Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.34 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VŨ LỘC

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60340403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG QUỐC CHÍNH

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa được
sử dụng để bảo vệ một học vị nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận
văn đều được ghi rõ nguồn gốc tài liệu một cách rõ ràng./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Vũ Lộc




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Trương Quốc Chính,
thầy hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Học viện Hành chính, Phân viện
Tây Nguyên, Khoa Sau đại học, các khoa, bộ môn cùng quý thầy, cô giáo đã
giảng dạy cũng như giúp đỡ tận tình về mọi mặt để tôi hoàn thành tốt khóa
đào tạo thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công này.
Xin cảm ơn cơ quan, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa học./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Vũ Lộc


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ DẦU……………………………….……………………..…………..…1
1. Lý do chọn đề tài……………….................………….............….….….…1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn…………...……....….2
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn……………………………..…...……...5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn…………….........................6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn…........….....6
6. Đóng góp của luận văn………………..........................…..…........….…...6
7. Kết cấu của luận văn………………......................................…..….……..7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI
ĐUA, KHEN THƯỞNG....................................................................................8
1.1. Những vấn đề lý luận chung.......................................................................8
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng..............................................22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN .............................34
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển công tác thi đua, khen
thưởng qua các thời kỳ....................................................................................34
2.2. Đánh giá công tác thi đua, khen thưởng của tỉnh Phú Yên trong những
năm gần đây............................................................................... ..................39
2.3. Hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Phú Yên.............................................................................................. ..........59
2.4. Đánh giá chung......................................................................................76


Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH PHÚ YÊN…...................................................................... ….....…..82
3.1. Mục tiêu....................................................................................................82
3.2. Giải pháp...............................................................................................83
KẾT LUẬN ...................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................101
PHỤ LỤC.....................................................................................................103


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới phong trào thi đua yêu
nước và luôn nhắc nhở các cấp, các ngành phải coi trọng công tác thi đua.
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt nam, nhiều phong trào thi đua yêu nước

đã được phát động và trở thành cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân.
Các phong trào như "Bình dân học vụ", "Hũ gạo kháng chiến", "Mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt", "Thanh niên Ba sẵn sàng", "Phụ nữ
Ba đảm đang", “Đền ơn đáp nghĩa”, "Tuổi trẻ giữ nước", "Ngày vì người
nghèo" v.v. đã mang lại những hiệu quả to lớn, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước ngay từ
khi phát động phong trào, Người đã chỉ rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa thi đua với
lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, đây chính là minh chứng cho sự vận
dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể nước
ta. Người khẳng định: Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và
những người thi đua là những người yêu nước nhất.
Cùng cả nước, với truyền thống cách mạng bất khuất, kiên cường;
Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Phú Yên đã hưởng
ứng, đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước, đã thực hiện thi đua yêu
nước như là một phương thức lãnh đạo cách mạng, phương thức vận động
quần chúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong tất cả các mặt công tác phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị qua các thời kỳ.
Trong thời gian qua, các phong trào thi đua yêu nước tiếp tục được
quan tâm chỉ đạo, có bước phát triển rõ nét cả về bề rộng và chiều sâu, góp

1


phần quan trọng hoàn thành các chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV đã
đề ra cho nhiệm kỳ 2011-2015. Nhiều phong trào thi đua đã có sức lan tỏa
mạnh mẽ như phong trào: “Phú Yên chung sức, chung lòng xây dựng nông
thôn mới”, "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư",

thực hiện có hiệu quả mô hình “Cơ quan, đơn vị giúp đỡ xã, thôn (buôn) khó
khăn và cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức giúp đỡ hộ nghèo” và nhiều
phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả khác đã mang lại những kết quả to lớn,
tạo khí thế phấn khởi, hăng say trong các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi đua, khen
thưởng trong thời gian qua, nhất là quản lý nhà nước đối với công tác này của
tỉnh Phú Yên vẫn còn những hạn chế, bất cập tồn tại cần khắc phục. Những
tồn tại, hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả trong
công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tỉnh Phú Yên. Điều đó làm
cho công tác thi đua, khen thưởng chưa phát huy hết vị trí, vai trò của mình để
đóng góp cho sự phát triển của tỉnh. Xuất phát từ thực tiễn đặt ra vấn đề cần
phải tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại
trong công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng để thi đua, khen
thưởng thực sự trở thành công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, tạo động lực
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh Phú Yên
Xuất phát từ những lý do như vậy, tôi quyết định chọn vấn đề “Quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên” làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ Quản lý công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Công tác thi đua, khen thưởng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng việc
quản lý nhà nước và xã hội, làm tốt công tác này sẽ tạo ra động lực thúc đẩy
mọi người hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Đã có
nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu về công tác thi đua, khen thưởng

2


ở những khía cạnh, lĩnh vực, phạm vi khác nhau được công bố, có thể nêu ra
một số công trình tiêu biểu như:
* Một số sách chuyên khảo, tham khảo:

- Trương Quốc Bảo (2010): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- Trần Thị Hà (2013) - Trưởng Ban, Ban Trung ương: Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp
nhà nước, Mã số đề tài: 02/2010;
- PGS,TS Nguyễn Viết Vượng (2006): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về thi đua yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
NXB Lao động, Hà Nội;
- Viện Thi đua và Khen thưởng Nhà nước (1977): Những quy định cơ
bản về công tác thi đua và chế độ khen thưởng, Tài liệu lưu hành nội bộ.
Các công trình trên đã phần nào làm rõ những cơ sở lý luận cũng như
thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở nước ta
qua các thời kỳ từ khi thành lập nước đến nay; đi sâu phân tích thực trạng
trong công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở nước ta, những
mặt đạt được, những bất cập cần khắc phục; đồng thời đưa ra các giải pháp để
nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng góp
phần tạo ra động lực thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.
* Một số Luận văn Thạc sĩ:
- “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” (2015) - Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
công của Nghiêm Đức Dũng, Học viện Hành chính Quốc gia;

3


- “Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua khen thương giai đoạn 2011
– 2020” (2010) - Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công của Lê Xuân
Khánh, Học viện Hành chính Quốc gia;
- “Đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở địa

phương” (2007) – Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Hành chính công
Dương Thị Thanh, Học viện hành chính Quốc gia;
* Các Bài giảng tập huấn nghiệp vụ thi đua, khen thưởng của Ban Thi
đua – Khen thưởng Trung ương, các cuộc hội thảo, hội nghị do Ban Thi đua –
Khen thưởng Trung ương tổ chức, các báo cáo tổng kết hàng năm của Hội
đồng Thi đua- Khen thưởng trung ương, của các cụm, khối thi đua, ngoài ra
còn nhiều bài viết, tài liệu liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng trên
các tạp chí, trang điện tử ở trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, các công trình, đề tài nói trên chủ yếu đề cập đến các vấn đề
thuộc về lý luận và thực tiễn nói chung về công tác thi đua, khen thưởng; nội
dung liên quan đến quản lý nhà nước chưa thể hiện rõ, chưa có đề tài nghiên
cứu sâu về quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở tại địa phương để từ
đó có những đánh giá sát thực nhất, đồng thời đưa ra những giải pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi đua, khen thưởng, góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ của đơn vị, địa phương.
Các công trình, đề tài nói trên đã được tổng kết về mặt lý luận cũng
như thực tiễn của phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng.
Phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng gần 70 năm qua góp
phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Luật Thi đua, khen thưởng nhà nước và các văn
bản dưới luật, các văn bản tổng kết của đại hội thi đua yêu nước, các bài tham
luận của hội thảo, các sách đã in là tổng hợp trí tuệ của các nhà lý luận, các
nhà quản lý về công tác thi đua, khen thưởng cũng đều phải tiếp tục bổ sung

4


sửa đổi, nhất là trong thời đại bùng nổ về khoa học công nghệ. Cuộc sống vận
động, thay đổi từng ngày, từ đó đòi hỏi công tác quản lý nhà nước nói chung
và công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng cũng không ngừng phải

đổi mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội. Mặt khác, các nghiên
cứu trước đây về công tác quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen
thưởng mà tôi đã tham khảo, nói chung là đã có sự tổng kết, phân tích, bổ
sung, có nhiều đóng góp tích cực vào lý luận, cũng như thực tiễn nói chung về
quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng hiện nay. Tuy vậy, các
luận văn đề cập chủ yếu đến nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua,
khen thưởng ở các tỉnh, có những đặc thù khác tỉnh Phú Yên; các giải pháp,
những đề xuất đổi mới và nâng cao công tác quản lý về công tác thi đua, khen
thưởng khác với thực tiễn của tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng trên địa bàn
tỉnh Phú Yên và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
3.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua, khen
thưởng; hệ thống lại một số vấn đề lý luận chung về hoạt động quản lý nhà
nước đối với công tác thi đua, khen thưởng.
- Nghiên cứu khảo sát, phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động quản
lý nhà nước thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên; Đánh giá các yếu
tố tác động đến thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tỉnh Phú Yên những mặt được, những hạn chế, bất cập và rút ra những
nguyên nhân khách quan, chủ quan…

5


- Đề xuất giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác
này trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu là: hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng của tỉnh Phú Yên theo quy định pháp luật hiện hành về thi đua, khen
thưởng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: từ năm 2011 đến 2016
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận và cơ sở lý luận
Để đạt mục đích đề ra Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận
là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng; Luận văn được triển khai dựa vào phương pháp luận biện chứng duy
vật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài gồm:
- Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, tài liệu,
- Phương pháp hệ thống hoá và khái quát
- Phương pháp lô-gic và lịch sử
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua các kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đưa ra những
giải pháp phù hợp nhằm đưa chính sách của Đảng, Nhà nước về thi đua, khen
thưởng đi vào cuộc sống, có tác động tích cực đến nhận thức các cấp quản lý
về vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng đối với việc động viên, khích lệ mọi
người hăng hái thi đua thực hiện tốt công việc của mình. Từ đó nâng cao chất

6


lượng các hoạt động thi đua, khen thưởng, góp phần vào sự nghiệp phát triển
của địa phương.

Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo và giảng dạy, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác
thi đua, khen thưởng tại địa phương, đồng thời giúp bản thân thực hiện tốt
hơn nhiệm vụ chuyên môn trong công tác tham mưu triển khai có hiệu quả
công tác thi đua, khen thưởng của tỉnh Phú Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1.1. Những vấn đề lý luận chung
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
- Khái niệm thi đua:
+ Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua, thì thi đua là hiện tượng
tồn tại khách quan trong xã hội, Bác nói: “...Tưởng lầm rằng thi đua là một
việc làm khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày
chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: Từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở.
Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta
vẫn làm ruộng nay ta thi đua làm ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn. Mọi việc
đều thi đua như vậy” [10, tr. 656].

+ Theo Phêđôxêép nhà khoa học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô cho
rằng: Thi đua là sự đọ sức trong lao động và sáng tạo, mang đặc tính của con
người trong xã hội, được sinh ra bởi sự hợp tác lao động và bởi mối quan hệ
xã hội của con người trong quá trình sản xuất...
+ Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “Thi đua là việc cùng nhau đưa hết
khả năng ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt được thành tích tốt nhất trong
một hoạt động nào đó” [20, tr. 1599].
+ Theo Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003: “Thi đua là hoạt động có
tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt
được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [16, tr. 1].
Như vậy, thi đua là một hoạt động có tổ chức dựa trên nguyên tắc tự
nguyện. Nội dung thi đua được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc quy định.
Phong trào thi đua phải “Có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, dễ tuyên truyền, dễ thực
hiện; nội dung bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để

8


đề ra nội dung, phương pháp thi đua cụ thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện,
khả năng tham gia của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân” [5, tr. 3], “Xác định
rõ mục tiêu, phạm vi, đối tượng thi đua, trên cơ sở đó đề ra các chỉ tiêu và nội
dung thi đua cụ thể. Việc xác định nội dung và chỉ tiêu thi đua phải đảm bảo
khoa học, phù hợp với thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương và có tính khả
thi.” [6, tr. 3] và khi tặng danh hiệu phải dựa trên các căn cứ, tiêu chuẩn cụ
thể. Đó cũng là những điểm khác nhau giữa thi đua có tổ chức và thi đua tự
phát. Do vậy thi đua là hoạt động nhằm thu được kết quả nhất định, thi đua
phải đạt được thành tích tốt nhất.
Thi đua yêu nước chính là biện pháp xây dựng con người mới, rèn
luyện nhân cách cao đẹp cho người lao động. Thông qua thi đua để giáo dục,
động viên mọi người, nâng cao lòng yêu nước, ý thức giác ngộ giai cấp, trách

nhiệm công dân và tính cộng đồng xã hội; thi đua là hoạt động không thể
thiếu trong bất cứ giai đoạn nào, vì qua các phong trào thi đua, mỗi tập thể, cá
nhân không ngừng phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thi đua là sự "đọ sức" trong lao động và sáng tạo, mang đặc tính của
con người trong cộng đồng xã hội, được sinh ra bởi sự hợp tác lao động và
bởi mối quan hệ con người với con người trong lao động sản xuất. Thi đua
yêu nước làm cho người người đoàn kết, gắn bó và thân tình, cởi mở với nhau
hơn, bảo đảm lợi ích cho mình, cho tập thể và cho xã hội.
Thi đua là đòn bẩy mạnh mẽ của tiến bộ kinh tế xã hội, là trường học
giáo dục chính trị lao động và đạo đức cho nhân dân lao động. Chức năng chủ
yếu của thi đua xã hội chủ nghĩa là chức năng kinh tế: nâng cao hiệu suất của
sản xuất xã hội, đạt những kết quả cuối cùng cao nhất của nền kinh tế quốc
dân, đạt năng suất lao động cao hơn, tổ chức lao động một cách khoa học hơn.

9


Thi đua là quan hệ xã hội, là quan hệ thi tài, trong đó mọi người lao
động biểu lộ nghị lực của mình, những khả năng sáng tạo của mình. Dưới chủ
nghĩa tư bản thi đua biểu hiện thành cạnh tranh trong cuộc chạy đua nhằm
kiếm lợi nhuận nhiều hơn, thể hiện ở xu hướng muốn chiến thắng đối thủ
bằng mọi giá trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trái với cạnh tranh, một nhân tố
chia rẽ mọi người, làm cho mọi người đối lập với nhau, cô lập nhau, thi đua
xã hội chủ nghĩa xét về mặt khách quan đã làm cho mọi người đoàn kết trong
hoạt động lao động chung nhằm đạt đến mục đích chung.
Thi đua chỉ có trong xã hội xã hội chủ nghĩa cho nên bản chất của
phong trào thi đua yêu nước, không chỉ là tạo ra tiềm lực về vật chất, tinh thần
mà còn có tác dụng cải tạo người lao động, cải tạo con người, giúp con người
loại bỏ những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ để tiến bộ: “Thi đua là một cách rất

tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ” [11, tr. 270].
Trong quá trình đổi mới, đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, trước thời cơ và thách thức mới của tình hình quốc tế và
trong nước có nhiều biến đổi tác động, thi đua vẫn luôn là nhiệm vụ quan
trọng nhằm phát huy động lực tinh thần và vật chất tạo nên sức mạnh nội sinh
để lôi cuốn mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức tạo thành phong trào quần chúng
phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo, vươn lên lập thành tích
xuất sắc trên các lĩnh vực góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới,
đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay - nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, tổ chức tốt phong trào
thi đua sẽ là giải pháp tích cực nhất thủ tiêu sự cạnh tranh tự phát, tàn nhẫn và
tiêu diệt lẫn nhau do mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường gây ra. Ngược lại,
nó sẽ khơi dậy, khuyến khích, phát huy tối đa các nhân tố tích cực của cơ chế
thị trường thúc đẩy sản xuất, tính sáng tạo, tích cực của người lao động. Đồng

10


thời, góp phần nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp, nâng cao đời sống của
người lao động. Thi đua cũng góp phần giáo dục đào tạo con người và tạo
điều kiện phát triển con người một cách toàn diện.
- Khái niệm khen thưởng:
Ở nước ta, việc khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong
kiến trước đây. Nguyễn Trãi đã từng nói: Một Nhà nước mà thưởng phạt
nghiêm minh, kịp thời là Nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn
thưởng là Nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là
Nhà nước phồn vinh. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên đã
ghi rõ những hình thức khen thưởng, như sau:
- Khen thưởng người có công trong chiến trận.

- Khen thưởng người có công trong việc đi sứ.
- Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức.
- Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài.
- Khen thưởng người có lời tâu đúng.
- Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người
quyền quý cấp trên.
- Khen thưởng người có công làm thủy lợi.
- Khen thưởng người có tài văn chương.
- Khen thưởng người cao tuổi...
Đối tượng được khen thưởng là từ quan lớn đến dân thường, từ người
kinh đến người thuộc các dân tộc thiểu số, “Nam, phụ, lão, ấu” nếu có công
trạng đều được khen thưởng.
Hình thức khen thưởng cũng rất đa dạng như: Được ban họ vua, được
ghi công vào sử sách, được dựng bia ghi công, được phong chức, được
thưởng vàng bạc, được cấp ruộng đất, truy phong, cấp ruộng cho con cháu thờ
cúng...

11


Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc khen thưởng,
ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng phạt, trong đó khẳng định:
"Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn,
kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công" [9, tr. 163]. Quốc lệnh
nêu rõ 10 loại công việc và thành tích cần được kịp thời khen thưởng ngay,
gồm:
1. Nhà nào có 3 con tòng quân sẽ được thưởng;
2. Ai lập được quân công sẽ được thưởng;
3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng;

4. Ai ra trận can đảm phi thường sẽ được thưởng;
5. Ai làm việc một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng;
6. Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng mến
phục sẽ được thưởng;
7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ được thưởng;
8. Ai bắt được nhiều kẻ phản quốc sẽ được thưởng;
9. Ai liều mình về công việc sẽ được thưởng;
10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được thưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng đầu tiên hình thành bộ
máy làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta, cụ thể: Năm 1947, Bác lần
lượt ký các Sắc lệnh thành lập Viện Huân chương, Sắc lệnh đặt ra các Huân
chương Quân công, Huân chương Chiến sĩ, Huân chương Sao vàng, Huân
chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập; năm 1948: Huân chương Kháng
chiến; năm 1950: Huân chương Lao động. Tiếp đó Chính phủ cũng đã quy
định các danh hiệu Anh hùng Quân đội, Anh hùng Nông nghiệp, Anh hùng
Công nghiệp (năm 1952) để khen thưởng kịp thời những cá nhân và đơn vị có
thành tích trong cuộc kháng chiến kiến quốc.

12


Trong điều kiện hiện nay, khen thưởng vẫn giữ vai trò quan trọng, là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là một trong những công cụ quản lý của
cơ quan đơn vị nhằm khuyến khích động viên mọi tầng lớp xã hội tích cực
hăng hái lập thành tích trong lao động sản xuất và công tác
Trên cơ sở lý luận đó, Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003, đã quy
định: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và
khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [16, tr. 1].
- Khái niệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng

Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực
hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước ...
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là sự tác động, điều chỉnh
thường xuyên của nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động thi
đua, khen thưởng, để các hoạt động đó diễn ra theo quy định của pháp luật.
Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động của xã hội, vì vậy quản
lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là việc cần thiết khách quan, bởi vì: Thi
đua, khen thưởng tác động đến tất cả quần chúng nhân dân, tất cả các cấp, các
ngành, hoạt động rất đa dạng, phong phú và rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước.
Nhà nước quản lý công tác thi đua, khen thưởng bằng cách ban hành các
Luật, các Chỉ thị và những văn bản hướng dẫn cụ thể để thực hiện công tác thi
đua, khen thưởng; các chính sách về thi đua, khen thưởng; tuyên truyền, phổ
biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua,
khen thưởng; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi

13


đua, khen thưởng; giải quyết những khiếu nại tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật
về thi đua, khen thưởng.
Tuy nhiên, cho đến nay, quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng vẫn
còn có những mâu thuẫn, chồng chéo; làm ảnh hưởng không nhỏ đến tính
thống nhất và vai trò của thi đua, khen thưởng; tình trạng khen thưởng tràn
lan và ngược lại còn phổ biến, người xứng đáng được khen thì không khen;
hiện tượng “chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy huân chương…”
vẫn còn diễn ra, những hạn chế, bất cập này ít nhiều làm cho ý nghĩa của

công tác thi đua, khen thưởng bị lệch lạc, thậm chí bị lợi dụng. Với tồn tại
này, đòi hỏi cần phải có những giải pháp tốt nhất nhằm đem lại hiệu quả tối
ưu trong công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng có quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng lẫn
nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát bản chất của mối quan hệ thi đua và
khen thưởng: Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch. Thi đua là cơ
sở của việc khen thưởng. Thi đua trở thành nền tảng, trên cơ sở đó có thể lựa
chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu nhất, đầy đủ và kịp thời nhất cho việc
khen thưởng. Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời có tác dụng động
viên, giáo dục, nêu gương và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục.
Khen thưởng cần phản ánh đúng phong trào thi đua. Thưởng, phạt chính là
một công cụ quản lý của Nhà nước. Nhà nước thưởng, phạt nghiêm minh là
Nhà nước mạnh.
Thi đua yêu nước là động lực thúc đẩy cá nhân, cộng đồng hoàn thành
nhiệm vụ và là cơ sở cho việc khen thưởng. Bác Hồ đã chỉ ra bản chất tốt đẹp
của thi đua, đó là thi đua mang tình đồng chí, đồng đội, hỗ trợ, giúp đỡ nhau
cùng phát triển; thi đua là người đi trước hiểu biết, dẫn người đi sau, làm cho
mọi người cùng tiến bộ. Người nói: “Thi đua tăng cường đoàn kết, mà đoàn

14


kết đẩy mạnh thi đua. Đoàn kết ấy là đoàn kết thật sự và rất chặt chẽ” [1, tr.
112].
Khen thưởng là đánh giá kết quả của thi đua và là nhân tố thúc đẩy
phong trào thi đua phát triển. Khen thưởng phải gắn với thực hành phong trào
thi đua yêu nước và nhiệm vụ chính trị của đất nước, từng địa phương, từng
đơn vị. Để đạt được tiêu chí này, cần có sự lãnh đạo thống nhất, có sự phối
hợp giữa đảng, chính quyền với các đoàn thể nhân dân, bảo đảm các mặt hoạt

động thi đua ăn khớp với nhau để đạt được mục đích chung, mục tiêu chung
nhằm hoàn thành tốt những nhiệm vụ chính trị do Đảng, Nhà nước đề ra.
Khen thưởng đúng kịp thời sẽ thúc đẩy, mở đường cho phong trào thi
đua sôi nổi, thiết thực. Thi đua là hành động cách mạng, hành động tự
nguyện, tự giác của quần chúng. Do đó, cần động viên mọi người dân yêu
nước tự nguyện, tự giác tham gia phong trào thi đua. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi
đua là những người yêu nước nhất” [1, tr. 113]. Còn trong công tác khen
thưởng, công khai là cơ sở bảo đảm tính chính xác trong khen thưởng. Muốn
phong trào thi đua và công tác khen thưởng đạt kết quả tốt, cần công khai, dân
chủ trong bình xét, suy tôn, khen thưởng, góp phần tạo niềm tin cho mỗi cá
nhân, tổ chức tham gia, từ đó tiếp tục động viên, khuyến khích mọi người
phấn khởi, hăng hái, nỗ lực thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ chính trị được
giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Khen thưởng, động viên kịp thời
những tấm gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến nhằm phát triển
cái tốt để lấn át cái xấu, nhằm xây dựng con người mới, làm cho xã hội ngày
một tiến bộ.
Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không xuất
phát từ việc tổ chức các phong trào thi đua như: Khen thưởng những tấm
gương quả cảm cứu người, cứu tài sản của nhà nước và nhân dân, khen

15


thưởng thành tích kháng chiến, khen thưởng đối ngoại, khen thưởng những
người có thành tích cống hiến lâu dài trong các cơ quan, tổ chức đoàn thể...,
song các hình thức khen thưởng này cũng có quan hệ nhất định với thi đua, nó
cũng chịu ảnh hưởng nhất định từ các phong trào thi đua yêu nước, từ truyền
thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
1.1.3. Những quan điểm cơ bản về công tác thi đua, khen thưởng

- Quan điểm Mác -Lê nin về vấn đề thi đua
+ C.Mác là người đầu tiên nghiên cứu một cách khoa học về bản chất và
nội dung thi đua. Nghiên cứu quá trình hợp tác lao động sản xuất giữa con
người và con người, thấy được hiện tượng một cách khách quan, thi đua nảy
nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và kế hoạch của
con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt
nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng từng người.
Sự hợp tác lao động tạo ra sức mạnh tập thể lớn hơn sức mạnh của từng
lao động cá nhân cộng lại, đây là một phát hiện hết sức có ý nghĩa. Chính thi
đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và có kế
hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội đẻ ra thi đua, thi đua làm tăng năng
suất lao động của người công nhân. Những quan điểm cơ bản của Mác, Ăng
ghen về cạnh tranh và thi đua đặt nền tảng tư tưởng về tổ chức thi đua hiện
nay.
+ Lê nin đã chỉ rõ mục đích của thi đua là nhằm tăng năng suất lao động,
tăng tính tổ chức, kỷ luật, trình độ kỹ thuật của người lao động và thực hành
tiết kiệm trong sản xuất, kinh doanh. “Tổ chức thi đua giữa (tất cả) các công
xã tiêu dùng và sản xuất trong nước nhằm nâng cao không ngừng tính tổ
chức, tính kỷ luật, năng suất lao động, nhằm chuyển lên một trình độ kỹ thuật
cao hơn, nhằm tiết kiệm lao động và sản phẩm; nhằm giảm dần từng bước
ngày lao động xuống 6 giờ trong một ngày” [14, tr. 94]. Lê-nin chỉ ra sự khác

16


biệt giữa cạnh tranh và thi đua: “Những người xã hội chủ nghĩa chưa hề bao
giờ đả kích việc thi đua cả, mà chỉ đả kích sự cạnh tranh thôi. Cạnh tranh là
một thứ hình thức thi đua đặc biệt mà xã hội tư bản chủ nghĩa vốn có, là sự
giành giật miếng ăn, giành giật ảnh hưởng và địa vị trên thị trường giữa
những người sản xuất riêng lẻ.” [14, tr. 185]. Ông cho rằng chỉ có trong điều

kiện xã hội mới, tính tháo vát, tinh thần thi đua, óc sáng kiến của đông đảo
quần chúng nhân dân mới được phát huy rộng rãi trên quy mô thật sự to lớn.
Thi đua làm cho người lao động sau hàng thế kỷ lao động cho người khác,
phải lao dịch nô lệ cho bọn bóc lột, lần đầu tiên họ đã có thể lao động cho
mình và lao động dựa trên tất cả những thành quả của kỹ thuật hiện đại và của
văn hóa hiện đại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen
thưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về thi đua, thi đua xã hội chủ nghĩa vào hoàn
cảnh nước ta và đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối
chính trị, coi thi đua yêu nước là biểu hiện của lòng yêu nước của Việt Nam.
Người đã làm cho thi đua yêu nước trở thành một phương pháp cách mạng,
ngay từ khi giành được chính quyền Người đã khởi xướng việc tổ chức các
phong trào thi đua trên các lĩnh vực đời sống xã hội chế độ xã hội mới trong
hoàn cảnh thù trong giặc ngoài.
Thi đua không chỉ là một cá nhân đảm nhiệm, không phải là một
ngành, một lĩnh vực, thi đua theo Người là: Người người phải thi đua, ngành
ngành phải thi đua. Ai làm việc gì, nghề gì cũng thi đua làm cho nhanh, cho
tốt, cho nhiều
“ Quân đội thi đua giết giặc lập công,
- Công nhân thi đua tăng gia sản xuất,

17


- Nông dân thi đua sản xuất lương thực,
- Trí thức thi đua sáng tác, phát minh,
- Cán bộ thi đua cần kiệm liêm chính,
- Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến”

Theo Người: Hễ là người Việt nam yêu nước thì phải thi đua, thi đua là
yêu nước. Thi đua là một cách yêu nước thiết thực nhất, những người thi đua
là những người yêu nước nhất. Nước nhà đang kháng chiến và kiến quốc, mục
đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết
chóng thành công. Người khẳng định rõ: “Thật ra, công việc hàng ngày chính
là nền tảng thi đua” [10, tr. 658]. Đây là luận điểm có giá trị bổ sung và phát
triển lý luận Mác-Lênin về thi đua trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Người, thi đua phải có kế hoạch, có nội dung cụ thể, không làm
chung chung, được chăng hay chớ. Người nhấn mạnh thi đua: “Phải có kế
hoạch tỷ mỷ. Kế hoạch ấy phải do từng đơn vị nhỏ, từng gia đình, từng cá
nhân bàn bạc kỹ, hiểu biết thấu, vui vẻ làm. nghĩa là phải sao cho mỗi nhóm,
mỗi người tự giác, tự động… Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng,
đúng mực. khi đặt kế hoạch phải tuyệt đối tránh sự sơ xuất, đại khái, quá cao,
phiền phức, miễn cưỡng” [11, tr. 270]. Và kết quả thi đua không phải được
một lần rồi đóng đấy, kết quả thi đua phải đạt chất lượng, có sự phát triển về
phong trào và sự cố gắng liên tục không ngừng nghỉ. Người chỉ rõ: “Mức thi
đua phải tiến dần mãi và tiến mãi mãi. Những người và những nhóm hiện nay
đã đạt được mức cao, thì phải làm cho chất lượng tốt hơn nữa và phải gắng
tiến lên nữa, giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp. Trí
khôn, sáng kiến, học hỏi, tiến bộ và tinh thần hy sinh của người ta không có
giới hạn, nó cứ tiến mãi. Cho nên mức thi đua cũng không có hạn, nó cũng
tiến lên mãi” [11, tr. 472].

18


"Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng" [11, tr. 270]: Cần có sự lãnh đạo
thống nhất, có sự phối hợp giữa đảng, chính quyền với các đoàn thể nhân dân,
bảo đảm các mặt hoạt động thi đua ăn khớp với nhau, nhằm vào mục đích
chung, vào mục tiêu thi đua nhằm hoàn thành tốt những nhiệm vụ chính trị do

Đảng, Nhà nước đề ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mỗi ngành, mỗi nơi thi đua, cần đặt một
khẩu hiệu mấu chốt cho phong trào thi đua ở đó để mọi người nhằm theo đó
mà cố gắng phấn đấu thực hiện. Nghệ thuật tổ chức lãnh đạo phong trào thi
đua yêu nước biểu hiện ở việc đề ra được tên phong trào với những khẩu hiệu
hành động, tuyên truyền sắc bén, sát đúng với tình hình và nguyện vọng, lợi
ích của quần chúng nhân dân.
Thi đua phải có kiểm tra: Muốn lãnh đạo phong trào thi đua thành
công là phải có kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở phải
thực hiện việc kiểm tra cho đúng, nhằm khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu
điểm trong các phong trào thi đua. Sau mỗi đợt thi đua phải có kiểm tra, tổng
kết, phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ
những người kém cỏi.
Các cấp uỷ đảng, công đoàn và đoàn thanh niên cần giải thích cặn kẽ cho
người lao động hiểu rõ các nghị quyết của đại hội Đảng hoặc hội nghị ban
chấp hành trung ương, các chính sách của nhà nước. Công việc đó phải làm
một cách sâu rộng và liên tục nhưng vui vẻ, nhẹ nhàng, làm sao cho mọi
người phấn khởi, hăng hái tham gia thi đua hoàn thành tốt kế hoạch công tác
của mình.
- Quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam về công tác thi
đua, khen thưởng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, về cách thức tổ chức phong
trào thi đua, về kết quả thi đua được Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo

19


và thực sự các phong trào thi đua có đóng góp to lớn trong cuộc cách mạng
đổi mới của đất nước, cuộc cách mạng coi tầm quan trọng của con người, coi
con người là trung tâm và các phong trào thi đua, khen thưởng hướng đến

khuyến khích người lao động trực tiếp, người có công trong lao động.
Sau 30 năm đổi mới, tiếp tục lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh các
phong trào thi đua yêu nước đã gặt hái được nhiều thành công lớn trên mọi
miền của tổ quốc, từ trung ương tới địa phương, từ miền xuôi đến miền
ngược, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh quốc phòng đều được phát động rộng rãi, trở thành động lực,
niềm tin yêu của người dân vào công cuộc đổi mới của Đảng và đất nước.
Ngày 3/6/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35/CT-TW về đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới. Trong đó, đảng ta đã
khẳng định rõ trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, trước những thời
cơ và thách thức vô cùng to lớn, công tác thi đua, khen thưởng càng có vai
trò, vị trí hết sức quan trọng. Cần tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh coi
thi đua, khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây
dựng con người mới, thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên
tục hàng ngày. Khẩu hiệu thi đua chung trong giai đoạn mới này là: "Tất cả vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” [2, tr. 2].
Sau khi tổng kết năm năm thực hiện Chỉ thị 35/CT /TW của Bộ Chính
trị, ngày 21/5/2004, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị 39/CT/TW về
việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi
dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Trong đó, Đảng ta đã đánh giá:
“Các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp đã tổ
chức được nhiều phong trào thi đua có tác dụng thiết thực” [3, tr. 1] và khẳng
định rõ: Tiếp tục quán triệt nội dung đổi mới công tác thi đua, khen thưởng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và tinh thần Chỉ thị số 35/CT-

20


×