MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là cơ sở để đảm bảo các điều kiện thiết yếu, đảm bảo môi
trường sống thích hợp cho con người và sinh vật tồn tại và phát triển. Bên cạnh
đó, đa dạng sinh học cũng là nơi dự trữ nguồn gen quý hiếm của các loài thực vật
và động vật, nguồn nhiên liệu và dược liệu quý hiếm. Việt Nam, một quốc gia
giàu có về sự đa dạng sinh học được xếp thứ 16 trên thế giới về mức độ đa dạng
của tài nguyên sinh vật. Tính đến nay cả nước ta đã thống kê được 11.373 loài
thực vật bậc cao và hàng nghìn loài thực vật bậc thấp như rêu, tảo, nấm [7]. Động
vật cũng hết sức phong phú, theo thống kê có 300 loài thú, 840 loài chim, 260
loài bò sát, 120 loài ếch nhái, trên 1000 loài cá nước ngọt, hơn 2000 loài cá biển,
thêm vào đó là hàng chục loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và ở
nước ngọt [7]. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dưới áp lực của việc gia
tăng dân số và vấn nạn khai thác tài nguyên quá mức cùng vớisự phát triển kinh
tế ‘không an toàn” đã làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, thay đổi và thu hẹp
môi trường sống thích hợp của sinh vật. Ngoài ra, việc thay đổi phương thức sử
dụng đất, xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng đã làm giảm đáng kể diện tích sinh cảnh
tự nhiên, tăng sự chia cắt các hệ sinh thái, làm suy giảm môi trường sống của
nhiều loài động vật, thực vật hoang dã dẫn đến hệ thực vật, động vật đang bị suy
giảm một cách trầm trọng cả về số lượng loài và thành phần loài.
Ở cấp Tiểu học, những kiến thức về sự phong phú và đa dạng của các loài
thực vật và động vật được trình bày trong chủ đề Tự nhiên thuộc môn TN – XH
lớp 3. Chủ đề Tự nhiên thuộc môn TN – XH 3 đã cung cấp cho HS những kiến
thức cơ bản về cấu tạo, màu sắc, khích thước các cơ quan thực vật như: rễ, thân,
lá, hoa, quả vàcác loài động vật. Đây chính là điều kiện thuận lợi để lồng ghép
giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học.
Từ những lí do trên, chúng tôi nhận thấy rằng việc giáo dục ý thức bảo vệ
sự đa dạng sinh học trong trường Tiểu học là cần thiết. Để công tác giáo dục ý
thức bảo vệ đa dạng sinh học đạt hiệu quả và có tính khả thi cao, chúng tôi chọn
1
đề tài “Giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học cho học sinh lớp 3”làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp đại học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp HS nhận thức vai trò và tầm quan trọng của đa dạng sinh học
đối với sự sống – từ đó đề xuất các biện pháp nhằm giáo dục ý thức bảo vệ sự
đa dạng sinh học thông qua môn TN – XH lớp 3.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nhằm giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học cho
HS thông qua môn TN – XH lớp 3.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục sự đa dạng sinh học cho HS lớp 3 qua môn TN – XH.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức bảo vệ sự
đa dạng sinh học thông qua môn TN – XH lớp 3.
- Thực trạng vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh
học cho HS để đạt hiệu quả hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
5.1.1. Phương pháp đọc tài liệu
Đọc, nghiên cứu, thu thập các thông tin cần thiết cho đề tài từ các loại
tài liệu cũng như các khóa luận tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp, tạp chí chuyên
ngành, báo cáo khoa học, đề tài nghiên cứu, mạng internet, tổng hợp các vấn
đề liên quan đến nội dung nghiên cứu, từ đó đưa ra cơ sở lí luận cho vấn đề
nghiên cứu.
5.1.2. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết
Sau khi đọc xong những tài liệu có liên quan đến vấn đề đa dạng sinh học
hoặc những tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, cần sắp xếp các tài liệu đó
thành một hệ thống logic chặt chẽ theo từng đơn vị kiến thức, tránh lộn xộn gây
ra nhầm lẫn trong quá trình nghiên cứu.
2
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát các tiết dạy môn TN – XH của GV có nội dung giáo dục ý thức
bảo vệ sự đa dạng sinh học. Đây là phương pháp đóng vai trò quan trọng cho bài
nghiên cứu. Phương pháp quan sát đóng vai trò chủ yếu khi khảo sát thực trạng,
quan sát thái độ của HS khi được tiếp thu những kiến thức đó, quan sát kỹ thuật
của GV khi giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học.
5.2.2. Phương pháp điều tra
Phương pháp này được sử dụng khi tiến hành điều tra thực trạng việc giáo
dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học cho HS của GV tại trường Tiểu học và điều
tra mức độ hiểu biết về đa dạng sinh học của HS, để có thể cung cấp số liệu cho
bài nghiên cứu một cách chính xác và cụ thể.
5.2.3. Phương pháp chuyên gia
Chuyên gia có thể là thầy cô hướng dẫn hoặc những thầy cô có kinh
nghiệm trong các bài khóa luận hay các bài nghiên cứu khoa học. Việc tiếp thu
một cách tích cực các ý kiến của các thầy (cô) hướng dẫn và các thầy (cô) khác
để có hướng đi đúng đắn cho quá trình nghiên cứu góp phần hoàn thiện bài làm
của mình là hết sức quan trọng.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này được sử dụng nhằm thống kê, xử lí các số liệu về thực
trạng đa dạng sinh học thông qua môn TN – XH, thực trạng việc giáo dục ý thức
bảo vệ sự đa dạng sinh học ở nhà trường Tiểu học. Từ đó, thống kê, đưa ra số liệu
cụ thể, chính xác.
6. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề đa dạng sinh học đã và đang được xã hội quan tâm, cụ thể, Đảng,
Nhà nước ta cũng có những quy định về bảo vệ đa dạng sinh học thông qua luật
số 20/2008/QH12 của Quốc hội ban hành về luật đa dạng sinh học gồm 8
chương, 71 điều khoản. Nhiều tác phẩm cũng đã đề cập đến vấn đề đa dạng sinh
học như tác phẩm “Đa dạng sinh học”của tác giả người Ý “Bruno Streit”, cuốn
sách “Môi trường và đa dạng sinh học” của G.S Võ Quý, nhà xuất bản Đại học
3
quốc gia Hà Nội. Hàng loạt các giáo trình, tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề đa
dạng sinh học như giáo trình “Đa dạng sinh học” của PGS.TS Tôn Thất Pháp
trường Đại học Khoa học Huế, giáo trình “Đa dạng sinh học” của Đại học quốc
gia Hà Nội trường Đại học Khoa học Tự nhiên… Bên cạnh đó, có các Hội nghị
về vấn đề đa dạng sinh học thường xuyên được tổ chức như “Hội nghị Hội đồng
quản trị Trung tâm Đa dạng sinh học ASEAN (ACB) lần thứ 18” đã diễn ra trong
hai ngày 01 và 02 tháng 8/2016, tại Nay Pyi Taw (Myanmar) với sự tham gia của
các đại biểu 10 nước ASEAN. Việt Nam cũng đã tổ chức hội nghị về “Bảo tồn
thiên nhiên và đa dạng sinh học ASEAN” diễn ra tại Hà Nội. Các hội thảo về vấn
đề đa dạng sinh học “ Hội thảo quốc tế bảo tồn đa dạng sinh học Đài Loan – Việt
Nam” tại Natou, Đài Loan. Hội thảo về “đa dạng sinh học và phục hồi sinh thái”
của sở Tài Nguyên và Môi trường… qua đó, các hội thảo nêu rõ tầm quan trọng
của đa dạng sinh học đối với sự phát triển của xã hội. Ngoài ra cũng có các đề tài
nghiên cứu khoa học, luận văn, đề án có đề cập đến vấn đề bảo vệ đa dạng sinh
như đề tài “Đa dạng sinh học ở Việt Nam ” của nhóm sinh viên trường Đại học
kinh tế Huế thực hiện và bảo vệ. Những đề tài khác cũng đề cập đến vấn đề đa
dạng sinh học, thực trạng và giải pháp như đề tài nghiên cứu “Giáo dục bảo vệ sự
đa dạng sinh học qua môn địa lí ở trường phổ thông” của tác giả Trần Thùy Uyên.
Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay nhiều tác giả đã và đang nghiên cứu đa
dạng sinh học nhưng chưa có tác giả thực hiện nghiên cứu lồng ghép việc giáo
dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học trong trường tiểu học nói chung và trong
môn TN –XH lớp 3 nói riêng.
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài làm rõ những vấn đề lí luận về việc giáo dục ý thức bảo vệ sự đa
dạng sinh học trong môn TN – XH lớp 3.
Làm rõ thực trạng của việc giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học
thông qua việc dạy học môn TN – XH lớp 3.
Đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn trong việc giáo
dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học cho HS .
8. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi chủ đề Tự nhiên thuộc phân môn TN-XH
lớp 3, trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
4
Nam.
9. Cấu trúc tổng quan của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, nôi dung đề tài nghiên cứu
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc giáo dục ý thức bảo vệ tính đa dạng
sinh học cho HS tiểu học thông qua môn TN-XH lớp 3
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng
sinh học thông qua môn TN – XH 3
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Đa dạng sinh học
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về đa dạng sinh học.
Theo R.Patrick(1983) cho rằng: “Đa dạng sinh học gồm tính đa dạng,
trạng thái khác nhau về đặc tính hoặc chất lượng của sinh vật”.
Theo OTA(1987) “Sự đa dạng và tính khác nhau của các sinh vật sống và
các phức hệ sinh thái mà chúng tồn tại trong đó”. Tính đa dạng có thể định nghĩa
là một số lượng xác định các đối tượng khác nhau và tần số xuất hiện tương đối
của chúng. Đối với đa dạng sinh học, những đối tượng này được tổ chức ở nhiều
cấp độ, từ các hệ sinh thái phức tạp đến các cấu trúc hoá học là cơ sở phân tử của
vật chất di truyền. Do đó, thuật ngữ này bao hàm các hệ sinh thái, các loài, các
gen khác nhau và sự phong phú tương đối của chúng.
Theo Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế - WWF(1989): “Đa dạng sinh học
là sự phồn thịnh của sự sống trên Trái Đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và
vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô
cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường”. Những khái niệm về đa dạng sinh
học rất nhiều. Tính đến nay có hơn 25 định nghĩa về khái niệm đa dạng sinh học.
Nhưng tóm lại đa dạng sinh học chính là sự đa dạng của sự sống trên Trái Đất,
bao gồm tất cả các loài thực vật ,động vật và vi sinh vật sống ở trên cạn, ở sông
hồ và ở biển được thể hiện ở 3 mức độ loài, hệ sinh thái và nguồn gen.
1.1.2. Giáo dục
Giáo dục (theo nghĩa rộng): là quá trình hình thành và phát triển nhân
cách dưới ảnh hưởng của những tác động có mục đích, được tổ chức một cách có
kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống của các cơ quan chuyên biệt giáo dục và
đào tạo (hệ thống trường học và trung tâm giáo dục của xã hội như trung tâm
giáo dục thường xuyên, trung tâm cai nghiện ma túy,…) [17].
Giáo dục (theo nghĩa hẹp): là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
người được giáo dục dưới ảnh hưởng của những tác động sư phạm của nhà
6
trường chỉ liên quan đến một mặt giáo dục như đạo đức, thể chất, thẩm mĩ và cả
lao động sản xuất [17].
Chức năng trội của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) được thực hiện
trên cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến hành vi cho HS trong nhà
trường, đây cũng là quá trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gọi và
biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học
theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách của thầy và trò
bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội trong thời đại ngày nay [17].
1.1.3. Giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học
Giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học là hoạt động giáo dục cung cấp
kiến thức, những hiểu biết về đa dạng sinh học cho người học, từ đó hình thành
những hành động và thái độ đúng đắn để góp phần bảo vệ sự đa dạng sinh học.
Giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học trong môn TN – XH ở trường
tiểu học là một hoạt động giáo dục mà người học tiếp nhận kiến thức dưới sự
định hướng của GV thông qua môn TN - XH, từ đó hình thành ý thức bảo vệ sự
đa dạng sinh học.
1.2. Khái quát về vấn đề đa dạng sinh học
1.2.1. Thực trạng đa dạng sinh học trên thế giới và Việt Nam
1.2.1.1. Thế giới
Hiện nay thế giới đang phải đối mặt với sự suy giảm đa dạng sinh học,
17.291 trong tổng số 47.677 loài trên thế giới đang bị đe dọa tuyệt chủng, bao
gồm 21% động vật có vú, 30% động vật lưỡng cư, 35% động vật không xương
sống và 70% loài thực vật – đây là số liệu được đưa ra trong các nghiên cứu gần
đây của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) [18].
Rừng trên thế giới đang bị suy thoái và giảm đáng kể. Trong thời gian từ
năm 2000 - 2010, mỗi năm diện tích rừng suy giảm từ 16 triệu ha xuống còn 13
triệu ha [14]. Nguyên nhân của việc diện tích rừng suy giảm là do chuyển đổi
sang diện tích đất nông nghiệp, khai thác khoáng sản, làm thủy điện,…Ngoài
ra,nguyên nhân gây suy giảm diện tích rừng còn do yếu tố tự nhiên như cháy
rừng, bão, lũ quét,…
Về động vật, các nhà khoa học tại Quỹ bảo vệ động vật hoang dã (WWF)
7
đã tiến hành tái thống kê dựa trên 14.152 quần thể của 3706 loài động vật có vú,
chim, cá, lưỡng cư và bò sát trên khắp thế giới. Kết quả cho thấy tính tới năm
2012, lượng động vật hoang dã đã giảm 58% so với hồi năm 1970 với mức giảm
bình quân là 2% [8].
1.2.1.2. Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước nằm trong điều kiện khí hậu nhiệt đới
gió mùa. Là nơi có địa hình phức tạp, đa dạng, với các dạng địa hình từ vùng
thấp ven biển, đến vùng đồng bằng châu thổ, vùng trung du, đồi núi, vùng núi
cao mây mù. Điều kiện địa lý tự nhiên phong phú, đã tạo nên các môi trường tự
nhiên khác nhau, hình thành nên các hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Nhờ có
sự đa dạng về môi trường tự nhiên, Việt Nam được đánh giá là một nước có tính
đa dạng sinh học phong phú với nhiều loài thực vật và động vật khác nhau và
quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất
thế giới [15], với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối… tạo nên môi trường sống
cho chim, cá, tôm, các loài thú hoang dã.
Là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á với diện tích khoảng
330.541km2, Việt Nam nằm trong 16 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao trên
thế giới [12]. Theo số liệu báo cáo quốc gia năm 2011, tại Việt Nam ghi nhận hơn
49 nghìn loài sinh vật bao gồm: khoảng 7.500 loài vi sinh vật, 20 nghìn loài thực
vật trên cạn và dưới nước, 10.500 loài động vật trên cạn, hơn 11 nghìn sinh vật
biển, 2.000 loài mới được thêm vào, với 4 loài vào danh sách tuyệt chủng, 2 loài
khác đang trong quá trình khám phá [11]. Như vậy, đa dạng sinh học ở Việt Nam
phong phú về thực vật và động vật. Về thực vật hiện nay đã thống kê được
11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.030 loài rêu, 2.500 loài tảo và
826 loài nấm. Theo dự đoán của các nhà thực vật học, số loài thực vật bậc cao có
mạch ít nhất lên đến 20.000 loài, trong đó có khoảng trên 5.000 loài đã được
dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc,
lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác [7]. Hệ động vật ở Việt Nam cũng
hết sức phong phú. Hiện nay đã thống kê được 300 loài thú, 830 loài chim, 260
loài bò sát, 120 loài ếch nhái, trên 1000 loài cá nước ngọt, khoảng hơn 2.000 loài
cá biển và thêm vào đó có hàng chục nghìn loài động vật không xương sống ở
8
cạn, ở biển và nước ngọt [7]. Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành
phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên, do áp lực gia tăng dân số, tình trạng khai thác quá mức tài
nguyên sinh vật, công tác quản lý bảo tồn đa dạng sinh học còn nhiều bất cập làm
cho đa dạng sinh học nước ta đang bị suy thoái rất nhanh, số loài và số lượng cá
thể của các loài hoang dã cũng bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có giá trị
đang bị suy giảm hoàn toàn về số lượng và một số loài đang có nguy cơ tuyệt
chủng (hổ, voi, voọc mũi hếch, sao la...). Gen của các loài vật hoang dã đang trên
đà suy thoái rất nhanh. Theo IUCN đánh giá tổng cộng 63.837 loài trong đó có
19.817 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng, 3.947 loài được mô tả là cực kỳ nguy cấp
và 5.766 loài ở mức độ nguy hiểm, trong khi hơn 10.000 loài được liệt kê là dễ bị
tổn thương. Trong khi đó, 41% các loài động vật lưỡng cư, 33% các loài san hô,
30% các loài cây lá kim, 25% động vật có vú, và 13% loài chim bị đe dọa[11].
Suy giảm đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng
trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa đến sự phát triển bền vững
của đất nước. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp về diện tích,
nhiều loài thực vật và động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
1.2.2. Đặc điểm vấn đề đa dạng sinh học hiện nay
- Đa dạng sinh học phong phú kể cả thực vật và động vật, tồn tại ở 3 mức độ: đa
dạng loài, hệ sinh thái và nguồn gen quý hiếm. Cụ thể:
+ Đa dạng loài: đặc trưng của đa dạng này là đề cập đến số lượng loài.
Loài bao gồm thực vật, động vật (bao gồm động vật có xương sống và không
xương sống), các vi sinh vật. Hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều loài thực vật và
động vật. Vào những năm 1980, trên thế giới ước tính có khoảng 1,4 triệu loài.
Bao gồm có khoảng 750.000 loài côn trùng, 41.000 loài động vật có xương sống
và 250.000 các loài thực vật[15].
+ Đa dạng gen: gen là đa dạng quan trọng nhất bởi vì đây là nguồn gốc để
quyết định sinh vật có thể tồn tại lâu dài trong thiên nhiên [15].
+ Hệ sinh thái: hệ sinh thái bao gồm hệ sinh thái trên cạn và hệ sinh thái
dưới nước. Bao gồm các quần xã sinh vật tác động qua lại với môi trường tạo nên
các bậc cấu trúc dinh dưỡng, tạo nên sự đa dạng loài [15].
- Đa dạng sinh học đang ngày càng suy giảm về loài, nguồn gen di truyền và hệ
9
sinh thái
Đa dạng sinh học trên thế giới và cả Việt Nam đang ngày càng suy giảm
một cách đáng kể. Số lượng các khu rừng, các loài thực vật và động vật đều đang
dần suy giảm. Những loài còn sống sót cũng đang có nguy cơ tuyệt chủng. Rừng
được xem là một hệ sinh thái đa dạng và phong phú nhất, đây là nơi nuôi dưỡng
các loài động, thực vật hoang dại. Chính vì vậy, khi rừng mất đi kéo theo một
lượng lớn các loài động vật dần mất đi, dẫn đếnnguồn gen các loài động vật và
thực vật cũng suy giảm theo.
- Suy giảm đa dạng sinh học làm ảnh hưởng đến môi trường sống và hoạt động
sống của con người
Hậu quả mà đa dạng sinh học để lại cho con người và môi trường rất nặng
nề. Việc hủy hoại các thảm thực vật do việc khai thác gỗ, khai hoang làm nông
nghiệp, ngư nghiệp cũng như các hoạt động khác làm cho tốc độ xói mòn, sạt lở
đất, hoang mạc hóa đất đai tăng lên rất nhanh[7]. Đất bị suy thoái khiến thảm
thực vật khó có thể phục hồi, ngày càng gia tăng các thiên tai như lũ lụt, hạn hán,
ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Sự suy giảm đa dạng sinh học cũng
dẫn đến mất cân bằng sinh thái, đe dọa đến sự phát triển bền vững của Trái Đất.
Bên cạnh đó các sinh vật và hệ sinh thái của đa dạng sinh học là nơi cung cấp các
nguồn nguyên liệu, lương thực cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, y học…
Vì vậy khi đa dạng sinh học bị suy thoái nguồn nguyên liệu đó mất dần, làm cho
con người phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo, bệnh tật.
1.2.3. Biểu hiện việc suy thoái đa dạng sinh học
Sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam được thể hiện như sau:
Rừng: Rừng ở Việt Nam bị suy thoái trầm trọng nhưng hiện nay đang
trong quá trình phục hồi. Năm 1943, diện tích rừng của Việt Nam là 14,3 triệu ha
với tỷ lệ che phủ là 43%. Rừng trong thời kỳ này là rừng tự nhiên, chất lượng tốt.
Đến những năm 1990, diện tích rừng suy giảm rất mạnh, chỉ còn trên 9 triệu ha,
tỷ lệ che phủ chỉ còn 27-28% [7].Trong những năm gần đây, do kế hoạch trồng
mới rừng nên độ che phủ của rừng tăng nên đáng kể nhưng chất lượng rừng có
xu hướng giảm. Theo số liệu bảng thống kê như sau:
Bảng 1.1: Diện tích rừng Việt Nam qua các thời kì
10
Loại rừng
Năm
1945
1976
1985
1990
1999
2003
2009
2015
Tổng
diện tích (ha)
14,3
11,16
9,892
9,176
10,945
11,784
13,2
14,06
Rừng trồng
(ha)
0
0,092
0,584
0,745
1,524
1,919
2,9
3,88
Rừng
Độ che phủ
tự nhiên (ha)
(%)
14,3
43,8
11,076
33,8
9,308
30,0
8,431
27,8
9,421
32,2
9,865
35,8
10,3
39,1
10,17
40,8
Nguồn: Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Bộ NN và PTNT 1990-2015
Về thực vật:Về thực vật có 448 loài, trong đó có 1 loài tuyệt chủng ngoài
thiên nhiên, 45 loài rất nguy cấp, 189 loài nguy cấp, 209 loài sẽ nguy cấp và 4
loài ít nguy cấp, trong đó chủ yếu thực vật bậc cao [11].
Về động vật:Số lượng các loài động vật quý hiếm liên tục bị đe dọa và
giảm nhanh về số lượng do săn bắn, khai thác thậm chí chết đói vì môi trường
sống của chúng đang ngày càng thu hẹp. Có 407 loài với 4 loài ở phân hạng tuyệt
chủng, 5 loài tuyệt chủng ngoài thiên nhiên, 48 loài rất nguy cấp, 112 loài nguy
cấp,188 loài sẽ nguy cấp, 16 loài ít nguy cấp và 34 loài thiếu dẫn liệu [11]. Một
số loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng như sao la, voọc mũi hếch, voọc cát
bà, cá cóc, bò biển. Đối với loài hổ, theo số liệu thống kê thì loài hổ sống trong
các khu rừng ở Việt Nam giảm từ khoảng 1000 con trước năm 1970 xuống còn
80-100 con vào năm 2005. Đến đầu năm 2010, số lượng này giảm xuống chỉ còn
khoảng 30 con [9].
1.2.4. Nguyên nhân chính của sự suy giảm đa dạng sinh học
Sự suy giảm tài nguyên đa dạng sinh học của nước ta hiện nay bắt nguồn
từ các nguyên nhân cơ bản sau:
Sự khai thác tài nguyên một cách quá mức: Tình trạng khai thác củi, gỗ để
lấy nhiên liệu phục vụ cho công nghiệp và sinh hoạt hằng ngày không chỉ làm
cho diện tích rừng bị suy giảm mà còn suy giảm về chất lượng. Đồng thời với
nạn phá rừng, nạn săn bắn làm cho tình trạng suy giảm các loài động, thực vật
quý hiếm gây nên sự suy giảm đa dạng sinh học.
Cháy rừng: Do điều kiện khí hậu của Việt Nam nên khả năng cháy rừng
vào mùa khô của nước ta hằng năm liên tục xảy ra. Trung bình mỗi năm có
11
25.000-100.000 ha rừng bị cháy ở Việt Nam, nhất là ở vùng cao nguyên Trung
Bộ [14]. Bên cạnh các diễn biến bất lợi của yếu tố thời tiết, khí hậu Việt Nam thì
các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên rừng của người dân địa phương như
đốt rừng làm rẫy, đốt than, hun khói lấy mật ong, khai thác gỗ chọn để lại cây bụi
cũng là những nguyên nhân gây cháy rừng. Cháy rừng làm cho diện tích rừng bị
thu hẹp, môi trường sống của các loài thú bị ảnh hưởng làm cho số lượng thực
vật và động vật ngày càng suy giảm về số lượng và chất lượng.
Chuyển đổi phương thức sử dụng đất: Ở vùng ven biển: phá rừng ngập
mặn, cải tạo vùng cát, ruộng lúa nước để xây dựng đầm tôm, biến vùng bãi triều
tự nhiên thành bãi nuôi động vật thân mềm. Ở vùng nội địa: các hệ sinh thái rừng
tràm, đầm lầy được cải tạo thành ruộng lúa, ao nuôi thủy sản, làm cho các hệ sinh
thái rừng ngập mặn, rừng tràm bị suy giảm đáng kể [7].
Ô nhiễm môi trường: Hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng
của nước ta. Tình trạng ô nhiễm do các nguồn chất thải khác nhau từ các nghành
công nghiệp, nông nghiệp (khí thải, nước thải, thuốc bảo vệ thực vật…) là nguyên
nhân đe dọa đến đa dạng sinh học. Ô nhiễm môi trường phá hủy nơi cư trú và
môi trường sống của các loài sinh vật hoang dại.
Sự gia tăng dân số: Ở Việt Nam, tăng dân số nhanh cũng là một trong
những nguyên nhân làm suy thoái đa dạng sinh học. Sự gia tăng dân số đòi hỏi
gia tăng nhu cầu sinh hoạt: lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác.
Trong khi đó, lượng tài nguyên là có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất
nông nghiệp dẫn tới phải mở rộng đất nông nghiệp vào đất rừng, thu hẹp diện
tích nơi sống của động vật hoang dã, gây suy thoái đa dạng sinh học.
Sự nghèo đói:Việt Nam là một quốc gia còn nghèo, cuộc sống còn phụ
thuộc nhiều vào nền nông nghiệp và tài nguyên. Sự nghèo đói khiến con người
tàn phá tài nguyên để phục vụ nhu cầu sống, làm cho diện tích rừng thu hẹp, các
loài động vật hoang dã bị tuyệt chủng.
1.3. Vai trò của đa dạng sinh học và việc giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh
học
1.3.1. Vai trò của đa dạng sinh học
12
Đa dạng sinh học rất cần thiết cho sự tồn tại của loài người nói riêng và
Trái Đất nói chung. Giá trị mà đa dạng sinh học mang lại rất lớn và được thể hiện
ở các mặt sau:
Đối với xã hội: Duy trì và cung cấp nguồn gen và là kho dự trữ các nguồn
gen quý, hiếm cho cây trồng và vật nuôi cho tương lai. Ngoài ra, giá trị kinh tế
mà đa dạng sinh học mang lại rất lớn. Điều này thể hiện ở việc chúng ta khai thác
và sử dụng hợp lí các tài nguyên sinh học, khai thác gỗ đúng quy định hay việc
đánh bắt và khai thác thủy sản hợp lí, đảm bảo nhu cầu về ăn, mặc của nhân dân,
góp phần xói đói giảm nghèo.
Đối với con người: Nhiều loài động, thực vật được sử dụng làm thức ăn
cho con người, cho gia súc, làm thuốc, lấy gỗ, làm nhà, phục vụ cho phát triển
kinh tế, làm chất đốt lấy năng lượng, làm cây cảnh.
Đối với môi trường tự nhiên: Sự tồn tại của các thảm thực vật đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước. Các khu rừng đầu nguồn làm giảm sự
ô nhiễm nguồn nước, ngăn lũ lụt và các thiên tai như gió, bão, sạt lở đất. Việc
trồng cây xanh làm tăng diện tích của các khu rừng, hạn chế sự ô nhiễm không
khí, làm cho bầu không khí trong sạch hơn, tạo bóng mát, khếch tán hơi nước,
làm giảm nhiệt độ trong thời tiết khí hậu nóng nực, hạn chế sự mất nhiệt khi thời
tiết lạnh giá. Nhờ vào sự phát triển của các quần xã sinh vật (nấm, các vi sinh
vật) mà các chất thải như thuốc trừ sâu, các chất gây ô nhiễm môi trường đất và
nước, các kim loại nặng được hấp thụ và phân hủy đi. Điều đó làm hạn chế sự
ảnh hưởng của các chất thải đến môi trường sống của chúng ta [7].
Đối với hệ sinh thái: Đa dạng sinh học có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ hệ sinh thái thế giới. Đa dạng sinh học cung cấp lương thực, lọc các chất
độc (qua các chu trình sinh địa hóa học), điều hòa khí hậu của Trái Đất, điều
chỉnh cung ứng nước ngọt. Nếu suy giảm đa dạng sinh học sẽ dẫn đến sự suy
giảm số lượng loài, thành phần loài trong quần xã, quần thể động, thực vật. Như
vậy, đa dạng sinh học có ảnh hưởng đến hệ sinh thái của các loài trên Trái Đất.
Đối với các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ: Cung cấp nguyên
liệu cho ngành nông nghiệp như các giống cây trồng, vật nuôi. Đối với công
13
nghiệp, đa dạng sinh học cung cấp gỗ cho quá trình chế biến lâm sản, làm thuốc
cho ngành công nghiệp dược phẩm. Các khu bảo tồn, vườn quốc gia là những nơi
thăm quan đáp ứng nhu cầu du lịch của ngành dịch vụ.
Có giá trị văn hóa và nhân văn: Một số loài động vật hoang dã còn được
coi là biểu tượng của sự tín ngưỡng và các tác phẩm hội họa, điêu khắc của một
số quốc gia và dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam như: lễ hội săn bắn
theo mùa hoặc hình thành sự quản lí tài nguyên theo tính chất cộng đồng…
Đa dạng sinh học có vai trò lớn trong cuộc sống của con người, nhưng
hiện nay đa dạng sinh học đang có xu hướng bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả
làm giảm hoặc mất đi các chức năng của hệ sinh thái, xói mòn đất, không phân
hủy các chất thải và làm sạch môi trường ảnh hưởng đến vòng tuần hoàn vật chất
và năng lượng trong tự nhiên dẫn đến số lượng thiên tai hằng năm tăng mạnh,
cuối cùng là suy giảm kinh tế mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, ô
nhiễm môi trường.
1.3.2. Vai trò của việc giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học đối với tự nhiên
và xã hội
Giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học đang là vấn đề lớn được cả xã
hội quan tâm. Sự suy thoái về đa dạng sinh học ảnh hưởng to lớn cả môi trường
tự nhiên và đời sống kinh tế xã hội của con người.
Trong tự nhiên, các loài sinh vật (thực vật, động vật và vi sinh vật) sinh
trưởng và phát triển trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Biểu hiện cụ
thể của sự tác động qua lại đó là mối quan hệ tương tác trong chuỗi thức ăn. Nếu
một mắt xích nào đó trong chuỗi thức ăn bị tác động mạnh mẽ (một loài sinh vật
nào đó trong chuỗi thức ăn bị biến động lớn về số lượng loài: tăng nhanh hoặc
giảm mạnh) đều làm cho cả chuỗi thức ăn đó bị phá hủy. Hay nói cách khác, các
sinh vật trong tự nhiên sống tập hợp với nhau tạo thành quần thể, quần xã trong
một hệ sinh thái cân bằng, nếu một loài bị biến động lớn sẽ làm mất cân bằng
quần thể, quần xã và cuối cùng là mất cân bằng cả hệ sinh thái đó, dẫn đến môi
trường sống bị biến đổi.
Nếu đa dạng sinh học đóng vai trò duy trì và đảm bảo môi trường sống
của sinh vật, thì ngược lại sự suy thoái đa dạng sinh học sẽ ảnh hưởng vô cùng
lớn như: làm mất đi nguồn gen quý, các thiên tai thường xuyên xảy ra sẽ ảnh
14
hưởng đến đời sống con người, nguồn cung cấp các nguyên liệu về công nghiệp,
nông nghiệp, y học sẽ bị suy giảm…
Do đó, việc nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học cho người dân nói
chung, HS nói riêng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, con người vừa là
nguyên nhân vừa là nạn nhân gánh chịu hậu quả củasuy thoái đa dạng sinh học.
Khi mỗi cá nhân được nâng cao nhận thức, kiến thức về bảo vệ đa dạng sinh học
sẽ góp phần thúc đẩy cộng đồng cùng nhau tham gia, lúc đó bản thân mỗi cá
nhân sẽ có những hành động mang tính tích cực đem lại sự phát triển, duy trì của
đa dạng sinh học. Để nâng cao nhận thức của người dân, các cơ quan, tổ chức
phải tích cực cung cấp kiến thức, tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận
thức về việc bảo vệ đa dạng sinh học, tạo cho họ sinh kế bền vững, cải thiện mức
sống cho người dân. Khi có nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của dạng sinh
học thì ý thức bảo vệ đa dạng sinh học sẽ hình thành.
1.3.3. Vai trò của giáo dục đa dạng sinh học với HS tiểu học
Giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học nên bắt đầu từ lứa tuổi tiểu
học, vì đây là bậc học cơ bản để bắt đầu các cấp học tiếp theo. HS tiểu học chiếm
số lượng lớn trong dân số nước ta và đều là những đối tượng nhỏ tuổi, thơ ngây
sẽ dễ dàng tiếp thu những kiến thức mới mẻ. HS tiểu học có độ tuổi từ 6- 11 tuổi,
đây là lứa tuổi đang trong thời gian hình thành nhân cách, lại là lực lượng lớn
trong xã hội. Vì vậy, khi tiếp thu kiến thức về đa dạng sinh học kết hợp với
những kiến thức khoa học của các môn học khác không những làm cho HS hiểu
rõ tầm quan trọng, giá trị của đa dạng sinh học mà còn hình thành thói quen,
hành vi ứng xử văn minh, thân thiện với môi trường tự nhiên nói chung và đa
dạng sinh học nói riêng. Đồng thời, HS còn có thể thực hiện và duy trì các hoạt
động tuyên truyền để bảo vệ đa dạng sinh học khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Nếu ở cấp tiểu học, HS không hình thành được tình yêu thiên nhiên, sống hòa
đồng với thiên nhiên, quan tâm tới thế giới tự nhiên, có thói quen sống bảo vệ,
yêu quý, giữ gìn những giá trị của đa dạng sinh học thì ở các cấp sau khó có thể
bù đắp được. Vì thế, việc đầu tư giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học cho HS
tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng và lâu dài của hệ thống giáo dục nói chung
15
và của mỗi GV nói riêng.
1.4. Tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học
Thực hiện việc lồng ghép những kiến thức để bảo vệ đa dạng sinh học ở
trường Tiểu học, đặc biệt thông qua bộ môn TN – XH là thực sự cần thiết, là sự
tất yếu của quá trình giáo dục trong nhà trường. Chủ đề Tự nhiên trong phân môn
TN – XH sẽ bước đầu giúp HS hoàn thiện những kiến thức rời rạc mà HS tích
lũy trong cuộc sống thành một hệ thống kiến thức khoa học, logic về các loài
động, thực vật. Chủ đề Tự nhiên trong phân môn TN – XH lớp 3 sẽ cung cấp cho
HS về sự phong phú và đa dạng của các loài thực vật, động vật, đây chính là cơ
sở khoa học và là điều kiện thuận lợi để giáo viên giáo dục ý thức bảo vệ sự đa
dạng sinh học thông qua các bài học cụ thể như:“Lá” cây”,“Tôm”,
“Cua”,“Cá”,“Thú”,…. Việc lồng ghép giáo dục ý thức trong các bài học thuộc
chủ đề Tự nhiên giúp HS hình thành ý thức và mở rộng kiến thức, kĩ năng về bảo
vệ đa dạng sinh học một cách toàn diện. Bên cạnh đó, việc giáo dục ý thức bảo
vệ đa dạng sinh học còn giúp HS vận dụng những kiến thức, những kĩ năng đã
được học để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, từ đóhình thành ý thức trong việc
bảo vệ đa dạng sinh học.
Ngoài việc hình thành ý thức bảo vệ đa dạng sinh học, việc giáo dục kiến
thức bảo vệ đa dạng sinh học còn hình thành cho HS kĩ năng quan sát, nhận biết
môi trường xung quanh, qua đó giúp HS hình thànhmột số kĩ năng sống cơ bản,
nhận biết được vai trò của bản thân trong việc bảo vệ đa dạng sinh học. GV phát
huy được vai trò của mình trong việc giáo dục và hình thành ý thức để bảo vệ đa
dạng sinh học cho HS.
1.5. Các mức độ tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học trong
môn Tự nhiên xã hội lớp 3
Thế giới động, thực vật trong tự nhiên được phân loại thành các bậc đó là
ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài. Trong đó, mỗi ngành có những đặc trưng về giải
phẫu khác nhau (ngành động vật có xương sống , ngành động vật không xương
16
sống, ngành thân mềm (thường có vỏ cứng bao bọc), ngành chân khớp (có chân
khớp và phân đốt)…). Mỗi ngành lại được chia thành các lớp tiếp theo là bộ,
dưới bộ là họ, chi và cuối cùng là loài. Chủ đề Tự nhiên lớp 3 (động vật, thực
vật) đã được xây dựng trên cơ sở của sự phân loại này. Như vậy, chủ đề Tự nhiên
lớp 3 sẽ cung cấp cho HS những kiến thức đơn giản về các lớp động vật như: lớp
thú, lớp chim, lớp côn trùng, lớp giáp mềm (tôm, cua) và được xây dựng thành
các bài học cụ thể: “Bài 50 Côn trùng”, “ Bài 53 Chim”, “Bài 54 Thú”…Mỗi bài
về động vật trong chủ đề Tự nhiên đã cung cấp cho HS về sự phong phú và đa
dạng của động vật theo lớp và loài (loài hổ, loài bướm…).
Về thực vật, nội dung các bài học về thực vật không được xây dựng theo
sự phân loại mà được thiết kế theo từng cơ quan thực vật như: “Bài 41: Thân
cây”, “Bài 45: Lá cây”, “Bài 47: Hoa”, ….. Tùy theo mỗi loại cơ quan thực vật
mà HS được cung cấp những tri thức đơn giản về sự phong phú về màu sắc, kích
thước, hình dạng, mùi, vị và cấu tạo của từng cơ quan. Từ những sự phong phú
đơn lẻ của mỗi cơ quan thực vật, HS sẽ nhận ra được sự phong phú và đa dạng
của thực vật.
Như vậy, mục tiêu trọng tâm chủ đề Tự nhiên lớp 3 (động vật, thực vật) là
giúp học sinh hiểu về sự phong phú và đa dạng của động, thực vật. Đây chính là
cơ sở quan trọng giúp GV xây dựng các mức độ tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ
sự đa dạng sinh học
1.5.1. Tích hợp toàn phần
Mức độ tích hợp toàn phần là mức độ lồng ghép giáo dục ý thức bảo vệ đa
dạng sinh học trong từng bài học chặt chẽ và đầy đủ nhất. Nghĩa là, giáo dục ý
thức bảo vệ đa dạng sinh học mức độ toàn phần phải đảm bảo nội dung tích hợp
được thực hiện ởphần lớn các hoạt động trong bài học. Ngoài ra, nội dung tích
hợp cần đảm bảo phảiGD cho HS có ý thức về bảo vệ đa dạng sinh học đến bậc
họ, chi và loài chứ không đơn giản dừng lại ở lớp động vật. Đối với thực vật, các
bài được xem là có mức độ tích hợp toàn phần phải đảm bảo nội dung bài họcGD
về sự đa dạng về cấu tạo, đặc điểm bên ngoài (màu sắc, kích thước, mùi, hình
dạng,…) và cả lợi ích của cơ quan thực vật.
1.5.2. Tích hợp bộ phận
Tích hợp bộ phận trong giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học nghĩa là
17
chỉ một bộ phận kiến thức,thuộc hoạt động dạy học chủ yếu của bài học, có thể
tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học.
1.5.3. Tích hợp ở mức độ liên hệ
Đối với mức độ tích hợp này, nội dung giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng
sinh học chỉ được đưa vào bài học nhằm làm cho bài học thêm phong phú và hiệu
quả hơn. Phạm vi tích hợp cũng chỉ dừng lại ở phần giới thiệu bài hoặc củng cố.
Không đi sâu vào phân tích nguyên nhân và hậu quả.
1.6. Đặc điểm tâm lí của học sinh giai đoạn các lớp 1, 2, 3
1.6.1. Đặc điểm quá trình nhận thức
Tri giác: Tri giác của HS tiểu học còn mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi
tiết và nặng về tính không chủ định, do đó mà các em phân biệt các đối tượng
còn chưa chính xác, dễ mắc sai lầm và có khi còn lẫn lộn [21].
HS Tiểu học khi tri giác thường gắn với hành động, với hoạt động thực
tiễn của bản thân. Đối với HS, tri giác sự vật có nghĩa là phải làm cái gì đó với sự
vật, như cầm nắm, sờ mó vật ấy. Khi học sinh tri giác thì cảm xúc của các em thể
hiện rất rõ. Điều mà học sinh tiểu học tri giác đầu tiên từ sự vật là những dấu
hiệu, những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em xúc cảm. Vì thế, cái trực
quan, rực rỡ, sinh động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây ấn tượng tích cực đối
với các em. Tri giác về thời gian và không gian cũng như ước lượng về thời gian
và không gian của HS tiểu học còn hạn chế[21].
Chú ý: Ở lứa tuổi các lớp 1, 2, 3 chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả
năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ
định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến
những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh
ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng...Sự tập trung chú ý của trẻ còn
yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá
trình học tập.[21].
Trí nhớ: HS tiểu học có trí nhớ trực quan hình tượng phát triển chiếm ưu
thế hơn trí nhớ từ ngữ logic. Giai đoạn lớp 1,2, 3 ghi nhớ máy móc phát triển
18
tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh
chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi
nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. [17]
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát
hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng
cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ
hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú
và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.[21].
Tưởng tượng: Là một trong những quá trình nhận thức quan trọng của HS
tiểu học. Nếu tưởng tượng của HS phát triển yếu, không đầy đủ thì sẽ gặp khó
khăn trong hành động, học tập. Tưởng tượng được hình thành và phát triển trong
hoạt động học và hoạt động khác của HS [21].
Tư duy: Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào
những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Hoạt động phân
tích, tổng hợp của HS tiểu học còn sơ đẳng. Đặc điểm tư duy của HS tiểu học nêu
trên chỉ có ý nghĩa tương đối, trong quá trình học tập ở nhà trường, tùy thuộc vào
nội dung, phương pháp và phương thức tổ chức cho các em thực hiện hoạt động
học mà tư duy của các em phát triển, thay đổi cũng có phần khác nhau [21].
Ý chí:Ở lứa tuổi 1, 2 ,3 hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào
yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen,
quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực
thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến
cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn. [21]
1.6.2. Đặc điểm nhân cách của học sinh giai đoạn 1, 2, 3
Tính cách: Mỗi trẻ em một tính cách, có em thì trầm lặng, có em thì sôi
nổi, có em thì nhút nhát, có em thì mạnh dạn. Tính cách của HS tiểu học có
nhược điểm thường bất thường, bướng bỉnh. Đó là hình thức độc đáo phản ứng
lại những yêu cầu của người lớn, những yêu cầu mà các em xem là cứng nhắc, để
19
bảo vệ cái mình “muốn” thay cho cái mình “cần phải”. GV nên tận dụng đặc tính
này để giáo dục HS[21].
Nhu cầu nhận thức: Nhu cầu nhận thức của họ HS tiểu học là nhu cầu tinh
thần. Nhu cầu này có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của các em. Nếu
không có nhu cầu nhận thức thì HS sẽ không có tính tích cực trí tuệ [21].
Tình cảm: Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lí, trong
nhân cách mỗi người. Đối với HS tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là
khâu trọng yếu gắn nhận thức với hoạt động của trẻ em. Tình cảm tích cực sẽ
kích thích trẻ em nhận thức và thúc đẩy trẻ em hoạt động. Với tư cách là hoạt
động chủ đạo, hoạt động học làm cho HS tiểu học phát triển mạnh về trí tuệ,
đồng thời hoạt động học cùng với các hoạt động khác cũng hình thành và phát
triển tình cảm và những nét tâm lí nhiều mặt, những phẩm chất tâm lí của nhân
cách đang hình thành. Giáo dục toàn diện ở tiểu học là đảm bảo điều kiện để học
sinh tiểu học được học, được thực hiện các hoạt động để có sự phát triển hài hòa
tối ưu có thể được trong điều kiện cụ thể [21].
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu cơ sở lí luận của việc giáo dục ý
thức bảo vệ sự đa dạng sinh học cho HS tiểu học trong nhà trường hiện nay.
Chúng tôi nhận thấy rằng việc giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học cho
học sinh rất quan trọng và cần thiết. Nhất là trong xã hội ngày càng phát triển,
nhu cầu của con người ngày càng được đẩy mạnh thì việc giáo dục ý thức cho HS
về đa dạng sinh học cần phải được quan tâm hơn nữa. Việc giáo dục ý thức bảo
vệ sự đa dạng sinh học cho HS không chỉ làm cho các em có kiến thức về đa
dạng sinh học, mà cũng góp phần quan trọng vào trong công cuộc đổi mới của
đất nước ta.
Qua đó có thể thấy được đặc điểm của vấn đề đa dạng sinh học, biểu hiện
của việc suy thoái đa dạng sinh học hiện nay. Ngoài ra chúng ta có thể thấy được
đa dạng sinh học có vai trò quan trọng như thế nào đối với tự nhiên và xã hội.
Tìm hiểu về những đặc điểm tâm lí và nhân cách của HS lớp 1, 2, 3 trong quá
trình tiếp thu và nhận thức về vấn đề đa dạng sinh học.
20
21
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO
VỆ SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC TRONG MÔN TN – XH LỚP 3
2.1. Mục tiêu, nội dung chủ đề Tự nhiên môn TN – XH lớp 3
2.1.1. Mục tiêu
2.1.1.1. Mục tiêu môn TN – XH lớp 3
Sau khi học sinh học xong môn TN – XHlớp 3, HS sẽ biết được[1]:
- Tên, chức năng và cách giữ vệ sinh các cơ quan trong cơ thể. Biết cách
phòng tránh một số bệnh thường gặp ở các cơ quan: Hô hấp, Tuần hoàn và Bài
tiết nước tiểu.
- Biết mối quan hệ họ hàng nội ngoại. Biết phòng tránh cháy khi ở nhà.
Biết được những hoạt động chủ yếu của nhà trường và giữ an toàn khi ở trường.
Biết tên một số cơ sở hành chính, văn hóa, y tế, giáo dục..., một số hoạt động
thông tin liên lạc, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại ở tỉnh nơi HS ở.
- Biết một số quy tắc đối với người đi xe đạp. Biết được cuộc sống trước
kia và hiện nay ở địa phương và biết giữ vệ sinh môi trường.
- Biết được sự đa dạng phong phú của thực vật và động vật, chức năng của
thân cây, rễ, lá, hoa, quả đối với đời sống của cây và lợi ích đối với con người, lợi
ích hoặc tác hại của một số động vật đối với đời sống con người. Biết vai trò của
Mặt Trời đối với Trái Đất và đời sống con người. Vị trí và sự chuyển động của
Trái Đất trong hệ thống mặt trời, sự chuyển động của Mặt Trăng quay quanh Trái
Đất. Hình dạng, đặc điểm, bề mặt Trái Đất, biết ngày, đêm, năm, tháng và các
mùa.
2.1.1.2. Mục tiêu chủ đề Tự nhiên trong môn TN – XH lớp 3
Cùng với hai chủ đề là Con người - Sức khỏe và chủ đề Xã hội, chủ đề Tự
nhiên trong phân môn TN – XH lớp 3 giúp cho HS biết được sự phong phú, đa
dạng của các loài động, thực vật qua các bài học như “Thực vật”, “Thân cây”,
“Rễ cây”, “Lá cây”, “Khả năng kì diệu của lá cây”, “Hoa”, “Quả”, “Động vật”,
“Côn trùng”, “Tôm, Cua”, “Cá”, “Chim”, “Thú”. Sau khi học xong HS hiểu được
cấu tạo, đặc điểm bên ngoài của thân cây, rễ, lá, hoa, quả đối với đời sống của
cây và những ích lợi, tác hại của chúng đối với con người và động vật; biết được
22
vai trò của Mặt Trời đối với Trái Đất và đối với đời sống con người, vị trí và sự
chuyển động của Trái Đất trong hệ thống Mặt Trời, sự chuyển động của Mặt
Trăng quay quanh Trái Đất; hình dạng, đặc điểm, bề mặt Trái Đất, biết ngày,
đêm, năm, tháng và các mùa qua các bài học “Mặt Trời”, “Trái Đất - Quả địa
cầu”, “Sự chuyển động của Trái Đất”, “Trái Đất là một hành tinh trong hệ Mặt
Trời”, “Mặt Trăng là vệ tinh của Trái Đất”, “ngày và đêm trên trái đất”, “năm
tháng và mùa”, “các đới khí hậu”, “bề mặt Trái Đất”, “bề mặt lục địa”.
2.1.2. Nội dung chủ đề Tự nhiên trong môn TN – XH lớp 3
Nội dung dạy học chủ yếu của chủ đề này là: [1]
- Đặc điểm cấu tạo và môi trường sống của một số cây, con vật phổ biến.
Ích lợi và tác hại của chúng đối với con người.
- Một số hiện tượng tự nhiên như thời tiết, ngày và đêm, các mùa.
- Sơ lược về hệ Mặt Trời, Trái Đất và các vận động của Trái Đất.
- Một số biểu tượng về sông, hồ, suối, lục địa, đại dương, các dạng địa hình.
Nội dung chủ đề Tự nhiên trong môn TN – XH3 phong phú và đa dạng về
các loại hoa, lá, rễ cây, ngoài ra còn có các loài động vật, tôm, cá, cua. Thông qua
các bài đó có thể giáo dục cho HS thấy được vai trò to lớn của đa dạng sinh học
đối với con người và môi trường sống.
2.2. Thực trạng giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học trong môn TN –
XH lớp 3
2.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học trong
môn TN – XH lớp 3
2.2.1.1. Mục đích, nội dung điều tra
* Mục đích điều tra
Việc giáo dục ý thức để bảo vệ sự đa dạng sinh học là một việc làm thiết
thực và có hiệu quả cho cả người dạy và người học. Hiện nay, HS tiểu học nói
chung và HS khối lớp 3 nói riêng, việc hiểu biết về đa dạng sinh học rất thấp. Để
có được số liệu khách quan và cụ thể về số lượng HS được giáo dục về ý thức
bảo vệ đa dạng sinh học, chúng tôi đã tiến hành điều tra học sinh khối lớp 3, tại
trường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Quá trình
23
điều tra sẽ góp phần làm rõ vấn đề nghiên cứu được thực hiện trong thực tế, kết
quả và những khó khăn trong quá trình dạy học. Việc hiểu rõ được thực trạng
của vấn đề sẽ giúp chúng tôi đưa ra những biện pháp phù hợp trong quá trình
giảng dạy.
* Nội dung điều tra
Giáo viên:
Trong phiếu điều tra GV chúng tôi sẽ khảo sát 10 câu hỏi. Nội dung câu
hỏi xoay quanh các vấn đề như: vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức bảo vệ sự
đa dạng sinh học cho học sinh qua môn TN – XH lớp 3, GV thường sử dụng các
hình thức dạy học nào để giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học cho HS, tìm
hiểu về kinh nghiệm, sự hiểu biết về việc giáo dục đa dạng sinh học cũng như
những khó khăn thuận lợi trong quá quá trình dạy học của GV tại trường Tiểu học.
Học sinh:
Nội dung phiếu điều tra HS chúng tôi sẽ khảo sát 10 câu hỏi. Các câu hỏi
sẽ bao gồm các mức độ khác nhau: mức độ hiểu biết của các em về vấn đề đa
dạng sinh học cũng như nhận thức được tầm quan trọng của nó. Khả năng yêu
thích và mong muốn được các thầy, cô cung cấp kiến thức về đa dạng sinh học,
HS có thường xuyên được giáo dục về đa dạng sinh học hay không và khả năng
áp dụng những kiến thức về đa dạng sinh học trong cuộc sống hằng ngày.
Phụ huynh học sinh:
Nội dung phiếu điều tra PHHS chúng tôi sẽ khảo sát 8 câu hỏi. Các câu
hỏi bao gồm các nội dung như nhận thức của PH về việc giáo dục ý thức bảo vệ
sự đa dạng sinh học cho con em mình. Mức độ quan tâm của PH về đa dạng sinh
học cũng như việc giáo dục đa dạng sinh học cho con em. Sự quan tâm của PH
về việc giáo dục đa dạng sinh học trong nhà trường, những hoạt động của PH
trong việc giáo dục đa dạng sinh học.
2.2.1.2. Đối tượng và phương pháp khảo sát
* Đối tượng điều tra
Trong phạm vi của đề tài, đối tượng chúng tôi tiến hành điều tra là những
GV, HS, PHHS khối lớp 3 tại trường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Phước
24
Hòa, thành phố Tam Kỳ.
Đối với GV: Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 5 GV tại trường tiểu học
Nguyễn Thị Minh Khai thành phố Tam Kỳ. Các GV điều tra đã tốt nghiệp khóa
học về đào tạo cử nhân tiểu học tại các cơ sở giáo dục uy tín, chất lượng. Các
GVcó điều kiện tiếp xúc và đã được tập huấn, tuyên truyền về những kiến thức
về đa dạng sinh học. Qua khảo sát, bình quân thâm niên giảng dạy của GV là 17
năm. Như vậy, đối tượng đảm bảo yêu cầu khảo sát.
Đối với HS: Chúng tôi đã khảo sát 60 HS của hai lớp 3 tại trường tiểu học
Nguyễn Thị Minh Khai. HS được khảo sát có mức học trung bình trở lên, đi học
đầy đủ, có thái độ nghiêm túc, có kỉ luật, nề nếp rõ ràng.
Đối với PHHS: PH có thái độ nghiêm túc khi trả lời các câu hỏi. Số lượng
PH được khảo sát là 15 người.
* Phương pháp điều tra
* Phương pháp Anket (Phiếu điều tra)
Mục đích: Qua điều tra bằng phiếu đối với GV trực tiếp giảng dạy lớp 3
nhằm thu thập số liệu và dựa vào số liệu để nêu lên thực trạng của việc giáo dục
ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học trong môn TN – XH.
Cách tiến hành: Chúng tôi đã tiến hành điều tra theo nội dung đã soạn
thảo trong phiếu điều tra ở địa bàn nêu ở trên. Tổng số phiếu phát ra là 5 phiếu
đối với GV, 60 phiếu điều tra HS, 15 phiếu đối với PHHS, số phiếu thu vào bằng
số phiếu phát ra.
* Phương pháp quan sát
Mục đích: Để tìm hiểu và bổ sung về thực trạng giáo dục ý thức bảo vệ sự
đa dạng sinh học trong dạy và học môn TN – XH của GV và HS nhằm có cơ sở
chắc chắn cho quá trình nghiên cứu.
Cách tiến hành: Dự giờ một số tiết dạy môn TN – XH của các GV thuộc
khối lớp 3 tại trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, tìm hiểu về việc lồng
ghép nội dung giáo dục ý thức bảo vệ sự đa dạng sinh học. Nhằm đưa ra những
nhận xét về việc giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học trong môn TN – XH
của học sinh lớp 3.
* Phương pháp đàm thoại
25