Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.06 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa………………………………………………………………………
Lời cam đoan………………………………………………………………………
Lời cám ơn………………………………………………………………………...
Mục lục……………………………………………………………………............
Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………………………
Danh mục các bảng, biểu đồ, sơ đồ……………………………………………….
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………….
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU……………………………………………………..
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác GDTC ở trường THPT……….
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề…………………………………………
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà trường………………………………………….
1.3. Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân…………………………….
1.4. Công tác GDTC ở trường THPT……………………………………………..
1.5. Chất lượng công tác GDTC và vai trò quản lý của HT trong việc nâng
cao chất lượng công tác GDTC ở trường THPT…………………………………..
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác GDTC của HT các trường THPT
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế………………………………………
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và GD-ĐT của huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế…………………………………………..
2.2. Khái quát quá trình khảo sát thực trạng……………………………………….
2.3. Thực trạng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế…………………………………………………………
2.4. Thực trạng quản lý của HT đối với công tác GDTC ở các trường THPT
huyện Phong Điền……………………………………………………………
2.5. Nhận định, đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý hoạt động
GDTC của HT các trường THPT huyện Phong Điền…………………………
Chương 3: Các biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao chất lượng công tác
GDTC ở các trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền…………………..
3.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp…………………………………………………..


3.2. Các biện pháp cụ thể…………………………………………………………..

1


3.2.1. Nhóm các biện pháp nâng cao nhận thức về công tác GDTC ở
trường THPT……………………………………………………….
3.2.2. Nhóm các biện pháp tăng cường công tác quản lý dạy học môn
thể dục chính khóa……………………………………………….
3.2.3. Nhóm các biện pháp quản lý công tác GDTC ngoài giờ…………….
3.2.4. Nhóm các biện pháp xây dựng đội ngũ GV giảng dạy bộ
môn thể dục…………………………………………………………
3.2.5. Nhóm các biện pháp tổ chức các điều kiện hỗ trợ, đáp ứng
hoạt động GDTC……………………………………………………
3.2.6. Mối quan hệ giữa các biện pháp……………………………………...
3.3. Khảo nghiệm nhận thức về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp….
3.3.1. Về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất………….
3.3.2. Nhận thức về những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện
các biện pháp…………………………………………………………
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ……………………………………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL

Cán bộ quản lý


CBQLGD

Cán bộ quản lý giáo dục

GDĐT

Giáo dục đào tạo

GDTC

Giáo dục thể chất

GV

Giáo viên

CB

Cán bộ

NV

Nhân viên

HKPĐ

Hội khỏe Phù Đổng

HT


Hiệu trưởng

HS

Học sinh

NXB

Nhà xuất bản

QLGD

Quản lý giáo dục

TDTT

Thể dục thể thao

THPT

Trung học phổ thông

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3



A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sức khỏe và trí tuệ là hai thứ quý nhất, là tài sản vô giá của mỗi người, mỗi
gia đình, mỗi quốc gia. Giữa sức khỏe và trí tuệ có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
cùng hỗ trợ cho nhau trong quá trình hoạt động của con người. Có sức khỏe tốt
con người mới đủ minh mẫn, hưng phấn, sáng tạo trong học tập, công tác; có sức
khỏe tốt con người mới thực hiện được ước mơ, hoài bão của mình, đem lại hiệu
quả cao trong học tập, lao động, phục vụ được nhiều cho nhân dân, cho đất nước.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc nâng cao sức khỏe cho nhân
dân, ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam mới, trong lời kêu gọi toàn dân
tập thể dục, ngày 27 tháng 3 năm 1946, Bác Hồ đã nhắc nhở: “Giữ gìn dân chủ,
xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành
công…”.
Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của con người chiếm một vị trí rất quan
trọng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới. Chăm lo
cho thế hệ trẻ trong sự nghiệp đổi mới chính là chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho tương lai. Đó là chăm lo toàn diện về nhiều mặt, trong đó có mặt
quan trọng và tất yếu là về sức khỏe thể chất, bởi vì sự cường tráng về thể chất
không những là nhu cầu tự thân con người mà còn là vốn quý để con người tạo ra
tài sản vật chất và tinh thần cho xã hội.
Theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương khóa VII: Muốn xây dựng đất
nước giàu mạnh, văn minh không những chỉ cần có con người phát triển cao về trí
tuệ, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, lối sống mà còn phải cường
tráng về thể chất. Chăm lo cho con người phát triển về thể chất là trách nhiệm của
mọi người, mọi ngành, của toàn xã hội. Bởi vậy giáo dục thể chất (GDTC) và hoạt
động thể dục thể thao (TDTT) trong nhà trường các cấp là một trong những nội
dung cơ bản góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi giáo dục phải tạo ra
những con người phát triển toàn diện về trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục và nghề
nghiệp. Vì vậy giáo dục thể chất trong hệ thống giáo dục nói chung và trong nhà trường

nói riêng có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người, góp

4


phần không nhỏ nâng cao thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh,
làm phong phú đời sống văn hoá và phát huy tinh thần dân tộc của con người Việt Nam,
tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng cho đất nước.
Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 24 tháng 3 năm 1994 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới yêu cầu: “Thực hiện giáo dục
thể chất trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện thể dục thể thao trở
thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên…”. Qua 3 năm thực
hiện, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có tổng kết như sau: Việc tập luyện thể dục
nội khóa, ngoại khóa trong các trường học đã có tổ chức và đầy đủ hơn, phong trào
TDTT quần chúng, hội khỏe Phù Đổng các cấp, nhất là cơ sở đã tiến hành thường
xuyên, có hệ thống. Tuy nhiên, công tác GDTC trong các trường học còn nhiều bất
cập; nhận thức của các cấp quản lý giáo dục còn hạn chế, chất lượng giảng dạy,
học tập còn thấp, hiệu quả chưa cao…
Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến
năm 2020” đã nêu quan điểm: “Phát triển thể dục, thể thao là một yêu cầu khách
quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc
sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng
lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế; đồng thời, là trách nhiệm
của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội và của mỗi người dân.
Các cấp ủy đảng có trách nhiệm thường xuyên lãnh đạo công tác thể dục, thể thao,
bảo đảm cho sự nghiệp thể dục, thể thao ngày càng phát triển” [29, 1]. Nghị quyết
cũng đã nêu lên những nhiệm vụ và giải pháp đối với công tác phát triển sự nghiệp
thể dục, thể thao nước nhà đến năm 2020, trong đó đề cập đến việc “nâng cao chất

lượng, hiệu quả giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong trường học”; khẳng
định “Thể dục thể thao trường học là bộ phận quan trọng của phong trào thể dục,
thể thao, một mặt của giáo dục toàn diện nhân cách học sinh, sinh viên, cần được
quan tâm đầu tư đúng mức”. Nhiệm vụ đặt ra là “Thực hiện tốt giáo dục thể chất
theo chương trình nội khóa; phát triển mạnh các hoạt động thể thao của học sinh,
sinh viên, bảo đảm mục tiêu phát triển thể lực toàn diện và kỹ năng vận động cơ
bản của học sinh, sinh viên và góp phần đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao.

5


Đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục thể chất, gắn giáo dục thể chất với
giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức khỏe và kỹ năng sống
của học sinh, sinh viên. Đãi ngộ hợp lý và phát huy năng lực đội ngũ giáo viên thể
dục hiện có, mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên,
hướng dẫn viên thể dục cho trường học; củng cố các cơ sở nghiên cứu khoa học về
tâm sinh lý lứa tuổi và thể dục, thể thao trường học”.
Vì vậy, nâng cao chất lượng công tác GDTC trong tình hình mới hiện nay là
một yêu cầu có tính nguyên tắc đặt ra đối với các nhà trường, đòi hỏi nhiều tác
động, trong đó công tác quản lý của người Hiệu trưởng (HT) đóng vai trò rất quan
trọng.
Trong những năm qua, các trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả khá tốt
trong việc nâng cao chất lượng GDTC. Song nhìn từ góc độ của khoa học quản lý
thì việc quản lý hoạt động GDTC của HT chưa mang tính khoa học, chưa có tầm
nhìn lâu dài, chưa có cơ sở khoa học vững chắc để đảm bảo sự phát triển cao hơn
chất lượng công tác GDTC; chưa thực sự coi hoạt động dạy học môn GDTC là
một hoạt động chuyên môn quan trọng trong nhà trường, việc chỉ đạo tổ chức các
hoạt động nội, ngoại khóa TDTT chưa thường xuyên, hình thức chưa phong phú,
hiệu quả giáo dục còn hạn chế.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhà trường, tuy nhiên công
trình nghiên cứu về quản lý hoạt động GDTC của HT nhà trường nói chung, của
HT trường THPT nói riêng vẫn còn ít. Việc đánh giá đúng thực trạng và đề xuất
các biện pháp quản lý phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác GDTC
cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu và thực hiện đề
tài: “Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các
trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá thực trạng quản lý của HT đối với
công tác GDTC, trên cơ sở đó xác lập các biện pháp quản lý có hiệu quả nhằm
nâng cao chất lượng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế.

6


3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý của người HT trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công
tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
GDTC là một nội dung trong những nội dung giáo dục toàn diện ở nhà
trường. Nếu đánh giá đúng thực trạng, xác lập được các biện pháp tổ chức, quản lý
khoa học, phù hợp với thực tiễn thì có thể nâng cao chất lượng hoạt động GDTC ở
các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, đáp ứng được mục tiêu
giáo dục HS phát triển toàn diện theo quan điểm của Đảng.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác GDTC ở trường THPT.
5.2. Đánh giá thực trạng quản lý công tác GDTC của HT các trường THPT

huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5.3. Xác lập các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác
GDTC ở trường THPT.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương
pháp: Phân tích - tổng hợp, phân loại tài liệu…nhằm thu thập những thông tin cho
tổng quan lý luận của vấn đề nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng các phương
pháp: Phương pháp quan sát; Phương pháp điều tra, anket; Phương pháp trò
chuyện, phỏng vấn; Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia…nhằm khảo sát, đánh giá
thực trạng và xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp.
6.3. Phương pháp thống kê toán học: Nhằm xử lý các kết quả nghiên cứu.
7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
7.1. Đề tài nghiên cứu được tiến hành ở các trường THPT trên địa bàn
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế (gồm 04 trường: THPT Nguyễn Đình
Chiểu, THPT Phong Điền, THPT Trần Văn Kỷ, THPT Tam Giang).
7.2. Nghiên cứu của đề tài giới hạn trong phạm vi công tác GDTC ở các
trường THPT.

7


8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn gồm 3 phần:
Phần mở đầu: Đề cập đến những vấn đề chung của đề tài.
Phần nội dung: Gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác GDTC ở trường THPT.
Chương 2: Thực trạng quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác GDTC ở
các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất

lượng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
Phần kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

8


B - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về sự phát triển thể chất của
thanh thiếu niên, học sinh như:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với vụ TDTT quần chúng (ủy ban TDTT),
Viện khoa học TDTT và 12 sở GD- ĐT đại diện cho các vùng, miền của cả nước đã tiến
hành khảo sát thể chất HS phổ thông từ 7 đến 18 tuổi vào năm 1996, trên các chỉ tiêu cơ
bản về hình thái và một số chỉ tiêu về tố chất thể lực (Sức mạnh, nhanh, bền, khéo léo).
Kết quả đã được tổng kết trong tài liệu: "Thực trạng phát triển thể chất của HS, sinh
viên trước thềm thế kỷ 21" của Lê Văn Lẫm (chủ biên).
Để làm rõ thêm tầm quan trọng của công tác GDTC và cung cấp những thông tin
về hoạt động GDTC của một số nước trên thế giới, các tác giả: Lê Văn Lẫm và Phạm
Trọng Thanh trong tài liệu: "Giáo dục thể chất ở một số nước trên thế giới", đã giới
thiệu một số tư liệu về chương trình GDTC và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của một số
nước trên thế giới.
Hội nghị khoa học GDTC, sức khoẻ ngành GD-ĐT lần thứ 2 được tổ chức trong
tháng 5 năm 1998, tại trường Đại học quốc dân Hà Nội và lần thứ 3 năm 2001 tổ chức
tại trường Cao đẳng sư phạm TDTT Trung ương I Hà Tây đã kế thừa và tiếp tục phát

triển những kết quả nghiên cứu và thành tựu đã đạt được trên lĩnh vực GDTC trong
những năm qua.
Tuy nhiên những đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát thực trạng
chung của một số đơn vị và đề ra các biện pháp cải tiến công tác tổ chức giảng dạy bộ
môn thể dục, còn vấn đề về công tác quản lý chỉ đạo của người HT đối với mặt hoạt
động này thì chưa được đề cập đến. Đặc biệt hiện nay, do điều kiện kinh tế xã hội mỗi
vùng miền khác nhau, cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động GDTC nhiều vùng miền
đang mất cân đối, thậm chí có nơi GV TDTT còn thiếu phải sử dụng GV các bộ môn
khác đảm nhận công tác giảng dạy kiêm nhiệm.
Những biện pháp quản lý đã được nêu ra, nhưng thực chất, đó vẫn là những biện
pháp chung thường thấy trong các bài giảng về quản lý nhà trường.
Để người HT làm đúng chức năng quản lý của mình, nếu chỉ nêu ra các yêu cầu
về công việc GV phải thực hiện thôi thì chưa đủ. Điều chủ yếu là người HT phải thực

9


hiện các biện pháp quản lý đúng đắn nhằm tổ chức, chỉ đạo nâng cao chất lượng công
tác GDTC, đạt được yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo.
Ở địa bàn nghiên cứu, trước yêu cầu đòi hỏi nâng cao chất lượng công tác GDTC,
thực tế đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết, trong đó công tác quản lý là
một vấn đề đặc biệt quan trọng. Tuy vậy, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức và
nghiên cứu đầy đủ. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá thực trạng và xác lập
các biện pháp quản lý giúp người HT các trường THPT tổ chức, quản lý tốt công tác
GDTC, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở địa phương.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà trường
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một hoạt động phổ biến diễn ra trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt nó
có liên quan mật thiết đến sự hợp tác và phân công lao động. Khi những con người cùng

hoạt động vì một mục đích chung nào đó, để đạt được mục đích đề ra cần phải có sự
quản lý. C.Mác đã xem quản lý là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lao động xã
hội. Ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hành
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó.
Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một
nhạc trưởng”.
Có nhiều cách định nghĩa về khái niệm quản lý. Tuỳ theo mỗi quan điểm tiếp cận
người ta có các cách định nghĩa khác nhau:
Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức” [5, 1].
Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [5, 1].
Quản lý là việc đảm bảo sự hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi
liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với
hoàn cảnh mới [21, 15].
Như vậy, các định nghĩa về quản lý đều hướng đến hiệu quả công tác quản lý, phụ
thuộc vào các yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể quản lý, mục đích hướng đến của công
tác quản lý bằng tác động từ chủ thể đến khách thể quản lý nhờ công cụ và phương pháp
cụ của hoạt động quản lý, có thể do chủ thể quản lý
quản lý. Mục tiêu hay mục Công
đích chung
áp đặt, do yêu cầu khách quan của xã hội hay do có sự cam kết, thoả thuận giữa chủ thể
Khách thể
Chủ thể quản lý
Mục tiêu
Phương pháp


10


quản lý và khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối tác động tương hỗ giữa chủ thể và
khách thể quản lý. Quá trình tác động này có thể được thể hiện qua sơ đồ sau:

Công cụ
Khách thể

Chủ thể quản lý

Mục tiêu

Phương pháp
Cho dù cách tiếp cận nào thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác
động (tổ chức, điền khiển, chỉ huy) hợp qui luật của chủ thể quản lý trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu đã đề ra.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, bản chất của nó là nhằm truyền đạt những
kinh nghiệm, những sáng tạo trong đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội của thế hệ
trước cho thế hệ sau. Chính vì vậy vai trò của giáo dục có một vị trí cực kỳ quan trọng,
là một thành tố tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội, điều đó được khẳng định bởi chính
sách đầu tư cho giáo dục của các quốc gia. Trong xã hội phát triển, quản lý cũng cần
được thực hiện sự phân công và chuyên môn hoá lao động. Do đó đã tất yếu dẫn đến
một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập tương đối trong giáo dục, đó là công tác quản lý
giáo dục (QLGD), đồng thời hình thành một đội ngũ những người lao động trong lĩnh
vực này, đó là: cán bộ QLGD.
P.V. Khu-đô-min-sky cho rằng: QLGD là sự tác động có hệ thống, có kế hoạch, có
mục đích. Nói cách khác: QLGD chính là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thế quản lý, nhằm đưa hoạt dộng giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận

thức và vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân
[21,2].
Khái niệm QLGD đã được nhiều nhà giáo dục nói đến. Xét theo hệ thống: có hệ
thống giáo dục cấp cao (Trung ương - Bộ), hệ thống giáo dục cấp trung gian (Thành
phố, Tỉnh - Sở, Phòng), hệ thống giáo dục cấp cơ sở (Nhà trường). Nội dung công tác
của từng cấp là khác nhau. Sự khác nhau ấy do phân cấp quản lý quy định, do nhiệm vụ
từng thời kỳ chi phối, do đặc điểm kinh tế - xã hội tác động.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là cơ sở giáo dục, đào tạo học sinh, là nơi thực thi mọi chủ trương,
đường lối, chế độ chính sách, nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục và trực tiếp diễn

11


ra lao động dạy của thầy, lao động học của trò, hoạt động của bộ máy quản lý trường
học.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và với
từng học sinh" [9, 22].
Từ đó, quản lý nhà trường được hiểu là một hệ thống những hoạt động có mục
đích có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho nhà trường vận hành
theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thể hiện tính chất nhà trường XHCN,
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ.
1.2.2. Các chức năng của quản lý nhà trường
Hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các chức năng quản lý. Chức năng quản lý là các dạng hoạt động tương đối độc lập
được tách ra từ hoạt động quản lý. Có nhiều cách phân chia các chức năng quản lý
nhưng tựu trung đều thống nhất bốn chức năng cơ bản và chủ yếu sau: Kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra.

1.2.2.1. Kế hoạch hoá: Là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương
lai của tổ chức và con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó.
Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá:
Một là, xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức.
Hai là, xác định và đảm bảo về các nguồn lực của tổ chức, để đạt được mục tiêu
này.
Ba là, trên cơ sở đó quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được
các mục tiêu đã đề ra.
1.2.2.2. Tổ chức: Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa
các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành
công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu
quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn nhân lực và vật lực
khác. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của
chủ thể quản lý, phụ thuộc vào việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cũng như tạo
động lực, đặc biệt là năng lực nội sinh của tổ chức. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý nghĩa
quyết định đối vói việc chuyển hoá kế hoạch thành hiện thực. V.I Lênin đã từng khẳng
định: "Tổ chức là cương lĩnh thứ hai".
1.2.2.3. Chỉ đạo (lãnh đạo): Sau khi kế hoạch đã được thiết lập, cơ cấu bộ máy

12


đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có người đứng ra lãnh đạo,
dẫn dắt tổ chức. Một số học giả gọi đó là quá trình chỉ đạo hay tác động. Chỉ đạo là quá
trình liên kết, liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức, tập hợp động viên họ hoàn
thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Theo quan điểm hệ
thống, chỉ đạo là quá trình vận hành, điều khiển hệ thống.
1.2.2.4. Kiểm tra: Là quá trình theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến
hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Nó diễn ra có tính chu kỳ như:
Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động.

Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả sự thành đạt so vói chuẩn mực đặt ra.
Người quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch.
Người quản lý hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu cần [5; 4].
1.2.3. Nội dung của công tác quản lý nhà trường
Quản lý quá trình giáo dục đào tạo (GDĐT): Mục tiêu giáo dục; nội dung giáo
dục; phương pháp giáo dục; hình thức tổ chức giáo dục; quá trình dạy học và giáo dục
của giáo viên (GV); quá trình học và tự giáo dục của HS; kết quả giáo dục.
Quản lý cơ sở vật chất và các thiết bị dạy học.
Quản lý hành chính - tài chính.
Quản lý nhân sự: GV, cán bộ, nhân viên, HS.
Quản lý môi trường giáo dục.
Trong đó quản lý quá trình giáo dục là trung tâm.
1.3. Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân
Giáo dục THPT nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cấp học cuối cùng của
bậc giáo dục phổ thông (gồm ba cấp: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) [2,
5].
Trường THPT xã hội chủ nghĩa có tính chất phổ thông, lao động, kỹ thuật tổng
hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị nghề. Tính chất của trường THPT thể hiện trong cơ cấu
tổ chức, trong toàn bộ hoạt động giảng dạy, giáo dục, học tập và các mặt công tác khác
của trường.
1.3.1. Nhiệm vụ của trường THPT
Trường THPT có những nhiệm vụ sau đây:
Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương
trình giáo dục phổ thông dành cho cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành.

13


Tuyển sinh và tiếp nhận HS; vận động HS đến trường; quản lý HS theo quy định

của Bộ GDĐT.
Quản lý GV, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật.
Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của Nhà
nước.
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối hợp với
gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
Tổ chức cho GV, nhân viên, học sinh tham gia các hoạt động xã hội và thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật [2,5].
1.3.2. Mục tiêu quản lý của trường THPT
Trước khi xem xét mục tiêu quản lý của trường THPT cần xem xét mục tiêu của
giáo dục phổ thông nói chung và mục tiêu của giáo dục THPT nói riêng. Luật Giáo dục
(2005) xác định:
"Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bả, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [15,17]
"Mục tiêu của giáo dục THPT nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường
về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng
phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động." [15,17].
Trên cơ sở của các mục tiêu giáo dục THPT, các mục tiêu cụ thể trong quản lý
trường học hợp thành hệ mục tiêu sau đây:
Mục tiêu về phát triển số lượng.
Mục tiêu về nâng cao chất lượng đào tạo.
Mục tiêu về xây dựng đội ngũ trở thành tập thể sư phạm dân chủ, đoàn kết, đủ về
số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu.
Mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học và các
hoạt động giáo dục khác.

Mục tiêu về xây dựng hệ thống chính trị trong trường học và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý.
Mục tiêu về phối hợp gia đình và các lực lượng xã hội tham gia xây dựng nhà

14


trường, tham gia quá trình đào tạo HS, thực hiện "xã hội hoá sự nghiệp giáo dục".
Hệ thống các mục tiêu quản lý ấy phải được thực hiện đồng bộ, song trong từng
giai đoạn cẩn phải xác định "mục tiêu ưu tiên" và coi đó là "nút nhấn" chiến lược. Đối
với trường THPT mục tiêu ưu tiên là mục tiêu phát triển và nâng cao chất lượng GDĐT.
1.3.3. Hiệu trưởng trường THPT và công tác quản lý nhà trường
Về mặt nhà nước, HT là thủ trưởng trường học, đại diện cho nhà trường về mặt
pháp lý, có trách nhiệm và thẩm quyền cao nhất về mặt hành chính và chuyên môn trong
nhà trường, chịu trách nhiệm trước chính quyền và cơ quan quản lý cấp trên về tổ chức
và quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường.
Về mặt quản lý, HT có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
Thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường được quy định tại khoản 3 Điều 20
của Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học;
Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch nhiệm vụ năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và
các cấp có thẩm quyền;
Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà
trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó; đề xuất các thành viên của Hội đồng trường trình cấp
có thẩm quyền quyết định;
Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công tác, kiểm tra,
đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen thưởng, kỉ luật đối với
giáo viên, nhân viên; thực hiện việc tuyển dụng giáo viên, nhân viên; ký hợp đồng lao

động; tiếp nhận, điều động giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước;
Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức; xét duyệt
kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương
trình và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh;
Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân viên, học
sinh; tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; thực hiện công
tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường;
Chỉ đạo thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động của ngành; thực hiện

15


công khai đối với nhà trường;
Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các
chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật [2,13].
Gánh trên vai trọng trách như vậy, đòi hỏi người HT phải thường xuyên phấn đấu,
rèn luyện để thể hiện tốt các vai trò sau đây:
HT là người đại diện Nhà nước về mặt hành chính, thực thi các hoạt động quản lý
trường học trên cơ sở pháp luật nhà nước và các văn bản qui phạm pháp luật của các cơ
quan quản lý hữu quan. HT là người đại diện cho chính quyền về mặt thi hành luật, HT
quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật.
HT trường THPT là một nhà sư phạm mẫu mực, đóng vai trò là con chim đầu đàn
của tập thể sư phạm nhà trường bằng cách thường xuyên chăm lo việc bồi dưỡng nâng
cao nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ, biết chăm sóc tinh hoa của đơn vị, biết trân trọng
người tài năng. Muốn thực hiện tốt vai trò này ngưòi HT phải trải nghiệm trong cuộc
sống, am tường về khoa học giáo dục, khoa học và phương pháp dạy học bộ môn, phải
dạy giỏi một môn mà mình được đào tạo.
HT trường THPT phải là nhà cách tân giáo dục, luôn luôn tìm tòi, đổi mới hoạt
động sư phạm, đổi mới hoạt động quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và hiệu quả

công tác của bản thân. HT phải thực hiện tốt các mục tiêu và biết đón đầu sự phát triển.
HT là nhà hoạt động xã hội, thực hiện nguyên lý "Nhà trường gắn liền với xã hội"
và thực hiện "xã hội hoá giáo dục". HT phải tham gia các hoạt động xã hội với tư cách là
người đại diện cho nhà trường nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà xã hội qui định, đặt ra
cho nhà trường.
HT trường THPT phải thường xuyên phấn đấu để trở thành một nhân cách văn
hoá. Với tư cách là người đứng đầu của nhà trường, HT phấn đấu không mệt mỏi cho
việc duy trì phát triển và sáng tạo các định hướng giá trị của cộng đồng. Với quan niệm
QLGD trên cả hai phương diện văn hoá và tư tưởng về một nhà trường dân chủ, nhân
văn thì lại càng đòi hỏi người HT phải có phẩm chất của một nhà văn hoá.
1.4. Công tác giáo dục thể chất ở trường THPT
1.4.1. Một số khái niệm
Thể chất: Cơ thể con người, về mặt sức khoẻ. [19, 916].
Thể chất chỉ chất lượng thân thể con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn
định về hình thái và chức năng của cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di
truyền và điều kiện sống (bao gồm cả giáo dục, rèn luyện). [22,16].
Tư tưởng về con người phải được phát triển hài hoà giữa thể chất và tinh thần đã

16


xuất hiện trong kho tàng văn hoá chung của xã hội loài người từ nhiều thế kỷ trước đây.
Trong cuộc sống hằng ngày, sức khoẻ của con người là vốn quý nhất. Lênin khẳng định:
"Tinh thần khoẻ mạnh phụ thuộc vào một thân thể khoẻ mạnh." [12,35].
Ngày nay, khi nói đến con người, nói đến nguồn lực con người trong thời kỳ mới
là muốn đề cập đến sự phát triển ở họ cả đức, trí, thể, mỹ và lao động mà TDTT là một
mặt không thể thiếu trong sự phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là việc bồi bổ sức khoẻ
và thể lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa
đất nước.
Giáo dục thể chất (gọi tắt là thể dục, hiểu theo nghĩa rộng của từ)

GDTC là một quá trình giáo dục mà đặc trưng của nó thể hiện ở việc giảng dạy
các động tác và giáo dục (điều khiển sự phát triển) các tố chất thể lực của con
người[12,7].
Trong giáo dục học, giáo dục được hiểu là một quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch, có phương pháp và phương tiện... nhằm hình thành, phát triển những năng lực,
phẩm chất của con người để đáp ứng những yêu cầu của một xã hội nhất định.
Khái niệm GDTC nằm trong khái niệm chung của giáo dục theo nghĩa rộng, là
một quá trình sư phạm, hướng vào việc bồi dưỡng kiến thức vận động rèn luyện thể lực,
ý chí, trau dồi đạo đức, tác phong và các yếu tố tinh thần khác nhằm hoàn thiện cơ thể,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản của con người, phát triển các phẩm chất và
khả năng về thể lực, hình thành lối sống lành mạnh, kéo dài thời gian hoạt động sáng tạo
của con người, giúp con người thực hiện tốt nghĩa vụ lao động và bảo vệ Tổ quốc.
GDTC được xác định trước hết là một quá trình truyền thụ và lĩnh hội các tri thức
thuộc lĩnh vực TDTT, rèn luyện kỹ năng, hình thành các kỹ xảo vận động và phát triển
các phẩm chất thể lực của con người, tổng hợp các nét đặc trưng ấy sẽ quyết định năng
lực làm việc chủ yếu về mặt thể lực của con người, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa thể
chất và tinh thần .
Để giải quyết những nhiệm vụ theo các đặc trưng của mình trong quá trình
GDTC, cần phải tiến hành các hoạt động giảng dạy động tác và các phẩm chất thể lực.
Về mặt thực tiễn, GDTC là một quá trình chuẩn bị thể lực cho con người để thực
hiện các nhiệm vụ hoạt động do xã hội quy định (như lao động, học tập, sinh hoạt,...).
Trong hệ thống các hiện tượng sư phạm thì GDTC có ý nghĩa hàng đầu, như một
nhân tố chuyên môn để tác động có mục đích đến sự phát triển của con người và đến
các thuộc tính tự nhiên có liên quan trực tiếp đến năng lực đó của cơ thể.
GDTC là một lĩnh vực giáo dục được tiến hành dưới hình thức bắt buộc, thể hiện

17


ở hai khía cạnh là: Giáo dục theo chương trình quy định trong nhà trường và giáo dục

theo chương trình dựa trên nhu cầu và sở thích của HS (thể dục nội khoá và thể dục
ngoại khoá).
Phát triển thể chất
Sự phát triển thể chất của con người là quá trình hình thành và biến đổi có quy
luật các thuộc tính về hình thái, chức năng tự nhiên của cơ thể dưới ảnh hưởng của điều
kiện sống, trong đó có giáo dục thể chất. Quá trình này phụ thuộc vào các quy luật về
cuộc sống xã hội, trong đó giáo dục luôn luôn giữ vai trò chủ đạo; bởi lẽ một khi nắm
vững và biết sử dụng một cách đúng đắn các quy luật khách quan đó của sự phát triển
thể chất thì về nguyên tắc ta có thể điều khiển để nó đi đúng hướng, phù hợp với sự phát
triển cá nhân và nhu cầu xã hội. Các khả năng điều khiển có mục đích sự phát triển thể
chất đó hoàn toàn có thể được thực hiện trong quá trình GDTC.
Các chỉ số đánh giá trình độ phát triển thể chất là: chiều cao, cân nặng, đồng thời
là mức độ các tố chất thể lực và khả năng chức phận của cơ thể con người.
Thể thao
Trong thời kỳ cổ sơ, thể dục đã được xem là một biện pháp để rèn luyện thân thể,
phát triển toàn diện con người. Nhưng để đánh giá kết quả của việc rèn luyện thể lực,
cũng như các phẩm chất về ý chí, lòng dũng cảm, mưu trí...cần phải có những hình thức
kiểm tra, những cuộc đọ sức, đua tài, thi đấu. Hoạt động thể thao ra đời từ đó.
Khái niệm thể thao ra đời muộn hơn GDTC, nó là một bộ phận hữu cơ của văn
hoá thể chất, là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do xã hội sáng tạo nên và được sử
dụng vào hoạt động vui chơi giải trí, chủ yếu về mặt thể lực. Đặc trưng của nó là hoạt
động thi đấu các động tác đã được quy định, các hình thái chức năng đã được chuyên
môn hoá cao, nhằm để thể hiện các mặt năng lực của con người.
Thể thao là một hoạt động phục vụ cho lợi ích xã hội, thực hiện chức năng giáo
dục, huấn luyện và giao tiếp. Khuynh hướng tiêu biểu của nó là nhằm đạt tới những
thành tích cao nhất mà con người có thể đạt tới, cho phép đảm bảo sự phát triển có tính
chuyên môn hoá các năng lực, các kỹ năng, kỹ xảo vận động và tâm lý con người ở mức
cao nhất. Mặt khác, diễn biến và kết cục của thể thao không biết trước được.
1.4.2. Vị trí, ý nghĩa của công tác GDTC ở trường THPT
Văn kiện ĐH VIII của Đảng đã ghi rõ: "Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của

bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội,
chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp, các
ngành, các đoàn thể". Vì vậy, hiện nay GDTC vừa là vấn đề cơ bản vừa là vấn đề cấp

18


bách mà trường học chính là nơi cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm nhằm nâng cao
sức khoẻ cho HS thông qua các môn học: Thể dục, vệ sinh, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
(hằng ngày và trong luyện tập TDTT) ... đồng thời góp phần hình thành nên những phẩm
chất nhân cách.
Trong trường THPT, công tác GDTC càng trở nên quan trọng hơn cả vì ở lứa tuổi
này thể chất của các em đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, sung mãn nhất, cần có sự
tác động đúng hướng.
GDTC ở nhà trường là biện pháp quan trọng để bồi dưỡng cho các em khả năng
tự tập luyện lâu dài, hình thành thói quen tập luyện trong cuộc sống, làm khơi dậy lòng
ham mê đối với TDTT, xem chúng như là một phương tiện để khám phá và phát triển
nhân cách, nâng cao thể lực, làm cho đời sống văn hoá và tinh thần ngày càng tốt đẹp
hơn, đồng thời GDTC có tác động thúc đẩy các nội dung giáo dục toàn diện khác. Cụ
thể:
Đối với trí dục: Cơ thể con người là một khối thống nhất, trí lực và thể lực đều
do hệ thần kinh trung ương điều khiển, một cơ thể khoẻ mạnh là tiền đề vật chất giúp
con người phát triển năng lực hoạt động trí óc của mình. Bộ não là cái giá đỡ vật chất
của trí tuệ và tâm lý. “Hoạt động TDTT luôn thay đổi tình huống và hành động, là một
loại nghỉ ngơi tích cực nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc phát triển các chức năng
của vỏ não, đến tính linh hoạt của quá trình thần kinh, đến sự hoàn thiện của bộ máy
phân tích, nâng cao hiệu quả của vòng phản xạ, ảnh hưỏng đến tốc độ và sự vững chắc
của sự hình thành phản xạ, ảnh hưởng có điều kiện, cải thiện hoạt động của cấu tạo dưới
vỏ não là nơi cung cấp năng lượng cho toàn bộ hoạt động trí tuệ" [12,41].
Với học sinh THPT, luyện tập TDTT làm cho các giác quan phát triển như mắt

tinh, tai thính, cảm giác vận động nhạy bén hơn, làm phát triển những phẩm chất trí tuệ
chuyên biệt như tư duy thực hành, óc quan sát, tính linh hoạt, nhạy cảm với các hoạt
động nhận thức, có khả năng tưởng tượng phong phú, có khả năng phân tích, tổng hợp
nhanh, khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, trí nhớ tốt, có cảm giác về thời gian,
không gian chính xác hơn... Đồng thời GDTC giúp HS có được một sự hiểu biết khoa
học nhất định về các động tác, kỹ thuật tập luyện, môi trường thiên nhiên và xã hội, cách
tổ chức hợp lý chế độ sinh hoạt, học tập hợp lý.
Đối với giáo dục đạo đức (đức dục):
Dưới góc nhìn biện chứng có thể thấy rằng: Tư tưởng đạo đức của một con người
luôn tồn tại gắn liền với một cơ thể nhất định, cho nên, nếu cơ thể phát triển bình
thường, khỏe mạnh thì thần kinh tốt, tâm hồn minh mẫn, cuộc sống vui tươi. Bởi vậy tác

19


động của GDTC trong nhà trường có ý nghĩa rất quan trọng đói với sự hình thành và
phát triển nhân cách cho HS. Việc tập luyện TDTT giúp cho HS nhận thức sâu sắc bản
chất ưu việt của công tác GDTC dưới chế độ XHCN, thấy được vị trí quan trọng của nó
đối với đời sống vật chất và tinh thần của mọi người, như lời dạy của Bác Hồ: “Luyện
tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
Việc tập thể dục và hoạt động thể thao đòi hỏi HS thể hiện hành vi đạo đức ngay
trong thao tác và tinh thần thái độ tập luyện hằng ngày; phải phát huy cao độ nghị lực,
tính tổ chức kỷ luật, thái độ chấp hành các quy tắc, luật định trong thi đấu; rèn luyện cho
HS tính kiên trì, lòng dũng cảm, ý chí vượt qua gian khổ, tinh thần lạc quan, ý thức tập
thể, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, đồng thời giúp cho HS có thái độ đúng đắn với
môi trường, với sức khoẻ của bản thân và của mọi người.
Đối với giáo dục thẩm mỹ (mỹ dục):
Bản thân các động tác TDTT đã chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật thẩm mỹ như
sự nhịp nhàng, đều đặn, khéo léo, uyển chuyển hài hoà giữa sức mạnh cơ bắp với sức
mạnh tinh thần, hay cái đẹp của hành vi dũng cảm, ý chí kiên cường vượt khó trong tập

luyện, thi đấu.
Thông qua các hoạt động tập luyện, thi đấu TDTT, HS có được nhận thức đúng
đắn và có tình cảm đối với những hành vi, cử chỉ đẹp, lành mạnh của con người, sống có
mục đích, luôn lạc quan yêu đời, tin tưởng vào cuộc sống tương lai tươi sáng, bồi dưỡng
cho HS năng lực khám phá, thưởng thức và cảm nhận cái đẹp trong nghệ thuật, cái đẹp
trong cuộc sống, trong lao động, trong thiên nhiên. Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ
làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của con người, làm cho cơ thể phát triển cân đối, da dẻ
hồng hào, tư thế, phong thái chững chạc, đường hoàng, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát.
Với ý nghĩa trên, GDTC có tác dụng hình thành những mẫu người đẹp về thể xác
(cao to, khoẻ mạnh...), phong phú về tinh thần (nhận thức đúng đắn về thẩm mỹ, về con
người mới), xây dựng cuộc sống vui tươi, lành mạnh, có ý nghĩa.
Đối với lao động sản xuất:
Khi đề cập đến lao động sản xuất thì người ta nghĩ ngay đến vấn đề khoa học kỹ
thuật và thể lực. Các Mác đã từng chỉ ra rằng: Sức lao động hoặc năng lực lao động là
tổng hợp của những năng lực thể chất và tinh thần, tồn tại trong một cơ thể, một cá thể
đang sống [12,44].
GDTC có tác dụng nâng cao thể lực toàn diện, hình thành những kỹ năng kỹ xảo
vận động cơ bản hoặc động tác có liên quan đến các thao tác lao động sản xuất, thích
ứng nhanh chóng với các điều kiện lao động phức tạp, nặng nhọc.

20


Tóm lại, GDTC luôn gắn bó hữu cơ với tất cả các mặt giáo dục và góp phần to lớn
vào việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa (XHCN) cho HS.
1.4.3. Mục tiêu của công tác GDTC
Mục tiêu của công tác GDTC Việt Nam xuất phát từ yêu cầu có tính quy luật của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước ta đang chuyển sang
một giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá, làm cho dân giàu nước
mạnh, xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.

Điều 41, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận:"...
quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học”. Tính chất bắt buộc này xuất phát từ
ý nghĩa to lớn của GDTC trong nhà trường. Mục tiêu của GDTC trong trường THPT là
nhằm góp phần đào tạo thế hệ thanh niên thành những người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, nâng cao trình
độ TDTT, góp phần tích cực vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và giao lưu quốc tế. Mục tiêu này vừa mang tính nhân
văn, vừa mang tính hiện thực. Trên cơ sở đó, mục tiêu cụ thể của môn thể dục ở trường
THPT là giúp HS:
Nắm được một số kiến thức, kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khoẻ, nâng
cao thể lực.
Góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kĩ luật, thói quen
tập luyện TDTT.
Có sự phát triển về thể lực, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và thể hiện khả năng
của bản thân về TDTT.
Biết vận dụng ở mức nhất định những điều đã học vào nếp sinh hoạt trong và
ngoài nhà trường.
1.4.4. Nhiệm vụ của công tác GDTC
GDTC trong trường THPT là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp
TDTT nói chung; nó được tiến hành phù hợp với đặc điểm về giải phẩu, tâm - sinh lí,
giới tính của học sinh và các yêu cầu khác. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của hệ thống
GDTC, nhiệm vụ của GDTC trong trường THPT được cụ thể hoá như sau:
1.4.4.1. Nhiệm vụ bảo vệ và nâng cao sức khoẻ
Thúc đẩy sự phát triển hài hoà cơ thể đang trưởng thành, tăng cường quá trình
trao đổi chất, củng cố và rèn luyện hệ thần kinh vững chắc, giữ gìn và hình thành các tư
thế hoạt động tốt.
Phát triển một cách hợp lý các tố chất thể lực và năng lực hoạt động cơ bản; nâng

21



cao khả năng làm việc về trí óc và thể lực.
Trên cơ sở phát triển thể chất toàn diện, tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh,
nghỉ ngơi tích cực, rèn luyện và nâng cao khả năng chịu đựng và sức đề kháng của cơ
thể đối với các ảnh hưỏng không thuận lợi của ngoại cảnh, phòng chống bệnh tật.
Đối với HS THPT, lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi đang lớn nhanh, nhưng mất cân đối
về nhiều mặt, phát triển không đồng đều giữa nam và nữ thì cần đảm bảo sự tác động
toàn diện các nhóm cơ, ưu tiên phát triển tốc độ, sức mạnh - tốc độ, sức bền với cường
độ hợp lý, độ linh hoạt của các khớp, khả năng thả lỏng của cơ bắp và phối hợp vận
động. Tiếp tục củng cố các tư thế đúng đắn.
1.4.4.2. Nhiệm vụ giáo dưỡng
Trang bị cho HS những tri thức về TDTT, kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho
các hoạt động khác nhau của cuộc sống.
Cung cấp các tri thức và rèn luyện thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh nơi
công cộng, vệ sinh tập luyện, nếp sống văn minh và lành mạnh.
Phát triển hứng thú và nhu cầu rèn luyện thân thể cường tráng, hình thành thói
quen tự tập luyện.
Trang bị một số tri thức về mặt tổ chức và phương pháp tiến hành giờ thể dục.
Đối với học sinh THPT, phát triển kỹ năng vận dụng linh hoạt các động tác trong
những điều kiện khác nhau như các hoạt động trò chơi trong sinh hoạt Đoàn, Hội, nâng
cao tính độc lập giải quyết các nhiệm vụ vận động. Mặt khác, có thể hướng nghiệp
TDTT đối với những HS có năng khiếu.
1.4.4.3. Nhiệm vụ giáo dục
Với tư cách là một mặt của giáo dục toàn diện, GDTC góp phần tích cực vào việc
hình thành các thói quen đạo đức, phát triển trí tuệ, thẩm mỹ, chuẩn bị thể lực cho thanh
niên đi vào cuộc sống lao động sản xuất, công tác. Nhiệm vụ giáo dục phải được thực
hiện thường xuyên trong quá trình GDTC trong từng giờ thể dục ở trường THPT. Đồng
thời phải gắn liền nó với các yêu cầu cụ thể và các hoạt động chung của nhà trường.
1.4.4.4. Nhiệm vụ phát triển và bồi dưỡng bước đầu nhân tài thể thao
Có thể khẳng định rằng năng khiếu, nhân tài thể thao trong tương lai như những

hạt giống chưa hoặc đang bắt đầu nảy mầm ở các trường phổ thông. Do đó, quá trình
GDTC cho HS thông qua các môn thể dục, thể thao sẽ làm xuất hiện những HS có khả
năng tham gia hoạt động này với thành tích tốt nhất, trong một thời gian ngắn. Phát hiện
và bồi dưỡng học sinh có khả năng về thể dục, thể thao phải gắn liền với tổ chức các
hoạt động TDTT phong phú, đa dạng và việc truyền thụ tri thức về TDTT một cách có

22


hệ thống. Bồi dưỡng nhân tài TDTT được tiến hành thông qua nhiều con đường, dưới
nhiều hình thức khác nhau và không tách rời sự giúp đỡ của tập thể.
1.4.5. Các hình thức tổ chức GDTC trong trường THPT
1.4.5.1. Giờ thể dục
Đây là loại giờ học bắt buộc thực hiện thống nhất theo chương trình quy định của
nhà nước nhằm giải quyết các nhiệm vụ trong nhà trường. Hiệu quả của GDTC không
những chỉ phụ thuộc vào việc lựa chọn các phương tiện thích hợp, vận dụng các nguyên
tắc và phương pháp giảng dạy khoa học, mà còn tổ chức các hình thức tập luyện sinh
động hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và hoàn cảnh cụ thể. Lên lớp là hình thức tổ
chức cơ bản nhất của quá trình GDTC trong nhà trường nói chung, trong trường THPT
nói riêng.
1.4.5.2. Các hình thức nghỉ ngơi tích cực
Đây là hình thức tập luyện hằng ngày có tổ chức theo nhóm các cá nhân HS như
thể dục buổi sáng, các trò chơi vui khoẻ.
1.4.5.3. Các hoạt động ngoại khoá
Đây là các hoạt động nhằm phục vụ cho các hoạt động nội khoá do nhà trường
quản lý, gồm các tổ nhóm rèn luyện ngoài giờ, đội tuyển, các hoạt động thi đấu HKPĐ
các cấp, tham quan và nghe kể chuyện về TDTT... Các hoạt động này cũng do nhà
trường quản lý thống nhất theo kế hoạch chung.
1.4.6. Các nội dung GDTC ở trường THPT
GDTC là một quá trình giáo dục nhằm nâng cao sức khoẻ cho học sinh, bao gồm:

hoạt động TDTT, vệ sinh, môi trường...Trong đó, hoạt động TDTT đóng vai trò chủ đạo.
Trên cơ sở nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài, nội dung của hoạt động
TDTT trong trường THPT, gồm: nội dung của giờ thể dục (còn gọi là giờ thể dục nội
khoá) và các hoạt động TDTT ngoài giờ quy định (còn gọi là TDTT ngoại khoá).
1.4.6.1. Nội dung giờ thể dục
Nội dung của giờ thể dục được biểu hiện trong sự thống nhất giữa các mặt hoạt
động chủ yếu của giờ học và chúng quy định chất lượng của buổi tập đó. Các mặt hoạt
động chủ yếu này liên quan chặt chẽ với nhau, bao gồm:
Bài tập thể chất:
Các bài tập thể chất với tư cách là phương tiện chuyên môn cơ bản nhất, chủ yếu
nhất có thể giải quyết một cách độc lâp các nhiệm vụ của GDTC. Do đó, người ta thường
quan niệm các bài tập thể chất được quy định trong chương trình cho từng đối tượng HS,
từng buổi tập là nội dung của giờ thể dục. Tuy nhiên, hiểu như vậy chưa hoàn toàn đầy

23


đủ, chưa toàn diện, vì bản thân các bài tập thể chất mới chỉ là khách thể (phương tiện)
của các hoạt động thực tiễn của người dạy và người học, nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo
dục, giáo dưỡng và sức khoẻ. Còn chất lượng của giờ thể dục trước hết phụ thuộc vào ý
thức và trình độ của người sử dụng chúng, tức là phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người
dạy và người học. Các bài tập thể chất chỉ là một trong các mặt chủ yếu của nội dung mà
thôi.
Các hoạt động của HS nhằm thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra:
Nội dung này xuất phát từ các hoạt động trí lực và thể lực của HS, bao gồm: nghe
giảng, quan sát động tác mẫu, tiếp thu, suy nghĩ, thiết kế các hoạt động tiếp theo; thực
hiện và kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình; trao đổi với giáo viên về vấn đề xuất
hiện trong quá trình tập luyện; theo dõi trạng thái cơ thể của mình và điều chỉnh chúng...
Tất cả đó là hoạt động tích cực của người học và phải được coi là mặt chủ yếu của nội
dung giờ thể dục.

Các hoạt động của giáo viên:
Bao gồm việc giải thích mục đích, nhiệm vụ học tập, xác định yêu cầu cụ thể và
tổ chức HS tập luyện, thực hiện, theo dõi các hoạt động của HS, phân tích đánh giá kết
quả việc thực hiện, điều chỉnh lượng vận động, đồng thời phê phán uốn nắn một cách tế
nhị các hành vi của HS, xây dựng mối quan hệ giữa HS với nhau. Hoạt động chủ đạo
này của nhà sư phạm giữ vai trò tổ chức, điều khiển, định hướng, kiểm tra và kích thích
sự hoạt động tích cực của HS.
Các quá trình tâm - sinh lí và sự biển đổi trong cơ thể của HS:
Các quá trình tâm - sinh lí và sự biến đổi trong cơ thể của HS xuất hiện đồng thời
với các hoạt động của chúng. Các quá trình này tích luỹ dần và dẫn đến sự biến đổi nhảy
vọt trong các hệ thống chức năng, hình thái của cơ thể, trong các tri thức, kĩ năng và kĩ
xảo, trong các hành động của HS.
Tất cả những cái đó là mặt tiềm tàng nội tại của nội dung giờ học. Nội dung này
còn là các chỉ tiêu kiểm tra các tình huống đang diễn ra, cũng như các kết quả về giáo
dục, giáo dưỡng và sức khỏe. Đồng thời chúng phục vụ cho việc định hướng các giờ học
tiếp theo nhằm bảo đảm tính khoa học và hệ thống của quá trình GDTC.[12,146]
1.4.6.2. Các nội dung TDTT ngoại khoá tại nhà trường
Đây là những hoạt động hằng ngày (nhằm phục vụ cho hoạt động nội khoá do nhà
trường quản lý) có tổ chức theo nhóm hoặc cá nhân HS như thể dục và các trò chơi vận
động, các môn thể thao...
Tổ nhóm rèn luyện ngoài giờ, đội tuyển, các hoạt động thi đấu HKPĐ, tham quan,

24


cắm trại, nghe nói chuyện về TDTT...
1.4.7. Các phương pháp giáo dục thể chất
GDTC là một quá trình sư phạm, do đó các phương pháp GDTC về bản chất cũng
chính là phương pháp sư phạm, nhưng mang những đặc điểm của GDTC.
Ngoài việc sử dụng phương pháp giảng dạy chung như dùng lời nói, trực quan,...

trong GDTC còn áp dụng các phương pháp mang tính chất đặc thù riêng, tuỳ thuộc vào
hệ thống các bài tập, kỹ thuật, chiến thuật, yêu cầu thể lực và trình độ thi đấu thể thao
của học sinh. Có thể khái quát thành các phương pháp sau:
1.4.7.1. Phương pháp sử dụng lời nói (Phương pháp giảng giải)
Là phương pháp GV dùng lời nói để giới thiệu kiến thức TDTT, phân tích về nội
dung cơ bản, nhiệm vụ bài học, về phương hướng chuyển động của các bộ phận cơ thể,
các mấu chốt kỹ thuật, yêu cầu của sự phối hợp từng bộ phận và toàn phần kỹ thuật, để
từng bước hoàn thành kỹ thuật động tác và nâng cao hiểu biết các kiến thức có liên quan.
1.4.7.2. Phương pháp trực quan (làm mẫu)
Trong GDTC, "trực quan" được hiểu theo nghĩa rộng, dựa vào tất cả các cơ quan
cảm thụ để liên hệ với hiện thực khách quan (sử dụng cảm giác, tri giác khác nhau). Để
đảm bảo trực quan theo nghĩa rộng đó, người ta sử dụng một tổ hợp hoàn chỉnh các
phương pháp dựa trên các bài tập hoặc các mặt riêng lẻ, các đặc tính, các điều kiện thực
hiện... Trong quá trình hướng dẫn tập luyện, người dạy có thể kết hợp sử dụng các hình
thức làm mẫu, các giáo cụ trực quan, các mô hình, sa bàn...Việc kết hợp lời giảng ngắn
gọn, dễ hiểu với các động tác minh họa chính xác, đúng, đẹp và phù hợp với đặc điểm
tâm - sinh lý của HS, sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
1.4.7.3. Phương pháp giảng dạy hoàn chỉnh và phân đoạn
a) Phương pháp giảng dạy động tác hoàn chỉnh:
Được sử dụng đối với những bài tập có động tác đơn giản hoặc khó phân chia
thành các cử động nhỏ. Với HS, khả năng phân tích động tác kỹ thuật còn hạn chế, sự
kết hợp các động tác riêng lẻ còn khó khăn, lúng túng nên khi sử dụng phương pháp
giảng dạy động tác hoàn chỉnh GV chú ý nhấn mạnh vào các điểm chủ yếu, cần thiết của
kỹ thuật.
b) Phương pháp giảng dạy động tác phân đoạn:
Khi giảng dạy những động tác, bài tập khó và phức tạp, GV thường sử dụng
phương pháp phân đoạn. Đây là phương pháp phân chia kỹ thuật động tác ra thành các
phần kỹ thuật động tác riêng lẻ, để hướng dẫn HS tập từng phần kỹ thuật. Khi từng phần
kỹ thuật được HS thực hiện thuần thục, thì liên kết các phần đó thành động tác hoàn


25


×