Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.09 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

NGUYỄN NGỌC THƯ

QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.80.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2017


LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRỊNH DOÃN CHÍNH
Phản biện độc lập:
PGS, TS……………………
PGS, TS……………………
Phản biện:
PGS, TS……………………
PGS, TS……………………


PGS, TS……………………

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án Tiến Sĩ Trường Đại học Khoa
học Xã hội Và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào lúc … giờ … , ngày … tháng … năm 2017
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
Văn, thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình phát triển của nhân loại đã khẳng định, bất cứ một quốc gia dân tộc
nào, muốn phát triển xã hội bền vững, phải có sự phát triển thống nhất, đồng bộ và
hài hòa giữa các mặt, các yếu tố, các lĩnh vực của đời sống xã hội, như: kinh tế, văn
hóa, chính trị, đạo đức, pháp luật và các yếu tố tinh thần khác... Trong đó, kinh tế và
văn hóa là hai yếu tố đóng vai trò quan trọng, xuyên suốt và quyết định nhất với con
người và xã hội. Phát triển kinh tế để thỏa mãn nhu cầu đời sống vật chất của con
người; còn phát triển văn hóa là để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ đời
sống tinh thần, tạo nền tảng tinh thần cho xã hội.
Như vậy, trong sự phát triển kinh tế - xã hội, giữa kinh tế và văn hóa luôn có
quan hệ biện chứng không tách rời nhau. Trong đó, phát triển kinh tế là tiền đề, là
điều kiện và là cơ sở vật chất quyết định sự phát triển của văn hóa. Ngược lại,
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần vừa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế.
Quá trình đổi mới ở nước ta nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
cũng chính là quá trình hiện thực hóa quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, là quá trình làm cho kinh tế thành phố trở thành điều kiện, cơ sở

vật chất để phát triển văn hóa; đồng thời, phát triển văn hóa ở thành phố trở thành
nền tảng tinh thần là mục tiêu, là động lực cho phát triển kinh tế. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII khẳng định, trong quá trình phát triển đất nước, phải “bảo đảm
sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát
triển xã hội bền vững”1.
Thành phố Hồ Chí Minh với vị trí, vai trò là “một đô thị đặc biệt, một trung tâm
lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, - đào tạo, khoa học – công nghệ, đầu mối giao lưu
và hội nhập quốc tế; là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và lan tỏa lớn đối với vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị rất quan trọng của cả nước” 2. Trong
giai đoạn đổi mới Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng
góp một tỉ trọng lớn vào nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển, còn
tồn tại nhiều mặt yếu kém, đặc biệt là việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập. Về kinh tế, phát triển kinh tế ở
11

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.104.
22

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X,
tr.56.


2

Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục. “Tăng trưởng kinh tế
chưa tương ứng với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố. Cơ cấu nội bộ các
ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh
chưa cao; tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn thấp,

quy mô, tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ; kết quả hợp tác phát triển với
các địa phương còn hạn chế” 1. Chính vì vậy, phát triển kinh tế chưa thực sự là điều
kiện, là cơ sở vật chất bền vững để phát triển văn hóa. Về văn hóa, phát triển văn hóa
chưa tương xứng với vai trò, vị trí của Thành phố là một trung tâm văn hóa lớn của
vùng và cả nước. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội
nhập quốc tế. Khoa học - công nghệ chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy kinh tế
- văn hóa - xã hội. Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chậm được khắc phục,
phát triển giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng thực tiễn đòi hỏi, y tế còn
nhiều mặt yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của người dân. Với thực
trạng ấy văn hóa chưa thực sự phát huy vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
tiêu và động lực phát triển kinh tế.
Như vậy, với thực trạng tồn tại trên, Thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu trở
thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học - công nghệ của Đông Nam Á; góp
phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa như Nghị quyết 20 của Bộ chính trị đặt ra thì Thành phố phải phát triển
toàn diện các mặt và giải quyết đồng bộ các quan hệ xã hội, trong đó đặc biệt quan
tâm đến việc giải quyết tốt các quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa.
Đây là vấn đề vừa mang tính quy luật vừa mang tính cấp thiết để phát triển Thành
phố Hồ Chí Minh bền vững. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề
“Quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là một đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và nhiều nhà kinh tế chính trị
trong nước và nước ngoài, dưới các hình thức và góc độ khác nhau. Tựu chung lại
các công trình nghiên cứu theo các hướng như sau:
Ở nước ngoài, trước hết ở Liên Xô có các công trình: “Những vấn đề triết học
của văn hóa” (1997) của Actanopxki, S.N Leningrat; “Tính kế thừa trong phát triển
văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội” (1997) của Cairan V.I. Mátxcơva;
“Triết học văn hóa” (1975) của Migolatep A.A. Mátxcơva. Thứ hai, ở phương Tây có

1

Nghị quyết 16 - NQ/TW của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2020 (Ban hành ngày 10/08/2012).


3

các công trình tiêu biểu: “Tạo dựng nền văn minh chính trị, của làn sóng thứ ba”
(1996) của Alvin Toffler và Heidi Toffler, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Văn hóa
là hình thái toàn diện của hệ thống thể chế (kinh tế, chính trị, gia đình, giáo dục, tín
ngưỡng và giải trí con người cùng có chung trong xã hội)” do J.H. Fitcher viết - Trần
Văn Đĩnh dịch (1972). Thứ ba, ở châu Á, Trung Quốc có các công trình nghiên cứu
của Lưu Đôn (1977), “Thử bàn về quy luật đặc thù của phát triển văn hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường”; “Cải cách thể chế văn hóa” (1996) của Khang Thúc Chiêu
chủ biên; ở Hàn Quốc có công trình nghiên cứu của Kyong Dong Kim (2000) “Văn
hóa trong sự phát triển của tư bản chủ nghĩa ở khu vực Đông Á”.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về kinh tế và văn hóa có ba hướng chính.
Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu về kinh tế và phát triển kinh tế đó là:
“Kinh tế phát triển” (Nxb. Lao động, Hà Nội, 2003) của GS.TS. Phạm Thúc Huân;
“Lựa chọn để tăng trưởng bền vững” (Nxb - Tri thức, 2010) của TS. Nguyễn Đức
Thắng chủ biên; “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam - Những rào cản phải vượt qua”
(Nxb. Lý luận chính trị, 2005) của GS. TS. Nguyễn Văn Thường (chủ biên); “Tốc độ
và chiến lược tăng trưởng kinh tế Việt Nam” (Nxb. Đại học kinh tế quốc dân, 2006)
v.v...
Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu về văn hóa và phát triển văn hóa, tiêu
biểu như: “Văn hóa - mục tiêu và động lực phát triển xã hội” (2000) của Trần Bạch
Đằng; “Văn hóa và con người” (Nxb. Văn hóa thông tin, 2006) của Nguyễn Trần Đạt;
“Bản sắc văn hóa Việt Nam” (Nxb. Văn học, 2002) của PGS Phan Ngọc; “Sự hình
thành về cơ bản hệ thống tư tưởng yêu nước Việt Nam"và "Giá trị tinh thần truyền

thống của dân tộc Việt Nam” (2000) của GS. Trần Văn Giàu, v.v...
Hướng thứ ba, những công trình nghiên cứu về kinh tế và phát triển kinh tế, văn
hóa và phát triển văn hóa, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về quan hệ giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa trong sự phát triển chung của xã hội, như: “Những
vấn đề đạo đức trong kinh tế thị trường” (Viện thông tin KHXH, Hà Nội, xuất bản
năm 1996); “Văn hóa với sự phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” của Lê Quang Thiêm, chủ biên năm 1998; “Văn hóa trong sự phát triển kinh tế
- xã hội” (2006) của TS. Lê Thanh Sinh; “Văn hóa - mục tiêu, động lực phát triển xã
hội” (2000) của Trần Bạch Đằng; “Về một số động lực phát triển kinh tế, xã hội hiện
nay” (của GS. Lê Hữu Tầng chủ biên), v.v...
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, đề cập đến kinh tế và phát triển kinh tế, văn
hóa và phát triển văn hóa, quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa,
có các công trình nghiên cứu và các tác phẩm giá trị phải kể đến: “Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển 1698 – 1998” của Hồ


4

Hữu Nhật chủ biên (1999); “Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh con người và văn
hóa trên đường phát triển” của nhiều tác giả (2002); “Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh thế kỉ XX những vấn đề lịch sử - văn hóa” của Nguyễn Thế Nghĩa, Lê Hồng
Liêm (chủ biên, 2002), v.v...
Nhìn chung các đề tài, các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập khá
sâu sắc các khía cạnh của kinh tế và phát triển kinh tế, văn hóa và phát triển văn
hóa, quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa trên cơ sở đánh giá được
các thành tựu của Đảng, nhân dân ta, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố
đã đạt được trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng. Đồng thời chỉ ra được những thực trạng, nguyên nhân dẫn đến yếu
kém và đã đưa ra một số nhiệm vụ, giải pháp khắc phục. Đây là những đóng góp
quan trọng, cần thiết, cần kế thừa và phát triển trong đề tài quan hệ giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài từ góc độ triết học, luận án luận giải một cách có hệ
thống một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó,
đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự phát triển không hài hòa và
đồng bộ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh,
đề xuất phương hướng và giải pháp mang tính định hướng cho việc giải quyết
quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ của đề tài:
Một là, trình bày, phân tích những vấn đề lý luận chung về quan hệ giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, trên cơ sở đó bổ sung một số cơ sở lý luận khoa
học để tiếp tục phát triển, hoàn thiện quan hệ đó ở Thành phố Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới.
Hai là, trình bày, phân tích nội dung thực chất về quan hệ giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa và những nhân tố tác động đến quan hệ giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
Ba là, trình bày thực trạng về quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, đề xuất phương hướng và giải
pháp cơ bản mang tính định hướng giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.


5

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài luận án tập trung nghiên
cứu về quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển

kinh tế và phát triển văn hóa để nghiên cứu và trình bày luận án. Đồng thời luận án sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như lôgich và lịch sử; phân tích và
tổng hợp; khái quát hóa, trừu tượng hóa; phương pháp hệ thống - cấu trúc; phương
pháp thống kê... để nghiên cứu và trình bày luận án.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, từ việc làm rõ những vấn đề lý luận chung về kinh tế và văn hóa, quan hệ
biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, luận án đã chỉ ra nội dung
của quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới.
Hai là, trên cơ sở hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận chung cũng như
trình bày, phân tích tính đặc thù của quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, qua đó luận án khẳng định quan hệ biện chứng
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh tất yếu, có
tính quy luật của sự phát triển xã hội từ đó đề xuất những phương hướng và giải
pháp nhằm giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi mới.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án đã góp phần trình bày, phân tích làm sáng tỏ một
cách hệ thống những vấn đề lý luận về kinh tế, phát triển kinh tế và văn hóa, phát triển
văn hóa, quan hệ tác động qua lại giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa trong
sự phát triển xã hội.
Về ý nghĩa thực tiễn, trên cơ sở làm rõ nội dung, đặc điểm và thực trạng của
việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn hóa ở Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời kỳ đổi mới, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp mang tính
định hướng góp phần giúp cho Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh,
các nhà kinh tế, các nhà đầu tư đưa ra nhiệm vụ, giải pháp trong quản lý, hoạch
định chính sách phát triển bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.



6

7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


7

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA
VÀ QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA TRONG LỊCH SỬ
1.1.1. Quan điểm về kinh tế và phát triển kinh tế
Quan điểm về kinh tế
Trong các hoạt động của con người, hoạt động sản xuất vật chất hay hoạt động kinh tế
là một trong những hoạt động đầu tiên, chiếm vị trí quan trọng bậc nhất, trực tiếp quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của con người và quyết định đến tất cả các hoạt động khác của xã
hội. Không có hoạt động kinh tế thì không có hoạt động khác. Bởi, hoạt động kinh tế đã tạo
ra điều kiện và phương tiện cho con người sinh sống, tồn tại và phát triển.
Vì vậy, kinh tế và phát triển kinh tế luôn là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên để đánh
giá mức sống, thu nhập của mỗi gia đình, cộng đồng người, một quốc gia dân tộc phát triển
hay không phát triển, giàu mạnh hay lạc hậu yếu kém. Kinh tế là phạm trù kinh tế học ra đời,
tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của con người. Song chỉ khi xã hội loài người phát
triển đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi đó con người mới đủ tri thức và đưa ra những
khái niệm về chúng. “Kinh tế” và “phát triển kinh tế” luôn trở thành đề tài mang tính thời sự
của mọi thời đại, mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia dân tộc, mọi cá nhân gia đình.
Ở phương Đông, thuật ngữ “kinh tế” xuất hiện rất sớm. Trong sách cổ Chu dịch của

Trung Quốc đã sử dụng hai từ “kinh tế”. Thuật ngữ “kinh tế” sau đó được đề cập đến trong
các văn bản đời nhà Tùy, nhà Tống với nguyên nghĩa “kinh bang tế thế”, tức là “sửa nước,
cứu đời” hoặc “kinh thế, tế dân” là “trị đời giúp dân”.
Ở phương Tây, thuật ngữ “kinh tế” xuất hiện sớm trong các tác phẩm Kinh tế luận của
nhà tư tưởng Hy Lạp Xênophon (430-345 TCN) đó là “quản lý gia đình”, tức là quản lý các
mặt hàng sản xuất và sinh hoạt trong gia đình chủ nô”.1 Aritxtốt (384-322 TCN), khi đề cập
tới thuật ngữ kinh tế, ông cho rằng “của cải thực tế” (của cải tự nhiên) là toàn bộ giá trị sử
dụng. Và tất cả những hoạt động gắn liền với việc tạo ra giá trị sử dụng là hoạt động kinh tế.
Trong từ điển bách khoa Việt Nam, kinh tế được định nghĩa:
1. “Tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước liên quan đến toàn bộ
quá trình trong một phần của tổng quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các
sản phẩm xã hội”.
1

Phạm Thúc Huân (2008), Kinh tế phát triển, Nxb. Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 7.


8

2. “Tổng các mối quan hệ trong quá trình sản xuất một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định trong tổ chức và hoạt động của cơ sở hạ tầng của xã hội, bao gồm các ngành kinh tế, kỹ
thuật, các loại hình sản xuất tương ứng. Nền kinh tế quốc dân của một nước bao gồm các
ngành, các vùng; lãnh thổ, các cơ sở và các loại hình sản xuất và bao gồm các khâu của nền
sản xuất xã hội (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng) trên toàn bộ lãnh thổ của một nước.
Mỗi một phương thức sản xuất đều có một nền kinh tế riêng. Mỗi một nền kinh tế đều do
các quan hệ sản xuất cũng như tính trình độ của lực lượng sản xuất quy định”1.
Tóm lại, kinh tế là một phạm trù rộng lớn, dù lý giải bằng cách này hay cách khác, theo
tác giả: Kinh tế là tổng thể giá trị vật chất do thiên nhiên trao tặng con người và toàn bộ giá
trị sản phẩm vật chất do con người sáng tạo ra trong lao động sản xuất, nhằm thỏa mãn nhu
cầu sống của mình. Kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định nhất đến sự tồn tại và phát triển

của con người và xã hội, là tiềm lực, sức mạnh của một quốc gia, dân tộc. Kinh tế mang tính
lịch sử, xã hội rõ rệt.
Quan điểm về phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là quá trình tăng trưởng mọi mặt của nền kinh tế, từ số lượng, chất
lượng, chỉ tiêu và hiệu quả của nền kinh tế đến cơ cấu và khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế; đồng thời có sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống, tạo nên sự tăng
tiến của toàn bộ hệ thống xã hội. “Phát triển kinh tế là sự gia tăng về số lượng và chất lượng
của nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định, các chỉ tiêu kinh tế và hiệu quả của
nền kinh tế, hiệu quả đầu tư, cơ cấu kinh tế, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế so với nước
khác trong khu vực và thế giới”2.
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về năng lực của cải vật chất đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ của xã hội...3. “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hoặc sản lượng tính bằng toàn
bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định”4.
Từ những quan niệm trên có thể thấy, bản chất của tăng trưởng kinh tế là sự thay đổi về
lượng của nền kinh tế, còn phát triển kinh tế phản ánh những thay đổi về chất và lượng của
nền kinh tế. Do vậy, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là hai khái niệm có quan hệ mật
thiết với nhau. Tăng trưởng kinh tế không phải là phát triển kinh tế nhưng là điều kiện cần để

1

Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2006), Từ điển bách khoa Việt Nam,
tập 2, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 584.
2

Trần Bình Trọng (2010), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, tr.77.

3

Nguyễn Đức Thành (2010), Lựa chọn để phát triển bền vững, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 30


4

Nguyễn Văn Nam (2005), Triết lý phát triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 17.


9

làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội và tác động trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế
nên tăng trưởng kinh tế là phương tiện, là điều kiện, là tiền đề cho phát triển kinh tế.
1.1.2. Quan điểm về văn hóa và phát triển văn hóa
Quan điểm về văn hóa
Văn hóa, thực chất là tổng thể những giá trị vật thể và phi vật thể (vật chất và tinh
thần), được con người sáng tạo, kết tinh và phát triển trong quá trình hoạt động thực
tiễn của mình. Văn hóa đã tham gia “tái tạo” con người, duy trì sự bền vững và trật tự
xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, là điều kiện để đánh giá
khả năng trình độ phát triển và văn minh của con người và xã hội. Nhưng việc lý giải
văn hóa là gì, trong tiến trình lịch sử loài người có nhiều quan điểm khác nhau. Luận
án đã đề cập tới các quan điểm về văn hóa như: quan điểm phương Đông; quan điểm
phương Tây; quan điểm UNESCO; quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa.
Tóm lại, văn hóa là một phạm trù rộng lớn, dù lý giải bằng cách này hay cách
khác, theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì trong phạm vi luận án này, theo tác giả: Văn
hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra,
bằng quá trình hoạt động thực tiễn trong suốt tiến trình lịch sử của mình. Nó được thể
hiện qua phong tục, tập quán, lối sống, cách sống, ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng, nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con
người và cộng đồng quốc gia, dân tộc, là đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt sự khác
nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, thời kỳ lịch sử này với thời kỳ lịch sử khác.

Phân loại các loại hình văn hóa và chức năng cơ bản của văn hóa
Phân loại các loại hình văn hóa, có thể có nhiều cách phân chia, nhưng khái quát
lại, văn hóa bao hàm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần hay văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể.
Chức năng cơ bản của văn hóa, theo tác giả, văn hóa có bốn chức năng cơ bản:
Thứ nhất, văn hóa có chức năng giáo dục và hoàn thiện con người; Thứ hai, văn hóa
thực hiện chức năng tổ chức, điều chỉnh con người và xã hội theo những mục tiêu nhất
định; Thứ ba, văn hóa có chức năng định hướng phát triển; Thứ tư, văn hóa có chức
năng kế thừa và lưu truyền.
Quan điểm về phát triển văn hóa
Vận động và phát triển là quy luật chung, phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng. Văn
hóa cũng như mọi sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội, luôn nằm trong quá trình biến


10

đổi và phát triển không ngừng. Phát triển văn hóa là sự vận động và phát triển từ thấp
đến cao, sự thay đổi từ nền văn hóa này sang một nền văn hóa khác là hiện tượng
thường xuyên xảy ra trong lịch sử. Văn hóa phát triển theo những quy luật nhất định.
Việc nhận thức đúng đắn quy luật phát triển của văn hóa là cơ sở đưa ra quan điểm
khoa học về phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, sự vận động và phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh
tế. Thứ hai, cùng với sự tác động và quy định của kinh tế, phát triển văn hóa còn chịu
sự tác động và quy định của chính trị. Thứ ba, văn hóa phát triển không những bị tác
động và quy định của kinh tế, chính trị mà còn phải tuân thủ quy luật vận động phát
triển của văn hóa đó là tính kế thừa. Thứ tư, phát triển văn hóa phải tăng cường giao
lưu tiếp biến văn hóa. Thứ năm, phát triển văn hóa chịu sự chi phối của sự tác động qua
lại giữa các loại hình văn hóa.
Như vậy, từ việc nghiên cứu và phân tích quy luật vận động và phát triển văn hóa,
cũng như từ quan điểm phát triển văn hóa của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam,

luận án rút ra: Phát triển văn hóa chính là tăng trưởng các giá trị vật chất và giá trị
tinh thần, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng con người, từng khu dân cư và toàn xã
hội, trở thành nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần của xã hội, qua đó tăng cao giá
trị sống của con người, tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển, trong đó có kinh tế.
“Nội dung cơ bản của phát triển văn hóa là tăng trưởng các giá trị vật chất - tinh thần
gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ văn hóa xã hội bức xúc, nhằm tôn vinh và
phát triển toàn diện con người”1
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA TRONG LỊCH SỬ
1.2.1. Vai trò của phát triển kinh tế với phát triển văn hóa
Kinh tế và văn hóa là hai bộ phận cốt lõi quyết định nhất đến sự sống còn, đến
chất lượng cuộc sống của mỗi con người và mỗi quốc gia dân tộc, biểu hiện trên hai
phương diện, đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Do vậy, kinh tế và văn hóa là “trụ
cột” tạo nên sự vững chắc cho ngôi nhà xã hội, là “xương sống” cho cơ thể xã hội phát
triển mạnh mẽ và bền vững. Tuy nhiên trong tiến trình lịch sử của nhân loại có nhiều
quan điểm khác nhau, luận án đề cập tới quan điểm của phương Đông, quan điểm của
phương Tây,quan điểm UNESCO; quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa. Tóm lại theo tác giả, hai yếu tố này có quan hệ biện chứng
không tách rời nhau, luôn kiềm hãm hoặc bổ sung hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
1

Huỳnh Khái Vinh (2000), Phát triển văn hóa, phát triển con người, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 7.


11

Trong đó, phát triển kinh tế là điều kiện và là cơ sở vật chất quyết định sự phát triển
văn hóa xã hội.
Thứ nhất, kinh tế phát triển sẽ đảm bảo đầy đủ những điều kiện, phương tiện vật

chất đáp ứng nhu cầu phát triển của văn hóa và xã hội
Từ quan điểm ở trên khẳng định rằng, sự phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng,
thiết thực không những quyết định sự tồn tại của con người mà còn quyết định đến sự
phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có sự phát triển của văn hóa
như “chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng hoạt động tinh thần của con người là
do những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định”1
Thứ hai, phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện cho con người phát triển tri thức và
năng lực, hoàn thiện bản thân và xã hội.
Trong tiến trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì con người luôn
đóng vai trò trung tâm, quyết định đến mọi hoạt động và phát triển. Con người trong
quá trình lao động sản xuất đã sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần để sống, tồn tại
và hưởng thụ. Chính của cải vật chất ấy lại tạo cho con người có điều kiện để học tập,
trau dồi kiến thức, phát triển và làm giàu tri thức để nắm bắt đầy đủ quy luật phát sinh,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ đó, tìm tòi,
nghiên cứu, sáng chế và phát minh khoa học, kỹ thuật, phương tiện tinh vi hiện đại
phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người một cách hiệu quả. Đặc biệt, khi có
kiến thức, có phương tiện lao động tinh vi hiện đại, cùng với năng lực và nhiệt tình,
sáng tạo trong lao động sản xuất sẽ tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và những
giá trị tinh thần cao đẹp, làm cho con người và xã hội tiến tới chân - thiện - mỹ.
Thứ ba, kinh tế phát triển tạo ra cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh thúc đẩy các lĩnh vực
khác cùng phát triển. Kinh tế có vai trò to lớn quyết định đến mọi hoạt động của con
người là ngọn nguồn và là nguyên nhân của sự phát triển. Hay nói cách khác “sự phát
triển không ngừng của sản xuất, của kinh tế còn là cơ sở của mọi sự phát triển trong
đời sống xã hội”2. Chính vì thế, phát triển kinh tế là cơ sở, là nền tảng vật chất để thúc
đẩy xã hội phát triển.
1.2.2. Quan điểm về vai trò của phát triển văn hóa đối với phát triển kinh tế
Kinh tế và văn hóa là hai lĩnh vực của đời sống xã hội, có quan hệ biện chứng với
nhau, nó tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau phát triển. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều
kiện, nền tảng vật chất cho xã hội, quyết định sự phát triển của các lĩnh vực khác, trong
1


M. Rô-đen-tan và P.I-U-đin (chủ biên), (1976), Từ điển triết học, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 973 -974.

2

J.H.Fichter - Trần Văn Đĩnh (dịch), (1972), Xã hội học văn hóa, Nxb. Hiện đại, Sài Gòn.


12

đó có sự phát triển của văn hóa. Ngược lại, văn hóa phát triển sẽ tác động trở lại mạnh
mẽ đến phát triển kinh tế, xã hội.
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội nói chung và của sự phát triển
kinh tế nói riêng. “Văn hóa không phải là cái ăn theo, cũng không phải là cái thụ động
của sự phản ánh kinh tế” (…) “văn hóa là một nhân tố tham gia trực tiếp vào quá trình
phát triển kinh tế”1.
Hai là, văn hóa là động lực tinh thần thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự phát triển
kinh tế luôn đòi hỏi sự phát triển văn hóa tương ứng, đồng bộ. Và, phát triển văn
hóa hướng vào sự phù hợp, đồng bộ với phát triển kinh tế, đó là quy luật cơ bản của
sự phát triển. Chỉ có sự phát triển văn hóa bền vững mới trở thành động lực của sự
phát triển kinh tế.
Như vậy, văn hóa được quan tâm phát triển thường xuyên, đúng mức phù hợp với
yêu cầu phát triển của đất nước, của xu thế thời đại, nó tạo nên nền tảng và không
những trở thành động lực mà còn là mục tiêu của sự phát triển bền vững của đất nước,
của Thành phố.
Ba là, phát triển văn hóa là mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Bản chất của văn
hóa là tốt đẹp, là tiến bộ, là nhân văn… Vì thế, văn hóa trở thành mục tiêu của con
người vươn tới và là tiêu chí để đánh giá một con người, một quốc gia, dân tộc, một xã
hội tiến bộ hay lạc hậu, phát triển bền vững hay không bền vững.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là quan hệ cơ
bản nhất, quyết định nhất trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của con người. Phát
triển kinh tế là nền tảng vật chất, là nguồn gốc, động lực, là yếu tố quyết định đối với
sự phát triển văn hóa. Ngược lại, phát triển văn hóa là phát triển những giá trị tinh thần
được sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn của con người, thẩm thấu trong các vật thể,
được biểu hiện ra trong tư tưởng, tình cảm, lòng yêu nước, lối sống, cách sống, phong
tục, tập quán, đạo đức, tác phong của mỗi con người, mỗi gia đình, cộng đồng và mỗi
quốc gia dân tộc. Văn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu
là động lực cho sự phát triển kinh tế.
Mỗi dân tộc muốn phát triển bền vững, mỗi quốc gia muốn phát triển bền vững
phải giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Nếu thiếu một
trong hai yếu tố này nhất định sự phát triển sẽ không bền vững, dẫn đến kìm hãm, hạn
1

Nguyễn Trần Bạt (2006), Văn hóa và con người, Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 98.


13

chế hoặc hủy hoại lẫn nhau.


14

Chương 2
QÚA TRÌNH, ĐẶC ĐIỂM ĐỔI MỚI VÀ THỰC TRẠNG QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh chính là quá trình hiện thực hóa quan hệ
biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, là quá trình làm cho kinh tế Thành

phố phát triển trở thành điều kiện, cơ sở vật chất để phát triển văn hóa; ngược lại, phát triển văn
hóa Thành phố trở thành nền tảng tinh thần là mục tiêu, là động lực cho sự phát triển kinh tế.
2.1. KHÁI QUÁT CÁC GIAI ĐOẠN, NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Các giai đoạn và nội dung đổi mới chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh
Các giai đoạn đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh
Giai đoạn (1986-1990), đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng của Thành phố. Đây là
giai đoạn mà Thành phố Hồ Chí Minh cùng cả nước vừa thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện mà Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa VI của Đảng cộng sản Việt Nam khởi sướng. Đồng
thời, vừa vận dụng vào tình hình thực tiễn của Thành phố, để tìm tòi, xây dựng và thử nghiệm
mô hình mới sao cho phù hợp và phát huy tối đa với vị trí, điều kiện, đặc điểm, thế mạnh và
đặc trưng vốn có để ổn định xã hội và từng bước phát triển Thành phố.
Giai đoạn (1991 - 1995), đây là giai đoạn đổi mới mà Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục
vận dụng và cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩ xã
hội và chiền lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 mà Đại hội Đảng cộng sản Việt
Nam đã đề ra (tháng 6 - 1991).
Giai đoạn (1996 - 2000), đây là giai đoạn Thành phố Hồ Chí Minh cùng cả nước phấn
đấu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra trong Cương lĩnh là ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năn
2000, tạo tiền đề vững chắc đẩy tới một bước phát triển cao hơn khi đi vào thế kỷ 21.
Giai đoạn (2000 – 2005), đây là giai đoạn Thành phố quyết tâm, “động viên mọi nguồn
lực, phát huy mạnh mẽ sức sản xuất, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi thách thức, bảo đảm
đạt tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tạo thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế”, “phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin, giải quyết đồng bộ
các vấn đề xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Giai đoạn (2005 -2010), giai đoạn này, Thành phố tập trung đánh giá một cách khái quát
công cuộc 20 năm đổi mới về những thành tựu đạt được và những hạn chế, tồn tại cần khắc
phục, đồng thời chỉ ra nguyên nhân, rút ra những bài học và kinh nghiệm trong quá trình đổi
mới và xác định: “Đổi mới tòan diện và mạnh mẽ hơn nữa”.
Giai đoạn (2010 - 2015), trong giai đoạn này, Thành phố quán triệt Nghị quyết 20 của Bộ
chính trị, quyết tâm phấn đấu xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, văn minh, hiện

đại với tầm nhìn chiến lược đến năm 2020, đó là: “Tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu toàn Đảng bộ”.
Giai đoạn (2015 tới nay),
giai đoạn này quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố là, xây dựng Thành


15

phố “sớm trở thành một trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ
của khu vực Đông Nam Á”.
Nội dung đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh là:
Thứ nhất, đổi mới về mặt chính trị - xã hội: Trước hết, đổi mới về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ, để người lãnh đạo có đủ trí tuệ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
giỏi, có kinh nghiệm quản lý và có đạo đức cách mạng trong sáng (trung thực, giản dị, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm), đủ sức, đủ bản lĩnh để đấu tranh giữa cái mới và cái cũ,
cái bảo thủ, trì trệ lạc hậu và cái tiến bộ, cái hợp quy luật, để đưa Thành phố phát triển. Đồng
thời, đổi mới hệ thống chính trị còn là quá trình nâng cao năng lực tổ chức, quản lý của bộ máy
chính quyền Thành phố. Bên cạnh đó, đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của các tổ chức - chính trị xã hội nhằm nâng cao vai trò tư vấn, giám sát và
phản biện xã hội và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh
Thứ hai, đổi mới về mặt kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh được xem là một trong
những nội dung trọng tâm của quá trình đổi mới. Đổi mới kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh
là: “nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế - khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, tiếp tục đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh;
giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và tăng trưởng kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” (2011- 2015), “Phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển kinh tế tri thức và tăng
trưởng xanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lục cạng tranh” (2015 - 2020), vì mục
tiêu làm cho người dân Thành phố được no ấm, hạnh phúc, tạo ra nhiều của cải vật chất để xây
dựng Thành phố trở thành Thành phố văn minh, hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới.

Thứ ba, đổi mới về mặt văn hóa - xã hội: Đổi mới văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh
chính là: “Phát triển văn hóa theo hướng văn minh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố; là sự kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế với văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, với trọng tâm là đẩy mạnh cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu
quả”1; “Xây dựng môi trường văn hóa để con người phát triển toàn diện; nghiên cứu, phát huy
đặc trưng, tính cách của con người Thành phố trong đặc điểm chung của con người Việt
Nam”2.
Thứ tư, đổi mới về quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giữ vững
thế trận lòng dân, nâng cao hiệu quả đối ngoại ở Thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.2. Đặc điểm của quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh
Từ những điều kiện phát triển mang tính đặc thù về địa lý - tự nhiên, dân cư và con
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ IX, tr. 55.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X, tr.38.


16

người, đặc điểm chính trị - xã hội mang tính thoáng, mở và một nền văn hóa mang tính giao
thoa, hội tụ đã tạo nên tính đặc thù riêng của Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới.
Điều này làm cho quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh mang đặc điểm riêng rất đặc
trưng, không có nơi nào có, đó là:
Thứ nhất, tính năng động, sáng tạo là đặc điểm nổi bật của Thành phố Hồ Chí Minh
trong quá trình đổi mới. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhân tố đóng vai trò quan trọng trong quá

trình đổi mới chính là sự năng động, sáng tạo của toàn Đảng bộ và mỗi người dân Thành phố là động lực trực tiếp của quá trình đổi mới ở Thành phố.
Thứ hai, đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh mang tính toàn diện và có trọng tâm,
trọng điểm. Đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã
hội..., cả nông thôn lẫn thành thị, cả nội thành lẫn ngoại thành. Nhưng trong quá trình đổi
mới tập trung vào một số lĩnh vực cơ bản và ở mỗi lĩnh vực đều phát triển mang tính trọng
tâm, trọng điểm.
Thứ ba, đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh mang tính đột phá và lan tỏa. Đột phá
trong quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện ở những chính sách mà Thành phố
đề ra chưa có ai nghĩ, chưa có ai từng làm trước đó, và do vậy, những chính sách này đã tạo ra
những chuyển biến mới, mạnh mẽ tác động đến sự thay đổi của cơ chế cũ. Đồng thời, Thành
phố Hồ Chí Minh là nơi đi đầu thử nghiệm, thực hiện các chính sách mới nên đã tạo ra những
xung động, tương tác ảnh hưởng và phản ứng dây chuyền làm lan tỏa đến các tỉnh, thành trong
cả nước. Thành phố đã làm sáng tỏ con đường đi và cách làm mới, tư duy mới, góp phần tích
cực vào việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Thứ tư, đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh mang tính thiết thực và hiệu quả. Ở Thành
phố Hồ Chí Minh, luôn chú ý đến tính thực tế và hiệu quả công việc là đặc điểm phổ biến
trong các chủ trương, chính sách, cũng như trong tính cách con người Thành phố. “Người Sài
Gòn luôn biết nhìn thấy cái mình muốn, dù trong tương lai hay với hiện tại. Người Sài Gòn
luôn thể hiện tính mục tiêu trong các dạng hoạt động của mình, dù đó là lao động cật lực hay
chỉ là những cuộc chơi khắp nẻo gần xa”1.
Như vậy, tính năng động, sáng tạo, tính toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, tính
đột phá và lan tỏa, tính thực tế và hiệu quả là những đặc điểm nổi bật đã thể hiện rõ trong các
chủ trương, chính sách trong quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh. Những đặc điểm
này phát huy mạnh mẽ, tạo nên những thành tựu to lớn trong thời kỳ đổi mới ở Thành phố.
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.2.1. Thực trạng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ
Chí Minh trong thời kỳ đổi mới
Trong quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh, về cơ bản đã có sự gắn kết hài hòa
1


Viện nghiên cứu xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Con người và văn hóa trên đường phát triển,
Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 209.


17

giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, đã được thể hiện trong nhận thức, chỉ đạo trong
các chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ thành phố qua các kỳ đại hội: “Đi đôi với tăng trưởng
kinh tế, phải giải quyết tốt các vấn đề văn hóa - xã hội; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội trong suốt quá trình phát triển”1.
Vì vậy, trong thời kỳ đổi mới, Thành phố Hồ Chí Minh có nền kinh tế phát triển cao, trở
thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ thương mại, tài chính ngân hàng lớn nhất cả nước. Kinh
tế Thành phố phát triển không những đáp ứng được nhu cầu sinh sống của nhân dân mà còn
tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho các lĩnh vực khác phát triển, trong đó có lĩnh vực văn hóa.
Thành phố chủ trương phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa trong từng
chính sách phát triển, và nhờ vậy, “Thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện,
tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào thành tựu chung
của vùng và cả nước”2.
Tuy nhiên, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh còn
có những nhận thức khác nhau, trong đó có những nhận thức chưa đúng đắn, chưa toàn diện về
quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Có quan điểm chỉ chú trọng
đến phát triển kinh tế, coi nhẹ phát triển văn hóa, hoặc chưa thấy vị trí, vai trò của văn hóa là
nền tảng tinh thần là động lực của sự phát triển hoặc chỉ đề cao sự phát triển kinh tế mà xem
nhẹ, coi thường tác dụng của sự phát triển văn hóa đối với sự phát triển kinh tế; phát triển văn
hóa mang tính hình thức, đơn thuần tách rời với phát triển kinh tế.
Ngược lại, có những quan điểm chỉ chú trọng đến phát triển văn hóa mà không thấy hoặc
xem nhẹ vị trí, vai trò hết sức quan trọng của phát triển kinh tế là cơ sở, là điều kiện để phát
triển văn hóa. Hoặc chưa thấy được quan hệ khăng khít, biện chứng giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa; nên chỉ phát triển đời sống tinh thần trên phương diện văn hóa nghệ thuật;

sân khấu, ca nhạc, điện ảnh, tâm linh, lễ hội v.v... đến mức rơi vào phô trương hình thức chủ
nghĩa, phát triển văn hóa đơn thuần.
2.2.2. Thực trạng của việc phát huy vai trò và sự tác động qua lại giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới
Kinh tế và văn hóa là hai yếu tố cốt lõi nhất quyết định đến chất lượng cuộc sống của con
người và sự phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, phát triển kinh tế và phát triển văn
hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh có quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau, luôn tác động
qua lại, kìm hãm hoặc bổ sung hỗ trợ nhau cùng phát triển. Trong đó, phát triển kinh tế ở
Thành phố Hồ Chí Minh là tiền đề, là cơ sở vật chất quyết định đến phát triển văn hóa. Thứ
nhất, kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phát triển sẽ nâng cao chất lượng sáng tạo văn hóa và
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Thứ hai, kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phát triển
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI, tr. 90.

Nghị quyết 16 – NQ/TW của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2020 (Ban hành ngày 10/08/2012).


18

sẽ tác động nâng cao chất lượng các lĩnh vực văn hóa. Thứ ba, kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh phát triển tác động tạo đầy đủ điều kiện để phát triển các phương tiện vật chất để cho văn
hóa tác động vào các lĩnh vực kinh tế, làm cho văn hóa thực sự thấm sâu vào trong đời sống
của nhân dân Thành phố và văn hóa thực sự đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội. Hay
nói cách khác, kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phát triển tác động đến văn hóa ở chỗ, nó làm
hiện thực hóa vai trò của văn hóa là nền tảng, là động lực của phát triển kinh tế nói riêng và
phát triển xã hội nói chung.
Ngược lại, văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh phát triển đến lượt mình nó tác động mạnh

mẽ đến kinh tế. Một là, văn hóa Thành phố phát triển làm thay đổi quá trình sản xuất thông qua
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực - yếu tố hàng
đầu quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất của Thành phố. Hai là, văn hóa Thành phố
phát triển góp phần vào phát triển tư liệu sản xuất ngày càng hiện đại, làm cho rút ngắn được
quy trình sản xuất, giảm thời gian và sức lao động của con người, đồng thời chất lượng và hiệu
quả sản xuất ngày càng cao. Ba là, Thành phố phát triển đã làm thay đổi trình độ tổ chức, quản
lý sản xuất và tiến tới sự phân phối lợi ích, sản phẩm lao động xã hội ngày càng công bằng
hơn. Bốn là, văn hóa Thành phố phát triển nó tác động làm thay đổi quy mô, hình thức phát
triển của các lĩnh vực và các yếu tố kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh. Năm là, văn hóa Thành
phố phát triển đã góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố theo hướng
công nghệ hiện đại. Như vậy, văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh phát triển nó đảm bảo cho sự
gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức với chất
lượng, hiệu quả ngày càng cao ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Như phân tích ở trên, trong quá trình đổi mới, kinh tế và văn hóa Thành phố có sự tác
động qua lại, tương hỗ với nhau, trong đó, kinh tế phát triển đã tạo ra tiền đề, cơ sở vật chất cho
phát triển văn hóa. Đến lượt mình, văn hóa phát triển đã tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, còn tồn tại một số bất cập trong phát triển kinh tế đã làm cho phát triển kinh tế
Thành phố chưa thật sự là điều kiện, là nền tảng vật chất để phát triển văn hóa. Ngược lại,
“những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa chưa ngang tầm với vị trí, vai trò, khả năng
và yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển thành phố”1 và do vậy, văn hóa chưa thực sự trở thành
động lực cho phát triển kinh tế Thành phố.
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và phát triển chưa đều giữa các khu vực,
chưa tạo được động lực tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế bền vững nên sự phát triển
kinh tế Thành phố chưa tạo thành nền tảng vững chắc để phát triển văn hóa.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố còn yếu và do
vậy, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, cơ cấu các thành phần kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới
1


Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VII “ Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tr. 23.


19

vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Doanh nghiệp nhà nước chiếm 40-50% vốn đầu tư xã hội, sử
dụng bộ phận không nhỏ tài nguyên của Thành phố, của đất nước nhưng vì lợi ích nhóm, lợi
ích cá nhân, nguồn vốn này đầu tư và sử dụng tràn lan cùng với việc tham ô, tham nhũng, thu
vén cá nhân dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém làm thất thoát hàng trăm ngàn tỷ đồng tiền nhân
dân đóng thuế và tiền vay nợ nước ngoài... gây nên 80-90% nợ công.
Môi trường đầu tư chưa được cải thiện mạnh mẽ để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Ngoài ra, kết cấu hạ tầng vốn đã yếu kém, ngày càng trở nên quá tải, bất cập, cản trở việc thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Quy hoạch thiếu tổng thể, bị
chia cắt manh mún, nhỏ lẻ; kiến trúc chưa hài hòa, chưa tương xứng với tầm vóc của Thành
phố lớn - là một trung tâm kinh tế, văn hóa và du lịch.
Ngược lại, phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa thật sự phát huy vai trò
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế, “những thành tựu đạt
được trong lĩnh vực văn hóa chưa ngang tầm với vị trí, vai trò, khả năng và yêu cầu xây dựng,
bảo vệ, phát triển thành phố”1 và do vậy, văn hóa chưa thực sự trở thành động lực cho phát
triển kinh tế Thành phố.
Thứ nhất, vai trò của văn hóa trong phát triển nguồn nhân lực vẫn chưa tương xứng và
chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố trong thời kỳ đổi mới về cả
số lượng và chất lượng.
Thứ hai, Khoa học công nghệ thành phố: “Chưa thực sự là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội”2. văn hóa thành phố chưa phát huy hiệu quả trong việc đẩy lùi các hiện tượng
phản.
Thứ ba, văn hóa thành phố chưa phát huy hiệu quả trong việc đẩy lùi các hiện tượng phản
văn hóa trong xã hội, mở đường cho kinh tế Thành phố phát triển.
Thứ tư, văn hóa chính trị Thành phố còn nhiều tiêu cực và do vậy, văn hóa chưa thực sự

trở thành nền tảng, động lực và mục tiêu cho phát triển kinh tế Thành phố.
Nguyên nhân của những tồn tại trong việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới
Về khách quan, trước hết sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi
mới chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng của kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, sự bất ổn của
tình hình chính trị thế giới và khu vực cũng tác động không nhỏ đến sự gắn kết giữa phát triển
kinh tế và phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, quá
trình đổi mới Thành phố là quá trình giao lưu, hội nhập với thế giới, mở đường cho Thành phố
phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa. Tuy nhiên, do tiếp cận chậm hơn và đi sau các nước trên
thế giới trong hội nhập, Thành phố phải tiếp thu những công nghệ, máy móc, phương tiện kém
1

Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII “Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tr.23.
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Văn kiện đại hội đại biểu lần
thứ IX, tr.33.


20

hiện đại cùng với quy trình quản lý sản xuất lạc hậu và người lao động thiếu trình độ, kỹ năng
chuyên môn, kinh nghiệm quản lý nên khó có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế
trong thời kỳ đổi mới. Cùng với quá trình đó là sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, văn hóa đồi
trụy, phản động... làm cho bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và bản sắc văn hóa Thành phố
dần bị xói mòn, bị mai một.
Về chủ quan, nhận thức của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố chưa đúng,
chưa đầy đủ về quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Với nhận
thức như vậy, dẫn đến thực tiễn tổ chức thực hiện giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế với

phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa sát hợp với thực tiễn Thành phố. Ngoài ra,
hệ thống chính sách, bộ máy tổ chức, quản lý của Thành phố trong thời kỳ đổi mới còn tồn tại
nhiều bất cập đã cản trở quá trình gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa Thành
phố. Đồng thời, trong thời kỳ đổi mới, Thành phố chưa đầu tư đúng mức cho giáo dục - đào
tạo con người để đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Tất cả những
nguyên nhân trên đã làm cho sự tác động qua lại giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới chưa thật sự hài hòa, bền vững.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Quá trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh chính là quá trình biến những thế mạnh về
điều kiện địa lý tự nhiên, chính trị - xã hội và nguồn nhân lực vào quá trình phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa. Nếu nhân tố địa lý - tự nhiên đã tạo ra tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực
để Thành phố Hồ Chí Minh phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thì tư duy, lối sống của con
người đã quy định, tác động trực tiếp đến quá trình phát triển này. Ngoài ra, nguồn nhân lực với
số lượng nhiều, trẻ, năng động và đặc biệt là đội ngũ trí thức đông đảo... chính là động lực thực
sự của quá trình phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Thành phố năng động này.
Trong quá trình đổi mới, Thành phố luôn chú trọng giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa, phát triển kinh tế nhằm tạo điều kiện, cơ sở vật chất để phát triển văn
hóa, đến lượt mình phát triển văn hóa tạo động lực cho phát triển kinh tế, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay còn nhiều bất cập, kinh tế và văn hóa phát triển chưa đồng đều. Nền kinh tế
Thành phố tuy đang tăng trưởng theo chiều hướng tích cực song chưa vững chắc, chưa tạo nền
tảng vững chắc để phát triển văn hóa. Và do vậy, về mặt văn hóa, phát triển văn hóa chưa tương
xứng với vai trò, vị trí của thành phố là một trung tâm văn hóa lớn của vùng và cả nước. Với
thực trạng ấy, văn hóa chưa thực sự là động lực cho phát triển kinh tế Thành phố. Do đó, Thành
phố cần có những phương hướng đúng đắn và những giải pháp thiết thực nhằm giải quyết hài
hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa trong quá trình phát triển.


21


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Thành phố Hồ Chí Minh để trở thành Thành phố: văn minh, hiện đại; và nghĩa tình
từng bước trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học - công nghệ của Đông Nam
Á; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa như Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị đặt ra thì Thành phố Hồ Chí Minh phải
phát triển toàn diện các mặt và giải quyết đồng bộ các quan hệ xã hội, trong đó đặc biệt quan
tâm đến việc giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Đây là
quan hệ được Thành phố xác định là quan hệ cơ bản, cốt lõi cho sự phát triển bền vững. Vì
vậy, việc đề xuất với lãnh đạo Đảng và chính quyền Thành phố phương hướng và giải pháp
khoa học cụ thể, sát thực để tiếp tục giải quyết tốt hơn, hiệu quả hơn quan hệ giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, tạo sự phát triển bền vững.
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI
3.1.1 Phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh để
phát triển bền vững phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ và thực tiễn phát triển của
Thành phố
Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ
Chí Minh đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ chiến lược phát triển Thành phố là “Xây dựng
Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng
bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất
nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”1.
Để hiện thực hoá nhiện vụ chiến lược của Bộ chính trị giao cho, Thành phố đã đề ra
mục tiêu phát triển là: “…gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con

người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao phúc lợi xã hội và
chất lượng cuộc sống của nhân dân...”2. Như vậy, tất cả những chủ trương, chính sách, kế
hoạch phát triển kinh tế và phát triển văn hóa phải bám sát và nhất thiết phải bám sát vào
nhiệm vụ chiến lược của Bộ chính trị giao cho Thành phố và mục tiêu phát triển Thành
phố đề ra cả trước mắt và lâu dài theo từng giai đoạn phát triển. Cụ thể là các chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế và phát triển văn hóa phải xác định được chính xác mục tiêu
cần đạt; xác định được con đường, phương thức để đạt mục tiêu trên và định hướng phân
11

Nghị quyết 16 - NQ/TW của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2020 (Ban hành ngày 10/08/2012).
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X, tr.56.


22

bổ nguồn lực để đạt được nhiện vụ chiến lược và mục tiêu của Thành phố đã đề ra một
cách hiệu quả nhất.
Phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí minh trong thời kỳ đổi mới
còn phải dựa vào điều kiện thực tiễn của Thành phố. Bởi lẽ, thực tiễn là cơ sở, là thước đo
của lý luận và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Nhận thức, chủ trương, chính sách và
tổ chức thực hiện quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa đúng hay sai, phù
hợp hay không phù hợp đều thể hiện trong thực tiễn. Trên cơ sở thực tiễn, phát triển Thành
phố mới có thể khơi dậy, tạo động lực để phát huy các thế mạnh, tiềm năng của Thành phố,
trong đó, phát triển phải phù hợp với điều kiện địa lý - tự nhiên, dân cư, đặc điểm và nhiệm
vụ của Thành phố trong thời kỳ đổi mới.
3.1.2. Phát triển kinh tế với phát triển văn hóa của Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới trên cơ sở phát triển đồng bộ, hài hòa giữa các lĩnh vực, các yếu

tố trong đời sống xã hội của Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ lớn nhất cả nước. Chính vì vậy, Thành phố muốn phát triển vững chắc thì phải phát
triển đồng bộ trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Phát triển kinh tế cùng với
phát triển chính trị - văn hóa - xã hội... sẽ tạo ra một xã hội phát triển hài hòa, cân đối và bền
vững. Chú trọng mặt này, hạ thấp mặt khác hoặc tách rời quan hệ giữa chúng đều dẫn đến một
sự phát triển mất cân đối và thiếu bên vững. Chính vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh phải quan
tâm đầu tư trên từng lĩnh vực tương xứng với vị trí, vai trò của nó trong quá trình phát triển.
3.1.3. Phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới một cách hiệu quả dựa trên thế mạnh, điều kiện và đặc điểm riêng của
Thành phố Hồ Chí Minh
Trước hết, phải khẳng định rằng, so với các tỉnh, thành khác trong cả nước, Thành phố
Hồ Chí Minh có nhiều lợi thế so sánh hơn hẳn để phát triển kinh tế và phát triển văn hóa mà
nổi bật là thế mạnh về điều kiện địa lý - tự nhiên, thế mạnh là trung tâm công nghiệp lớn,
hiện đại, trung tâm thương mại - dịch vụ lớn nhất cả nước và đặc biệt là thế mạnh của nguồn
nhân lực chất lượng cao. Với những thế mạnh hơn hẳn này sẽ là đòn bẩy tạo sức bật mạnh
mẽ cho Thành phố trong quá trình phát triển. Bên cạnh những thế mạnh này, chính môi
trường kinh tế thành phố sôi động, kinh tế hàng hóa và thị trường phát triển, giao lưu kinh tế
được mở rộng với nhiều vùng miền và quốc gia... đã hình thành nên ở con người nơi đây
những đặc trưng riêng như tính năng động, sáng tạo, táo bạo dám nghĩ, dám làm, tính linh
hoạt nhạy bén và nghĩa tình luôn thích nghi trong mọi hoàn cảnh và rất chú ý đến tính thực
tế để đạt hiệu quả trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội v.v... Những đặc trưng này là
nền tảng vững chắc cho một sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh là làm sao để phát huy đến mức cao nhất những thế
mạnh và đặc trưng riêng của Thành phố, nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa Thành phố trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở


23


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Như phân tích ở trên, phương hướng giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh là con đường để vận hành bánh lái,
là kim chỉ nam cho mọi hành động của lãnh đạo và mọi tầng lớp nhân dân Thành phố
trong cả nhận thức và hành động. Tuy nhiên phương hướng chỉ trở thành hiện thực
trong đời sống xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh khi Thành phố có những giải pháp
đúng đắn, thiết thực, hiệu quả.
3.2.1. Nâng cao nhận thức của Đảng bộ chính quyền và nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa
Nhận thức là quá trình phản ánh có tính tích cực, năng động, sáng tạo hiện thực
khách quan vào bộ óc của con người trên cơ sở thực tiễn. Như Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc
họ” [24, tr.21]. Và như Hồ Chí Minh đã nói: “Thực tiễn mà không có lý luận hướng
dẫn thực hành là thực tiễn mù quáng”.
Như vậy, nhận thức có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng, điều chỉnh
hoạt động thực tiễn của con người.Chính vì vậy, quá trình phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh cần phải nâng cao nhận thức của toàn bộ cán
bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của quan hệ
biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và chỉ trên cơ sở nâng cao
nhận thức về quan hệ này, thấy được vai trò của từng yếu tố trong quá trình phát triển
Thành phố thì mới tạo điều kiện cho chúng gắn kết được với nhau, thúc đẩy lẫn nhau,
tạo nên sự phát triển hài hòa, bền vững.
3.2.2. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và kiện toàn hệ thống chính
trị để đảm bảo cho phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời kỳ đổi mới
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa, việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách, đặc biệt là việc kiện toàn hệ
thống chính trị nhằm đảm bảo cho phát triển kinh tế với phát triển văn hóa một

cách chủ động, có kế hoạch, có sự lãnh đạo và quản lý, cần thực hiện một cách
đồng bộ các biện pháp:
Thứ nhất, trong các chính sách kinh tế phải luôn xác định mục tiêu và tiêu chí
văn hóa trong sự phát triển đó.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các chính sách nhằm đảm bảo “tính văn hóa” trong
quá trình phát triển kinh tế như: văn hóa kinh doanh, văn hóa chính trị, văn hóa ứng
xử, văn hóa giáo dục, văn hóa giao thông, văn hóa nghe nhìn... Trong đó, để phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa, phải chú ý đặc biệt đến việc xây dựng văn hóa kinh
doanh và văn hóa chính trị. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống chính trị sẽ tạo
nên lý tưởng chính trị đúng đắn, tạo nên sức mạnh tập thể, sức mạnh cộng đồng, sức
mạnh giai cấp, dân tộc để hướng tới một mục tiêu chính trị đã định.
Đồng thời, cần hoàn thiện các chính sách tiếp thu các thành tựu văn minh nhân
loại để phục vụ sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế Thành phố theo hướng văn


×