêu thông qua các tiêu chí
đánh giá

60

2.4. Đánh giá chung về chất lượng CBCC chính quyền cấp xã của huyện Bình Liêu,
tỉnh Quảng Ninh.

72

Tiểu kết chương 2

81

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI HUYỆN
BÌNH LIÊU TỈNH QUẢNG NINH.

82

3.1. Định hướng và mục tiêu

82

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã tại huyện Bình
Liêu, tỉnh Quảng Ninh


91

3.2.1. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ

91

3.2.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã

93

3.2.3. Tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ
chủ chốt cấp xã

96

3.2.4. Xây dựng các quy chế về công tác quản lý cán bộ

98

3.2.5. Thực hiện trẻ hóa CBCC chính quyền cấp xã

100

3.2.6. Xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ CBCC cấp xã đến năm 2020 và chuẩn bị cho
công tác cán bộ giai đoạn 2020 - 2025

101

3.2.7. Đổi mới hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân xã


105

Tiểu kết chương 3

109

KẾT LUẬN

110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

112


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC

Cán bộ chủ chốt

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND


Ủy ban nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

QLNN

Quản lý nhà nước

KT - XH

Kinh tế - xã hội

VH - XH

Văn hóa – xã hội

QP - AN

Quốc phòng – An ninh

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

MTTQ

Mặt trận tổ quốc


ĐTNCSHCM

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

HPN

Hội phụ nữ

HND

Hội nông dân

HCCB

Hội cựu chiến binh

HCNN

Hành chính nhà nước

BCH

Ban chấp hành

NSNN

Ngân sách nhà nước

NNL


Nguồn nhân lực

KTCK

Kinh tế cửa khẩu

VH-XH

Văn hóa – xã hội


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

STT

Ký hiệu

Nội dung

1

Sơ đồ 2.1 Cơ cấu theo giới tính của CBCC cấp xã

2

Sơ đồ 2.2

3


Sơ đồ 2.3

4

Sơ đồ 2.4 Trình độ chuyên môn

5

Sơ đồ 2.5

6

Bảng 2.1

7

Bảng 2.2

8

Bảng 3.1

Trang
50

Độ tuổi của cán bộ chủ chốt cấp xã

52

giai đoạn 2011 - 2016 và 2016 – 2021

Trình độ lý luận chính trị của BT, PBT;CT, PCT

61

HĐND và UBND cấp xã

Kiến thức Q LNN của BT, PBT; CT,

64
PCT

HĐND và UBND cấp xã

65

Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của
CBCC chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu
Xếp loại năng lực của CBCC cấp xã huyện
Bình Liêu
Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội huyện
Bình Liêu thời kỳ quy hoạch

63
68
89


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bàn về vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng

định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Đội ngũ cán bộ là nguồn nhân lực có vai trò cực kỳ
quan trọng, vừa là người tham mưu, đề xuất; vừa là người thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiểu theo cách khác họ chính là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là lực lượng thực thi chính sách của Nhà
nước và là người đại diện cho quyền lợi của nhân dân. Niềm tin của nhân dân
đối với Nhà nước không chỉ phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước mà còn phụ
thuộc vào năng lực, trình độ, trách nhiệm, phong cách ứng xử của đội ngũ cán
bộ, công chức mà họ tiếp xúc.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế và
cạnh tranh toàn cầu hiện nay đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng
với tư duy đổi mới, có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị, đạo đức
tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý xã hội và những thay đổi của thời kỳ đổi
mới. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT- XH) giai đoạn 2011-2020 được
thông qua tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tụy phục vụ
nhân dân, có tính chuyên nghiệp cao”. Điều này đòi hỏi yêu cầu về chất lượng
đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC) nói riêng luôn là
đòi hỏi cấp bách cần được ưu tiên hàng đầu.
Trong bộ máy hành chính nhà nước (HCNN) ở địa phương, chính quyền
cấp xã có vai trò quan trọng đặc biệt, là chính quyền gần dân nhất. Chính vì vậy,
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước có hiện thức hóa
vào thực tiễn đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào sự chỉ đạo của đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã. Nâng cao chất lượng đội ngũ này sẽ góp phần
quan trọng khẳng định vị trí, vai trò chính quyền của nhân dân; củng cố niềm tin
1


của nhân dân với chính quyền, sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước. Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, việc nghiên

cứu và đưa ra những đánh giá một cách sâu sắc về chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã là một nhu cầu tất yếu.
Huyện Bình Liêu là huyện miền núi, dân tộc, biên giới nằm ở phía Đông Bắc
tỉnh Quảng Ninh, nơi có cửa khẩu tiểu ngạch thông thương với nước bạn Trung
Quốc thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Với địa hình hiểm trở, giao thông đi lại
còn nhiều khó khăn, dân cư sống không tập trung, trình độ dân trí còn thấp, không
đồng đều. Trong những năm qua, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm
nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã của huyện vẫn chưa
đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn vì nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách
quan. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
còn chậm được tiến hành, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù cán bộ chủ chốt
cơ sở, miền núi và dân tộc chiếm đa số. Chính vì vậy, việc xem xét đánh giá một
cách khách quan, toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp
xã và đưa ra một hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã ở huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng
Ninh có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị trong tình hình mới là thực sự cấp bách, cần thiết và phù hợp với đòi hỏi của
tình hình thực tiễn phát triển của huyện.
Từ những lý do trên, em lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng
Ninh” làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu liên
quan đến đề tài luận văn như:
- Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ): Chính quyền cấp xã
và quản lý Nhà nước cấp xã, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Cuốn sách đề cập tới một số nội dung cơ bản về tổ chức chính quyền cấp xã,
2



những nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước chính quyền cấp xã, thực trạng
chính quyền cấp xã. Đây là cuốn sách có giá trị tham khảo tốt cho luận văn.
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên
- 2001) - Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Đề tài khoa học, 05 03, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Thị Thu Vinh (2003), Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Nhà nước. Luận văn góp phần làm rõ
những ưu điểm, hạn chế, từ đó xác định những giải pháp nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở.
- Nguyễn Thị Bích Hường (2006) - Chất lượng đào tạo cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Trương đào tạo cán bộ Lê Hồng
Phong thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay - Luận văn Thạc sỹ khoa học
chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận, thực tiễn và thực trạng về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cơ sở.
- Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng, Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp phường, sách chuyên khảo, Nxb CTQG, Hà Nội
2008. Tác giả cuốn sách đã làm rõ quan niệm cán bộ chủ chốt cấp phường, đề
cập vai trò của cấp phường trong hệ thống chính trị, vai trò quan trọng của cấp
phường và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở đối với phát triển kinh tếxã hội
Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan đến chất lượng của đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cơ sở. Nhìn chung các đề tài nói trên đã nghiên cứu cả
lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt
nói riêng dưới các góc độ khác nhau. Đây là nguồn tư liệu tham khảo hữu hiệu,
là cơ sở kế thừa cho những nghiên cứu tiếp theo. Tuy nhiên, nghiên cứu cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã tại huyện miền núi người dân tộc thiểu số ở
Quảng Ninh là một đề tài mang đến nhiều điểm mới. Tác giả hy vọng đề tài
3



“Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện
Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh” sẽ là một đóng góp hữu ích.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã và
từ thực tiễn đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt tại huyện Bình Liêu, tỉnh
Quảng Ninh. Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cán bộ, cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã, chất lượng, chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã...
- Đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Qua đó chỉ ra những mặt mạnh và hạn chế
cần khắc phục để đáp ứng yêu cầu hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt
chính quyền cấp xã tại huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp
xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2016.
- Về không gian: Đề tài đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
- Về khách thể nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung vào cán bộ HĐND và
UBND cấp xã với các chức danh: Bí thư Đảng ủy xã, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ

tịch UBND, Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch HĐND, Phó chủ tịch HĐND.
4


- Về địa bàn nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu khảo sát tại 7 xã, 01
thị trấn.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về cán bộ, công
tác cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp trong đó tập trung vào một số phương pháp sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để
có những luận cứ khoa học cho việc đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã nói chung và tại huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh nói riêng làm
cơ sở để đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh
giá thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu,
tỉnh Quảng Ninh để từ đó chỉ ra được những mặt mạnh, mặt yếu trong chất
lượng của đội ngũ này làm cơ sở cho những giải pháp ở Chương 3.
- Phương pháp điều tra: Được tiến hành khách quan đối với 47 cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã nhằm thu thập thông tin về những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh
Quảng Ninh và những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ này trong thời gian
tới.
- Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu thu
thập được từ kết quả điều tra, khảo sát.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp quan sát, so sánh, tổng hợp,
phỏng vấn...để thu thập thêm những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình
Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất
lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã nói chung, xã vùng dân tộc thiểu số
nói riêng.
- Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp Ban Tổ chức Huyện ủy
Bình Liêu, phòng Nội vụ huyện Bình Liêu tham mưu cho Huyện ủy, HĐND và
UBND huyện những phương hướng giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã tại địa phương.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên
quan đế

ất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền

cấp xã ở
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, phụ lục, kết luận và danh mục tham khảo
luận văn được kết cầu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chất lượng cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã tại huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.


6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. Khái quát về đơn vị hành chính và chính quyền cấp xã
1.1.1. Đơn vị hành chính cấp xã
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có khoảng 76% cư dân sống ở nông
thôn với khoảng hơn 60 triệu nông dân trong tổng số hơn 80 triệu dân của cả
nước. Từ bao đời nay, làng xã Việt Nam đã trở thành đơn vị hành chính cơ sở, nơi
cộng đồng dân cư sinh sống, gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc
và văn hoá. Các đơn vị làng xã có tầm quan trọng đặc biệt, tồn tại như một môi
trường, một không gian - xã hội, một đơn vị hành chính - lãnh thổ với những đặc
điểm khác nhau về địa lý, dân cư, kinh tế, văn hoá v.v..[15, tr.150].
Tại Điều 2, Luật số 77/2015/QH 13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về
“Luật tổ chức chính quyền địa phương”, các đơn vị hành chính của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Từ khi Nhà nước xuất hiện và có sự phân chia lãnh thổ thì vấn đề phân
chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính - lãnh thổ luôn là vấn đề quan trọng
và được quy định trong Hiến pháp - văn bản có tính pháp lý cao nhất. Theo Hiến
pháp năm 2013, quy định về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống
nhất, đồng bộ, xuyên suốt, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta đồng
thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính

tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo đó “chính quyền địa phương nước ta chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố
7


trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính
tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia
thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do Quốc hội thành lập” [35].
“Cấp xã” hiện nay là tên gọi chung của các đơn vị hành chính địa phương
trong hệ thống các đơn vị hành chính ở Việt Nam. Thuật ngữ đơn vị hành chính
cấp xã được dùng để chỉ toàn bộ các đơn vị hành chính cấp cơ sở bao gồm xã,
phường, thị trấn trong đó xã là chủ yếu, chiếm 85% trong tổng số các đơn vị
hành chính cấp cơ sở, thuộc địa bàn nông thôn, chiếm số lượng hơn hẳn so với
phường thuộc địa bàn đô thị. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2014,
nước ta có 11.161 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó có 9.001 xã,
615 thị trấn, 1545 phường. Chỉ trong vòng 2 năm từ 2012 (11.120 đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn, trong đó 9.048 xã, 622 thị trấn, 1450 phường) đến
năm 2014 đã tăng 41 đơn vị, trong đó giảm 47 xã, tăng 95 phường và giảm 7 thị
trấn. Quảng Ninh có 186 đơn vị hành chính xã, phường, Thị trấn, trong đó có 61
phường, 10 thị trấn, 115 xã. Dưới xã, phường, thị trấn có các cộng đồng dân cư
tự quản; dưới xã có thôn, bản, làng, ấp, buôn. Dưới phường, thị trấn có tổ dân
phố, ở một số thành phố, thị xã giữa phường và tổ dân phố có cụm dân cư, giữa
xã và thôn có khu hành chính. Số lượng xã, phường, thị trấn trong những năm
qua không ổn định. Cùng với quá trình chia tách các tỉnh, huyện, việc thành lập
mới các xã, phường, thị trấn diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
1.1.2. Chính quyền cấp xã
Hội nghị Trung ương V khoá IX, họp tại Hà Nội, năm 2002 xác định:

“Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh
sống”, nơi diễn ra tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội.
Từ khi có chính thể dân chủ cho tới nay chúng ta mới nói tới xã như một
tập hợp mở rộng của các làng và coi xã là cấp cơ sở ở nông thôn trong hệ thống
chính trị (HTCT) bốn cấp quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN) ở nước ta
hiện nay, gồm: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
8


Cấp xã là đơn vị cấp cuối cùng trong bốn cấp của hệ thống QLHC, là cấp
thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng cái thấp nhất không đồng nghĩa với
cái ít quan trọng nhất. Do vậy, cấp xã là chủ yếu và điển hình, bao trùm và phổ
biến trong sự hình dung về cấp cơ sở, về đời sống KT- XH và văn hoá cũng như
về HTCT ở cơ sở hiện nay.
Cấp xã được xem là cơ sở của xã hội, là nơi cư trú, sinh sống của người
dân, nơi thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, là cầu nối trực tiếp giữa dân với Đảng. Mối quan hệ công tác của HTCT
cấp cơ sở thể hiện trong cơ chế tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động: tổ
chức Đảng có vai trò hạt nhân lãnh đạo của HTCT cơ sở; chính quyền xã,
phường, thị trấn có vai trò QLNN; Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức
thành viên bao gồm Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (ĐTNCSHCM),
Hội Nông dân (HND), Hội liên hiệp Phụ nữ (HLHPN) và Hội Cựu chiến binh
(HCCB), v.v...có vai trò đoàn kết, tập hợp quần chúng tham gia vào các hoạt động
xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của Nhà
nước và hoạt động của nó mang tính chất quyền lực của nhà nước, bằng phương
thức tác động của Nhà nước. Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND,
hoạt động theo Luật tổ chức chính quyền địa phương. Trong đó, HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nước ở cơ sở và là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan HCNN ở

cơ sở. Chính quyền cấp xã không chỉ là nơi thực thi quyền lực của nhân dân,
đảm bảo dân chủ mà còn là chủ thể tổ chức các hoạt động của cộng đồng trên
địa bàn như các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... một mặt chăm lo
tổ chức các hoạt động cộng đồng; mặt khác, là công cụ của Nhà nước để ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật và quyền làm chủ của nhân dân. Chính
quyền cấp xã được củng cố và hoàn thiện sẽ được đông đảo quần chúng nhân
dân tín nhiệm và tin tưởng; những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và phát triển KT- XH được thực hiện có hiệu quả hơn.
Chính quyền cấp xã còn gọi là chính quyền cấp cơ sở là bởi:
9


Một là, cấp này đáp ứng đủ các yếu tố cấu thành một cấp chính quyền:
Được Nhà nước quyết định thành lập, giải thể, sáp nhập và được trao chức năng,
nhiệm vụ để thay mặt Nhà nước thực hiện công việc quản lý tại địa phương; Có
cơ chế bầu cử cán bộ địa phương, có tính tự quản nhất định; Chịu sự kiểm soát
của chính quyền cấp trên.
Hai là, đây là cấp chính quyền thấp nhất và không có cấp chính quyền nào
thấp hơn chính quyền xã, phường, thị trấn. Đây là cấp gần nhân dân nhất so với
các cấp chính quyền khác. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở gồm có
HĐND xã và UBND xã, không có các cơ quan tổ chức chuyên môn như phòng
mà chỉ có các công chức cấp xã.
Từ kết quả phân tích trên, chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND
là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền
lực Nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân, căn cứ vào
nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện những
vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, AN-QP và đời sống
của nhân dân địa phương theo Hiến pháp, pháp luật và các mệnh lệnh, quyết
định của cấp trên.
1.1.3. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong thời kỳ hoạt động bí mật,
cấp xã là địa bàn quan trọng, ở đó có các tổ chức của Đảng được nuôi dưỡng,
bảo vệ và hoạt động tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lôi cuốn họ vào phong trào
đấu tranh cách mạng giành chính quyền. Khi giành được chính quyền trên phạm
vi cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền giữ vai trò lãnh
đạo đối với toàn xã hội thì cấp xã càng trở nên quan trọng hơn, bởi cấp xã là cấp
cuối cùng, là nơi tổ chức, hiện thực hoá và kiểm nghiệm tính đúng đắn đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nơi đảm bảo phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Là địa bàn thuận lợi để xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc.

10


Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, vai trò cấp xã nâng lên
một tầm cao mới. Chính quyền cấp xã là nơi giải quyết và chăm lo mọi mặt đời
sống nhân dân, trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân.
Vì vậy, chính quyền cơ sở phải được tổ chức phù hợp để có thể phục vụ nhân
dân một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, tạo niềm tim trong nhân dân. Quan trọng
hơn phải là người hiểu dân, nói lên tiếng nói, nguyện vọng của dân, báo cáo lên
cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phải là người giải quyết
và đáp ứng tốt nhất những nhu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của cả
cộng đồng dân cư ở xã, cũng như mỗi người dân cụ thể. Đồng thời, chính quyền
cấp xã còn là cấp hướng dẫn, giám sát các hoạt động tự quản của nhân dân nhằm
tạo điều kiện cho nhân dân phát huy mọi khả năng phát triển KT-XH. Đây là nét
đặc thù của chính quyền cấp xã so với các cấp chính quyền khác.
Từ cơ cấu tổ chức bộ máy của HTCT cấp xã và vị trí của nó trong xã hội,
cấp xã có vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống chính quyền và HTCT cơ sở
nói riêng, thực hiện quyền lực Nhà nước ở địa phương. Là cấp chính quyền trực

tiếp với dân, gần dân, sát dân nhất, thường xuyên quan hệ, tiếp xúc với quần
chúng nhân dân; Là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, vùng nhạy cảm nhất của đời
sống xã hội, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống còn, thành bại của chế
độ. Cấp xã còn là đơn vị tổ chức cơ bản của huyện, xã mạnh thì huyện mạnh và
ngược lại các xã yếu, không ổn định là những “điểm nóng” thì huyện không thể
phát triển, vững mạnh, thậm chí còn gây những hậu quả khó lường. Bắt nguồn từ
tầm quan trọng của cơ sở, cho nên xây dựng và củng cố HTCT cấp cơ sở là một
trong những nhiệm vụ quan trọng giữ vững ổn định chính trị, đập tan âm mưu của
các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, Đảng ta
luôn coi cơ sở là nền tảng của Đảng, quan tâm nâng cao sức chiến đấu, xây dựng
cơ sở thật sự là những pháo đài nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng.
Hơn nữa, chính quyền cấp xã còn có vị trí, vai trò quan trọng trong triển
khai thực hiện chính sách pháp luật, trong công cuộc phát triển KT – XH của
đất nước thời kỳ mới. Theo quy định của Hiến Pháp năm 2013 và Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, chính quyền cấp xã là cơ sở, là nền tảng, là
11


cầu nối giữa nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã, đại diện cho nhà nước
để thực thi quyền lực nhà nước, là nơi tiếp thu, triển khai, tổ chức, vận động
nhân dân, thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực nhằm tăng cường Đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát
triển KT- XH, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [28, tr.371]
Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể QLHCNN
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, AN-QP, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm
bảo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc
sống, nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh, hoạt

động có hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã đóng vai trò rất quan trọng
trong toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) và cung cấp dịch vụ công
phục vụ nhân dân.
Mặt khác chính quyền cấp xã còn là nơi lưu giữ nhiều nhất các giá trị lịch
sử và giá trị hiện thực tiến bộ của văn hóa quê hương, dân tộc Việt Nam góp
phần quan trọng trong việc giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng sâu sắc, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đời
sống văn hóa mới, đặc biệt là ở vùng nông thôn.
1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
Tại Điều 31, Luật số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về
“Luật tổ chức chính quyền địa phương”, thì cấp chính quyền địa phương ở xã
có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn như sau:
Thứ nhất, Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên
địa bàn xã.
Thứ hai, Quyết định những vấn đề của xã trong phạm vi được phân
quyền, phân cấp theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
12


Thứ ba, Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan HCNN cấp trên ủy
quyền.
Thứ tư, Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết
quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã.
Thứ năm, Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và
phát triển KT- XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã.
Chính quyền địa phương ở xã là cấp chính quyền địa phương gồm có
HĐND xã và UBND xã. Do đó chức năng, nhiệm vụ có sự khác nhau:
Tại Điều 33, Luật số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về

“Luật tổ chức chính quyền địa phương” có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND xã là:
1. Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND xã.
2. Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng,
chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu,
tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ
quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã.
3. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND,
Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND xã.
4. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu,
chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết;
phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình,
dự án của xã trong phạm vi được phân quyền.
5. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực
hiện nghị quyết của HĐND xã; giám sát hoạt động của Thường trực HĐND,
UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp
luật của UBND cùng cấp.
13


6. Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật này.
7. Bãi nhiệm đại biểu HĐND xã và chấp nhận việc đại biểu HĐND xã xin
thôi làm nhiệm vụ đại biểu.
8. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ
tịch UBND xã.
Tại Điều 35, Luật số 77/2015/QH 13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về

“Luật tổ chức chính quyền địa phương” quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
UBND xã:
1. Xây dựng, trình HĐND xã quyết định các nội dung quy định tại các
khoản 1, 2 và 4 Điều 33 của Luật này và tổ chức thực hiện các nghị quyết của
HĐND xã.
2. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân
cấp, ủy quyền cho UBND xã.
1.2. Cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể. Dù cách hiểu khác nhau nhưng cơ bản cán bộ bao hàm nghĩa chính là
bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy. Quan niệm một cách chung nhất, cán bộ là
khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một
tổ chức có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ
chức [ 40,tr.18].
Theo Từ điển tiếng Việt khái niệm “cán bộ” được hiểu là: “1. Người làm
công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước,
cán bộ khoa học, cán bộ chính trị; 2. Người làm công tác có chức vụ trong một
cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ”[40, tr.109].
14


Trong từ điển Việt – Nhật, danh từ cán bộ được dùng với nghĩa là người ở
hạng cao trong một đoàn thể, là (yếu nhân) nhân vật quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát,
dễ hiểu: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho

Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [28, tr.269]
Theo quy định của Luật cán bộ công chức năm 2008 do Quốc hội (khóa
XII) ban hành tại khoản 3, điều 4: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội; Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Từ những phân tích trên có thể khái quát khái niệm cán bộ theo quy định
tại Luật cán bộ công chức: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
1.2.1.2. Khái niệm về cán bộ chủ chốt:
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “chủ chốt” được hiểu là “quan trọng
nhất, có tác dụng làm nòng cốt” [40, tr.174]
Từ khái niệm gốc, CBCC là những người giữ chức vụ và trách nhiệm cao
trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy có vai
trò tham gia định hướng lớn, điều khiển hoạt động của bộ máy. Đó là những
người có trách nhiệm điều hành một tập thể, đơn vị, tổ chức thuộc thẩm quyền
của mình theo quy định để thực hiện nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức đó. Đây
là một bộ phận rất quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của tổ chức và
15


của cả HTCT. Ở tầm vĩ mô, họ có vai trò quyết định đến vận mệnh của quốc gia,
dân tộc.
Việc xác định CBCC hay không chủ chốt nên căn cứ vào chức vụ và trách

nhiệm cụ thể của mỗi loại cán bộ và đặt nó trong mối quan hệ của toàn hệ thống
tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, có cán bộ ở cương vị này trong tổ chức này thì chủ
chốt nhưng trong mối quan hệ khác, ở vị trí khác thì không phải là chủ chốt. Ví
dụ: Bí thư Đảng ủy xã là CBCC của xã nhưng không phải là CBCC của huyện
mặc dù cũng có thể tham gia vào Ban chấp hành (BCH) Đảng bộ huyện là
Huyện ủy viên.
Trong luận văn này, tác giả hiểu một cách chung nhất CBCC là những
người được bầu cử hay bổ nhiệm, đảm trách nhiệm vụ thuộc lĩnh vực hoạt động
được tổ chức/nhân dân tín nhiệm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu
quả hoạt động thuộc lĩnh vực hay đơn vị mình phụ trách.
1.2.1.3.Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã:
Đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã gồm nhiều chức danh nắm giữ các vị
trí có ảnh hưởng quyết định đến hệ thống tổ chức của một cấp. Là những người
đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống của tổ chức Đảng, chính quyền,
MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội; có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp triển
khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
các nhiệm vụ KT-XH trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách.
Với cách hiểu đó thì CBCC chính quyền cấp xã là công dân Việt Nam
trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, gồm những người
được bầu giữ chức vụ Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy xã; Chủ tịch, phó Chủ tịch
HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch MTTQ, Chủ tịch HND, Chủ
tịch HPN, Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội CCB là những người lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành trực tiếp và chịu trách nhiệm ở cơ sở theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm phát triển KT-XH, ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội.

16


1.2.2. Tầm quan trọng của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã

Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào, cán bộ và công tác cán bộ
cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố cơ bản
quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Mác - Ăng ghen khẳng
định: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng cần có con người sử dụng một thực
tiễn”[38, tr.181]. Lịch sử chứng minh mỗi chính đảng của một giai cấp muốn
giành và giữ chính quyền đều phải chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là đội ngũ CBCC- Đây là đại biểu trung thành của giai cấp mình, có khả năng
thực hiện những yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và giai
cấp đó đề ra, vì vậy phải chăm lo xây dựng một đội ngũ CBCC đáp ứng nhu
cầu, nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Ngay từ những năm đầu giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và
vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cán bộ của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn Việt Nam. Người cho rằng công việc thành công hoặc thất bại là do cán
bộ tốt hay kém “Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” [28, tr.54]. Mà
hầu hết CBCC chính quyền cấp xã là người địa phương, có quan hệ dòng tộc
và gắn bó với nhân dân địa phương. Vì vậy CBCC chính quyền cấp xã rất am
hiểu các phong tục tập quán, truyền thống dân tộc của địa phương, họ là người
tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự
quản của cộng đồng dân cư.
CBCC chính quyền cấp xã vừa là người đại diện nhà nước, vừa là người
đại diện cộng đồng, vừa là người sống cùng làng, cùng họ, vừa là người dân, là
những người trực tiếp gần gũi có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó, làm việc hàng
ngày với nhân dân. Họ thường xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của dân; nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng của dân để báo cáo, đề xuất với cấp trên kịp thời. Trên cơ
sở đó đặt ra chính sách đúng, giải quyết những yêu cầu, thắc mắc cũng như lợi
ích chính đáng của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cán bộ là vấn đề then
chốt quyết định thắng lợi trên mọi lĩnh vực. Người khẳng định: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
17



×