Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nhận thức về vấn đề biển đảo của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 81 trang )

Contents
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................... 4
3. Mục tiêu đề tài ............................................................................................................... 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................................... 8
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 8
6. Giả thuyết khoa học ...................................................................................................... 9
7. Phƣơng pháp nghiên cứu.............................................................................................. 9
8. Bố cục đề tài ................................................................................................................. 10
CHƢƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
NHẬN THỨC VỀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA SINH VIÊN ................. 12
1.1. Khái niệm biển đảo và các vấn đề chủ quyền biển đảo ........................................ 12
1.1.1.

Khái niệm biển đảo ......................................................................................... 12

1.1.2.

Vấn đề chủ quyền biển đảo ............................................................................. 17

1.2. Các vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt Nam ...................................................... 21
1.2.1.

Vấn đề xác lập chủ quyền biển đảo ................................................................ 21

1.2.2.

Vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo .......................................................... 25

1.3. Tầm quan trọng của nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo ........................... 31


1.3.1.

Khái niệm nhận thức ...................................................................................... 31

1.3.2.

Nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo ở Việt Nam ................................. 31

1.4. Các nhân tố tác động đến nhận thức của sinh viên về vấn đề chủ quyền biển đảo
Việt Nam........................................................................................................................... 33
1.4.1. Nhân tố khách quan ........................................................................................... 33
1.4.2. Nhân tố chủ quan ............................................................................................... 35
1.4.3.

Hành động của sinh viên trước vấn đề chủ quyền biển đảo ......................... 35

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG
CAO NHẬN THỨC VỀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA SINH VIÊN CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................... 36
1


2.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên về vấn đề biển đảo ...................................... 36
2.1.1. Vấn đề tranh chấp trên vùng Biển Đông Việt Nam ......................................... 36
2.1.2. Những nhận thức cơ bản của sinh viên về vấn đề xác lập chủ quyền biển đảo
Việt Nam ........................................................................................................................ 43
2.1.3. Những động thái của sinh viên trước vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo
Việt Nam ........................................................................................................................ 51
2.2. Nguyên nhân ảnh hƣởng đến nhận thức của sinh viên trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh còn lệch lạc ............................................................................................... 54

2.2.1. Nguyên nhân chủ quan ...................................................................................... 55
2.2.2. Nguyên nhân khách quan ................................................................................. 56
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của sinh
viên .................................................................................................................................... 62
2.3.1. Đảng và Nhà nước .............................................................................................. 62
2.3.2. Xã hội .................................................................................................................. 64
2.3.3. Nhà trường .......................................................................................................... 65
2.3.4. Gia đình ............................................................................................................... 67
2.3.5. Tự ý thức ............................................................................................................. 68
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 72
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 75

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để có được đất nước hòa bình, độc lập như ngày hôm nay, dân tộc Việt Nam ta đã
phải trải qua biết bao cuộc chiến ác liệt, tàn nhẫn của kẻ thù; phải đánh đổi cả sự sống, tình
cảm riêng tư với quyết tâm quét sạch bè lũ xâm lăng mang lại hòa bình cho đất nước.
Những mảnh đất trên đất nước Việt Nam ta, từ đồng bằng đến miền núi, biển đảo đâu đâu
cũng đã hứng chịu những trận bom kinh hoàng của giặc. Cho đến bây giờ, nó vẫn hằng
những vết tích. Bác Hồ cũng có câu: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta
hãy cùng nhau giữ lấy nước” và để bày tỏ lòng biết ơn đối với các thế hệ đi trước đã ngã
xuống để dựng lên đất nước hùng mạnh như hôm nay, thế hệ mai sau luôn ra sức xây dựng
và bảo vệ đất nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng như bảo vệ nền độc lập, chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Thế nhưng, trong thời gian qua tình hình biển đảo có diễn
biến phức tạp đe dọa chủ quyền biển đảo của ta.
Do vậy, nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ chủ quyền biển đảo là nhiệm vụ trọng yếu, là

trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong đó, lực lượng nồng cốt và chiếm
đa số đó là thanh niên, sinh viên- thế hệ tương lai của đất nước. Họ có trách nhiệm quyết
định sự phát triển bền vững của một quốc gia. Tuy nhiên, nhận thức của thanh niên, sinh
viên hiện nay về vấn đề biển đảo còn hạn chế. Họ dường như thờ ơ và chưa phát huy được
vai trò, trách nhiệm của mình về chủ quyền biển đảo đúng với yêu cầu của đất nước; chưa
thể hiện được ý chí, quyết tâm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo. Một số thanh
niên, sinh viên tuy có tình yêu quê hương, đất nước, có quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển
đảo. Thế nhưng, tình yêu đó bị “lệch hướng”; họ cũng chưa nhận thức chính xác, rõ ràng
dễ bị các thế lực thù địch lôi kéo vào các hoạt động sai trái, làm mất an ninh - trật tự xã hội.
Qua đó, ta thấy tình yêu đất nước là điều kiện cần nhưng chưa đủ, vì nếu như nhận thức sai
lệch thì sẽ dẫn đến thái độ, hành động sai lầm. Lúc này, tình yêu ấy sẽ trở thành tình yêu
mù quáng và sẽ gây ra những bất lợi cho đất nước. Vì thế, những chủ nhân tương lai của
đất nước hơn lúc nào hết và hơn ai hết phải nắm rõ, phải thấu hiểu lịch sử của dân tộc ta
cũng như phải có kiến thức vững chắc về chủ quyền biển đảo của ta; hiểu biết được chủ
3


trương, đường lối của Đảng. Đó là nền tảng để củng cố tình yêu tổ quốc, nâng cao ý thức
học tập và thực hiện trách nhiệm của một công dân chân chính đối với đất nước; có những
hành động đúng đắn phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vậy nên, việc
nâng cao nhận thức cho thanh niên, sinh viên về vấn đề chủ quyền biển đảo; giúp họ ý thức
sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng của chủ quyền biển đảo cũng như những giá trị to lớn mà
biển đảo mang lại là vấn đề vô cùng cấp thiết. Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên
nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của sinh
viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề chủ quyền biển đảo có rất nhiều tác giả, nhà báo với những
góc độ tiếp cận khác nhau, viết nên những quyển sách, những bài báo hay, nêu lên những
quan điểm chủ quan, khách quan về chủ đề này.
Trong bài “Trách nhiệm của thanh niên với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc” của Thanh

Tuyền (angiang.gov.vn) ,tác giả đã khẳng định , nhấn mạnh trước yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, hội nhập nền kinh tế quốc tế thì thanh niên phải
luôn ý thức được vai trò và trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Đặc biệt là trước những diễn biến phức tạp của biển Đông như hiện nay điều đó
đòi hỏi lực lượng thanh niên phải nâng cao tinh thần tự giác cách mạng, quán triệt sâu sắc
quan điểm, đường lối của Đảng; hiểu biết rõ đúng sai để có các hành động một cách có tổ
chức và tuân theo pháp luật. Nói cách khác, thanh niên, sinh viên phải ra sức “rèn đức,
luyện tài” để có thể đáp ứng được những yêu cầu trong các giai đoạn cách mạng.
Bài viết “Triển lãm bản đồ về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam tại
tỉnh Bắc Giang” của Xuân Lộc (www.tapchibcvt.gov.vn) đã đề cập :“Sáng ngày
16/12/2015 tại thành phố Bắc Giang (tỉnh Bắc Giang) Bộ TT&TT phối hợp với UBND tỉnh
Bắc Giang tổ chức triển lãm bản đồ về trình bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam – những bằng chứng lịch sử và pháp lý, đó là các tư liệu được thu thập trong nước
cũng như từ các nước trên thế giới, qua đó càng khẳng định rằng chủ quyền của Việt Nam
đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Góp phần giúp cho bạn bè quốc tế luôn đứng về
4


tình hình biển đông cũng như chủ quyền thực sự của hai quần đảo này. Đặc biệt là nâng
cao nhận thức, tinh thần đoàn kết, ý thức và trách nhiệm của nhân dân trong nước và kiều
bào ở nước ngoài trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Như vậy, bài viết trên đã cung cấp cho chúng ta những
việc làm hết sức ý nghĩa của tỉnh Bắc Giang, triển lãm đã đưa ra các bằng chứng lịch sử và
pháp lý về chủ quyền biển đảo giúp người dân có nhận thức đúng đắn tạo nền tảng vững
chắc để bồi dưỡng niềm tin xây dựng lòng yêu nước.
Trong quyển “Dấu ấn Việt Nam trên biển Đông” của TS. Trần Công Trục xuất bản
2012, qua bốn chương ông đã trình bày được vị trí, vai trò của Việt Nam trong biển Đông,
việc xác lập các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam nêu lên quá trình xác lập và thực thi
chủ quyền Việt Nam tại 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; đồng thời còn dành một chương
nói về tranh chấp biển Đông, có nêu lên thực trang và giải pháp, ngoài ra còn có văn bản

chính thức của Việt Nam về các vùng biển và thềm lục địa. Qua đó cho thấy đây là cuốn
sách có ý nghĩa to lớn đối với các độc giả, nó giúp đem lại sự thật về chủ quyền biển đảo,
góp phần cung cấp thêm những hiểu biết về chủ quyền biển đảo của hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam ở biển Đông cho nhân dân Việt Nam cũng như bạn bè quốc
tế.
Còn trong bài viết “Nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò của biển, đảo đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình (nguồn
tapchiqptd.vn), bài viết đã khẳng định Việt Nam là nước có lợi thế lớn về biển, chứa đựng
nhiều tài nguyên và tiềm năng phong phú để phát triển kinh tế tổng hợp. Đồng thời, tác giả
cũng đã chỉ rõ vị trí và đặc điểm của nước ta cùng với bối cảnh tranh chấp phức tạp như
hiện nay về chủ quyền trên Biển Đông, đòi hỏi chúng ta phải phát huy thế mạnh về biển
đảo, để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền
và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một
nước mạnh về biển. Không những thế tác giả còn khẳng định: “Cần nhận thức rằng, tiến ra
biển hiện nay trở thành một hướng chiến lược mang tính toàn cầu. Chúng ta đã bước vào
những năm đầu của thế kỷ 21, một thế kỷ được dự báo là thế kỷ của châu á - Thái Bình
5


Dương, nhưng cũng đồng thời là thế kỷ của biển và đại dương. Phải ý thức đầy đủ xu thế
này với tư cách là một quốc gia có lợi thế lớn về biển. ”. Từ đó tác giả nêu ra nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu hiện nay là tăng cường tuyên truyền, giáo dục. Nâng cao hơn nữa
nhận thức của các cấp, các ngành, toàn dân và lực lượng vũ trang về vai trò, tầm quan
trọng chiến lược của biển đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở
đó, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả phương hướng, nhiệm vụ và những quan điểm,
tư tưởng, mục tiêu về phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Bảo vệ chủ quyền
vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình mới. Qua đó, ta thấy ý chí quyết
tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của dân tộc ta mạnh mẽ đến dường nào, tìm
mọi cách để giữ gìn vùng biển đảo, lãnh thổ Việt Nam không cho ai xâm chiếm. Họ tuyên
truyền giáo dục tư tưởng, nhận thức cho các tầng lớp, giai cấp để những quyết tâm, tình

yêu biển đảo len lỏi vào mọi người dân mọi tầng lớp và trở thành sức mạnh vững chắc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trước tình hình biển đảo diễn biến phức tạp như hiện nay và tính cấp thiết cần phải
đưa ra những giải pháp thiết thực cho việc nâng cao nhận thức của mọi người dân. Không
ít những bài nghiên cứu, luận văn, sách báo, truyền hình đã báo động, trình bày và đưa ra
giải pháp khắc phục, để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Song điều
đáng quan tâm là những đối tượng được đề cập còn mang tính khái quát như: mọi tầng lớp,
giai cấp, toàn dân, toàn quân. Nhưng vẫn chưa đề cập đến đối tượng sinh viên trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh- những thế hệ tương lai quyết định đến sự phát triển mạnh mẽ và
bền vững của đất nước; có thể “sánh vai với cường quốc năm châu” như lời Bác dặn hay
không, phụ thuộc phần lớn vào lực lượng sinh viên. Sinh viên phải nhận thức được rằng:
“Đồng bằng là nhà mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không?” –Bác Hồ,
để có định hướng rõ ràng trong việc nhận thức về chủ quyền biển đảo của ta, từ đó quyết
tâm và có những hành động đúng đắn bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của nước
Việt Nam.
Và trong cuốn “Những điều cần biết về cấc chính sách về biển và hải đảo của Việt
Nam” có viết: “ Tuyên truyền về biển và hải đảo là một công việc hết sức quan trọng và
6


cần kíp nhằm truyền bá, phổ biến và giáo dục các giá trị tinh thần ( tâm thức của dân tộc
Việt Nam); quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
ta về biển và hải đảo; kiến thức và tình hình biển Đông liên quan tới chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam, nhằm làm thay đổi nhận thức và hành vi của người
dân Việt Nam nói chung và đoàn viên, thanh niên nói riêng.” Có lẽ cũng chính vì vai trò
của giáo dục và tuyên truyền, mà giáo dục và tuyên truyền cũng được trình bày và nghiên
cứu dưới dạng sách giáo khoa nhằm giúp cho học sinh, sinh viên… hiểu hơn về vấn đề
biển đảo như cuốn Giáo dục về biển đảo Việt Nam của Nguyễn Đức Vũ ( Chủ biên), Nxb.
Giáo dục Việt Nam. Trong đó, tác giả trình bày một cách khái quát và cơ bản về biển đảo
Việt Nam, vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề phát triển giao thông vận tải, thông tin liên

lạc; vấn đề phát triển kinh tế; vấn đề sử dụng hợp lý và sử dụng tài nguyên biển đảo. Bên
cạnh đó, tác giả cũng cung cấp một số tư liệu quan trọng về biển đảo; giới thiệu một số
phương pháp tiếp cận vấn đề biển đảo cho giáo viên tham khảo, học sinh- sinh viên học
tập.
Tuy nhiên, vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt Nam ít khi được đề cập đến trong
chương trình giảng dạy ở các trường tiểu học, THCS, THPT chỉ khi nó bị xâm chiếm thì
giáo viên mới nhắc đến trong tiết học, cũng như hưởng ứng các phong trào vì Trường Sa
thân yêu, nhắn tin quyên góp xây dựng trường học ở đảo Trường Sa. Giáo dục cho sinh
viên lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nước; qua đó xây dựng ý thức trách nhiệm công
dân trong góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để có thể khơi dậy điều đó ở sinh viên
giảng viên cần phải tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử
dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, nhằm một phần thu hút sự tập trung, chú ý
của sinh viên, một phần làm cho nội dung bài học thêm sống động dễ tiếp thu, từ đó dễ
nhận thức và hành động. Phải phát huy ở sinh viên sự tư duy, sáng tạo bằng cách sử dụng
các phương pháp nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận sáng tạo, hạn cế việc giảng lý thuyết
suông, tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Nhà trường cũng nên tổ chức
một buổi thảo luận, tổ chức ngoại khóa: chiếu các VIDEO về biển, thăm quan Học viện

7


Hải quân, … giúp sinh viên cập nhật thêm nhiều thông tin, thời sự bổ ích và để nâng cao
chất lượng bài học.
Để góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề chủ quyền biển đảo cần đi
vào nghiên cứu và tìm hiểu ý thức, động cơ và trách nhiệm của sinh viên để đưa ra giải
pháp định hướng kịp thời .Chính vì vậy, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Nhận
thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh” để làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
3. Mục tiêu đề tài
- Tìm hiểu thực trạng nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của sinh viên các

trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để từ đó xác định nguyên
nhân dẫn đến những nhận thức lệch lạc của sinh viên về vấn đề chủ quyền biển đảo và đề
ra giải pháp để củng cố và nâng cao nhận thức của sinh viên các trường đại học trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề chủ quyền biển đảo; để họ nhận thấy được trách
nhiệm của mình đối với đất nước, tổ quốc từ đó dần hoàn thiện bản thân quyết tâm xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những lí luận liên quan đến nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của
sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
- Xác định những thực trạng , nguyên nhân ảnh hưởng đến nhận thức về vấn đề chủ
quyền biển đảo của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề chủ quyền
biển đảo của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng
- Khách thể nghiên cứu: sinh viên các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
8


- Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của sinh viên các
trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
*Phạm vi
- Không gian nghiên cứu: Các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Thời gian nghiên cứu: tại thời điểm nghiên cứu (từ tháng 9/2016 đến tháng
9/2017).
6. Giả thuyết khoa học
- Nhận thức của sinh viên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề chủ quyền
biển đảo còn nhiều hạn chế, chưa tiếp thu một cách chọn lọc về những thông tin, kiến thức
liên quan đến biển đảo ta.

- Để góp phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và giữ gìn nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa sinh viên nói chung và sinh viên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
cần phải:
+Tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng văn hóa, phát huy những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta;
+Nâng cao năng lực nhận thức, cập nhật và tiếp thu có chọn lọc những thông tin về
chủ quyền biển đảo ta.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: đọc tài liệu, ghi chép, thu thập những thông tin
khoa học dựa trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu về nhận thức của thanh niên, sinh
viên về vấn đề chủ quyền biển đảo; đồng thời vận dụng chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: theo dõi, quan sát nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo
của sinh viên các trường đại học.

9


- Phương pháp phỏng vấn: trao đổi, đối thoại với sinh viên để tìm ra nguyên nhân
dẫn đến những nhận thức lệch lạc về vấn đề chủ quyền biển đảo của sinh viên các trường
đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp điều tra viết: điều tra nhận thức về vấn đề chủ quyền biển đảo của
sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh bằng bảng hỏi.
- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: đưa ra giả thuyết và các vấn đề cần được giải
quyết trong từng phần của đề tài. Từ đó xác định các câu cần hỏi và thiết kế ra bảng hỏi.
+Chọn quần thể nghiên cứu: chủ định chọn sinh viên của các trường Đại học trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh
+ Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản vì điều kiện không thể
khảo sát hết tổng thể, nên đề tài nghiên cứu trên tổng số mẫu là 230 sinh viên cho 5
trường Đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh : Trường Đại học Sài Gòn(45),

Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (45), Trường Đại học Khoa học tự
nhiên- ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh (45), Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân vănĐHQG Tp. Hồ Chí Minh (45) và Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh (50). Ở
đề tài này, tác giả sẽ phân chia theo từng trường của sinh viên để làm rõ hơn. Vì tính
chất sinh viên ở mỗi trường có sự khác nhau.
- Phương pháp thống kê toán học: xử lí số liệu thu thập được để đảm bảo tính khoa
học của đề tài.
-Xử lí dữ kiệu khảo sát
Đề tài sử dụng công cụ phân tích dữ liệu bằng phần mềm xử lý SPSS 20 thông qua
các bước phân tích nhân tố khám phá và hồi quy bội nhằm khẳng định các yếu tố cũng như
các giá trị và độ tin cậy của các thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên
các trường Đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trước vấn đề chủ quyền biển đảo.
8. Bố cục đề tài
Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần kết luận và Nội dung gồm 2 chương:

10


Chương 1: Một số vấn đề cơ bản và những nhân tố tác động đến nhận thức về vấn đề
chủ quyền biển đảo của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề
chủ quyền biển đảo của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

11


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN NHẬN THỨC VỀ VẤN ĐỀ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA SINH VIÊN
1.1.


Khái niệm biển đảo và các vấn đề chủ quyền biển đảo
1.1.1. Khái niệm biển đảo
Biển đảo Việt Nam rất phong phú và đa dạng trong đó quan trọng nhất là Biển Đông

, nó là một biển nửa kín- là một vịnh, một vũng hay một vùng biển do nhiều quốc gia bao
bọc xung quanh và thông với một biển khác hay đại dương qua một cửa hẹp hoặc là hoàn
toàn do chủ yếu hay các lãnh hải hay các vùng đặc quyền kinh tế của nhiều quốc gia tạo
thành (Điều 122 Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982); được bao bọc bởi lục
địa châu Á và bờ biển phía Đông bán đảo Malacca về phía Tây, đảo Đài Loan, Philippines
và đảo Kalimantan về phía Đông. Bao xung quanh biển Đông là 9 nước: Việt Nam, Trung
Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Singapore và 1 lãnh
thổ là Đài Loan.
Việt Nam có bờ biển dài 3260km và có 28/64 tỉnh, thành phố Trực thuộc Trung
ương giáp biển, đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển và giao lưu với
các nước. Có Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây bắc của Biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển
miền Bắc Việt Nam ở phía tây, bờ biển Nam Trung Hoa ở phía Bắc và phía Đông. Vịnh
Thái Lan nằm sâu vào phía tây nam của Biển Đông có bờ biển chung dài khoảng 2300km
với 4 quốc gia là: Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malaysia.[ 12]
Vùng biển nước ta gồm các bộ phận: Nội thủy, Lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế,
vùng thềm lục địa.
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với đất liền, ở phía trong đường cơ sở. Vùng Nội
thủy được xem như một bộ phận lãnh thổ trên đất liền.

12


Lãnh hải là vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia trên biển, có chiều rộng 12 hải lý (1
Hải lý = 1852m). Ranh giới của lãnh hải (được xác định bởi các đường song song cách đều
đường cơ sở về phía biển và đường phân định trên các vịnh với các nước hữu quan) chính

là đường biên giới quốc gia trên biển.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển được quy định nhầm bảo đảm cho việc thực
hiện chủ quyền của quốc gia ven biển. Trong vùng này, nhà nước ta có quyền thực hiện các
biện pháp để bảo vệ an ninh quốc phòng, kiểm soát thuế quan, các quy định về y tế, môi
trường, nhập cư…
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng tiếp liền với Lãnh hải và hợp với Lãnh hải thành
một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Ở vùng này, Nhà nước ta có chủ quyền
hoàn toàn về kinh tế nhưng vẫn để các nước khác đặt đường ống dẫn dầu, giây cáp ngầm
và tàu thuyền, máy bay nước ngoài được tự do về hoạt động hàng hải và hang không theo
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1892.
Thềm lục địa nước ta là phần ngầm dưới biển và long đất dưới đấy biển thuộc phần
thuộc địa kéo dài, mở rộng ra ngoài Lãnh hải cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, có độ sâu
200m hoặc hơn nữa. Nhà nước ta có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo
vệ và quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam.
Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 thì biển đảo được định nghĩa
như sau: “Đảo là một vùng đất hình thành một cách tự nhiên có nước biển bao bọc, khi
thủy triều lên cao nhất vùng đất này vẫn ở trên mặt nước” (Khoản 1, Điều 121 Công ước).
Quần đảo là một nhóm các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước biển
giữa các đảo và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau về mặt địa lý,
kinh tế và chính trị( Điều 46 điểm b Công ước).
Thuộc vùng biển nước ta có hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ. Có những đảo đông dân
như: Cái Bầu, Cát Bà, Lý Sơn, Phú Quý, Phú Quốc; có những đảo cụm lại thành quần đảo
như: Vân Đồn, Cô Tô, Cát Bà, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Nam
Du, quần đảo Thổ Chu…Các đảo và quần đảo tạo thành hệ thống tiền tiêu bảo vệ đất liền,
hệ thống căn cứ để nước ta tiến ra biển và đại dương, khai thác có hiệu quả các nguồn lợi
13


vùng biển, hải đảo và thềm lục địa. Việc khẳng định chủ quyền của nước ta đối với các đảo
và quần đảo có ý nghĩa là cơ sở khảng định chủ quyền của nước ta đối với vùng biển và

thềm lục địa quanh đảo.
Hệ thống đảo của Việt Nam gồm các đảo:
Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa hay còn gọi là bãi cát vàng nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng
Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi. Quần đảo Hoàng Sa nằm gằn với
đất liền của Việt Nam nhất: từ đảo Tri Tôn đến Mũi Ba Làng An 135 hải lý và cách đất liền
của Trung Quốc tối thiểu là 235 hải lý. Hoàng Sa đã được người Việt biết tới từ rất lâu và
xác lập thực thi chủ quyền một cách liên tục vì đoạn bờ biển Quảng Trị chạy dài xuống
Quảng Ngãi đối mặt với đảo Hoàng Sa là nơi hứng gió mùa Đông Nam hay Đông Bắc, nên
các thuyền gặp bão bị hư hại thường dạt vào đó và được cứu giúp.
Vùng đảo Hoàng Sa chia thành 2 nhóm chính: nhóm đảo phía Đông gồm nhóm An
Vĩnh khoảng 12 đảo, một số cồn san hô, trong đó có 2 đảo lớn nhất là Phú Lâm và Linh
Côn.Nhóm đảo phía Tây gồm những đảo xếp thành vòng cung nên được gọi là nhóm đảo
Lưỡi Liềm hay còn gọi là nhóm Trăng Khuyết gồm 8 đảo chính là Hoàng Sa, Hữu Nhật,
Quang Ảnh, Quang Hòa, Duy Mộng, Đá Bắc, Bạch Quy và Tri Tôn.
Thảm thực vật của quần đảo Hoàng Sa rất đa dạng. Có đảo cây cối um tùm nhưng
có đảo chỉ có các cây nhỏ và cỏ dại. Thực vật phần lớn thuộc các loài có nguồn gốc ở miền
duyên hải Việt Nam.Hải sản ở quần đảo Hoàng Sa có nhiều loài quý như: tôm hùm, hải
sâm, đồi mồi, vích, ốc tai voi,... và loại rau câu quý hiếm, rất có giá trị trên thị trường quốc
tế.
Quần đảo Trường Sa
Vùng đảo Trường Sa cách vùng đảo Hoàng Sa gần 200 hải lý về phía Nam, bao gồm
hàng trăm đảo, đá, bãi ngầm trải dài trên vùng biển rộng gấp 10 lần vùng biển của vùng
đảo Hoàng Sa. Là một tập hợp thực thể địa lý được bao quanh bởi những vùng đánh cá trù
phú và có tiềm năng dầu mỏ, khí đốt thuộc biển Đông. Vùng đảo Trường Sa là một tập hợp
14


gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá, san hô nói chung và các bãi ngầm trải dài trong
khoảng vĩ độ 6 30’ đến 12 Bắc, từ kinh độ 111 30’ đến 117 20’ Đông. Đảo lớn nhất trong

vùng đảo này là Ba Bình rộng khoảng 0,65

. Vùng đảo Trường Sa chia thành 8 cụm:

Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên.
Trong đó cụm đảo rộng nhất là cụm Nam Yết gồm nhiều đảo đá, bãi ngầm xếp liền nhau
thành một vành đai bao quanh vùng biển nông trên dưới 10m.
Do sở hữu rất nhiều thực thể địa lý nên quần đảo Trường Sa được các nhà hàng hải
quốc tế cũng như một số quốc gia phân chia thành nhiều cụm riêng biệt dựa trên sự gần gũi
hoặc tương đồng về mặt địa lý hay đơn thuần chỉ là phân chia tương đối.
Biển đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc,
cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta.[14] Hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của nhà nước Việt Nam từ nhiều thế kỉ
nay, nhân dân Việt Nam luôn luôn ý thức được điều đó và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ.
Biển Việt Nam là một bộ phận không tách rời và chiếm vị trí trọng yếu trong Biển
Đông- một khu vực địa lý giàu tài nguyên thiên nhiên, nhưng cũng chứa đựng nhiều mâu
thuẫn lợi ích liên quan đến các tranh chấp chủ quyền biển, đảo phức tạp và kéo dài trong
lịch sử.
“Rừng vàng, biển bạc” là câu nói cho thấy tài nguyên rừng và biển vô cùng phong
phú và đa dạng; nhưng ở đây nhóm tác giả chỉ đề cập đến biển đảo của nước Việt Nam ta,
đặc biệt là biển Đông. Biển Đông có vai trò hết sức quan trọng đối với các nước trong khu
vực về địa- chiến lược, về an ninh quốc phòng, giao thông vận tải và kinh tế, bởi lẽ biển
Đông nằm trên tuyến giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương-Ấn Độ
Dương, châu Âu- châu Á, Trung Đông- châu Á; gắn bó với bao thế hệ, là chỗ dựa sinh kế
của người dân. Cụ thể:
*Về kinh tế- xã hội:

15



Với những điều kiện thuận lợi về vị trí, địa lý, khí hậu ôn hòa làm cho nguồn tài
nguyên sinh vật biển, hệ sinh thái biển ở Biển Đông trở nên vô cùng phong phú và đa dạng
với 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình ( có khoảng 6.000
loài động vật đáy, 2.038 loài cá, trên 100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hô cứng, 653 loài
rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn,
225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển và 5 loài rùa biển…).
Nguồn tài nguyên sinh vật biển quan trọng đấy góp phần ổn định đời sống của dân cư vùng
ven biển và trên các đảo ven bờ, cũng như là nguồn xuất khẩu thủy hải sản thu ngoại tệ chủ
yếu của các nước xung quanh Biển Đông và nước Việt Nam nói riêng, giúp phát triển kinh
tế của một quốc gia. Trữ lượng hải sản đánh bắt được khoảng 3- 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải
sản rất phong phú, có giá trị kinh tế rất cao.
Không chỉ có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, Biển Đông còn là một trong
năm bồn trũng chứa đựng dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm
năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn
Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang.
Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển
vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển
vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Theo đánh giá của Trung
Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần
đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Khu vực Nam Biển Đông có trữ lượng dầu mỏ
khoảng từ 23,5 tỷ đến 30 tỷ tấn, khí thiên nhiên khoảng 8.300 tỷ

, quặng hiếm 250.000

tấn [4]. Theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa
đựng tài nguyên khí đốt đóng băng- băng cháy, trữ lượng nguồn tài nguyên này trên thế
giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu
khí , than, khí thiên nhiên, trở thành loại năng lượng mới của thế kỉ 21.
Bên cạnh đó Biển Đông còn có khả năng phát triển ngành du lịch biển với những

rạn san hô sặc sỡ, phong phú đặc biệt là ở quần đảo Trường Sa tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển loại hình du lịch lặn biển. Ngoài ra loại hình du lịch biển còn phong phú với
16


nhiều bãi đá, đảo đá, bãi biển đẹp cùng nhiều vũng vịnh, hang động phát triển du lịch sinh
thái, tắm biển,…
*Về giao thông vận tải
Biển đảo Việt Nam ta có Biển Đông là biển duy nhất nối liền Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương, châu Âu- châu Á, Trung Đông- châu Á. Biển Đông được nối với Thái Bình
Dương thông qua eo biển Basi (nằm giữa Philippines và Đài Loan) và eo biển Đài Loan.
Về phía Tây, Biển Đông thông với Ấn Độ Dương qua eo biển Malacca.Trải qua nhiều thập
kỷ trong lịch sử, Biển Đông luôn được coi là con đường thiết yếu vận chuyển dầu và các
nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc
và Trung Quốc. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước,
trong đó có eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới, , con đường ngắn
nhất để dầu thô chuyển từ Châu Phi, Trung Đông và Australia tới các khách hàng châu Á là
đi qua khu vực biển Đông.
*Về an ninh- quốc phòng
Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có 2 điểm trọng yếu:
Thứ nhất là eo biển Malacca, nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia và Malaysia; thứ hai là
vùng Biển Đông có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển
nhất trên thế giới [5, tr.24].
Ngoài bề mặt rộng lớn của Biển Đông, các đảo, quần đảo nhất là Hoàng Sa và
Trường Sa nằm trong vùng biển rộng lớn này cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng về chiến
lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc của mỗi quốc gia, thuận lợi cho việc đặt các trạm ra đa,
trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè, phục vụ cho
tuyến đường hàng hải. Các chuyên gia chiến lược trên thế giới đều cho rằng quốc gia nào
kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.


1.1.2. Vấn đề chủ quyền biển đảo
17


1.1.2.1. Vấn đề xác lập chủ quyền
Các nước trên thế giới đều có mong muốn hướng ra biển, xác lập chủ quyền, mở
rộng lãnh thổ vì hiện nay diện tích trên đất liền ngày càng bị thu hẹp, nguồn tài nguyên trên
cạn đang bị cạn kiệt dần không đáp ứng đủ các nhu cầu sinh sống của con người, trong khi
đó nguồn tài nguyên khoáng sản, sinh vật trên biển, dưới lòng biển lại vô cùng phong phú
và đa dạng. Các nước luôn đấu tranh, xác lập chủ quyền của mình trên các vùng biển như
Hàn Quốc, Nhật Bản tại đảoTo-ki-do; Vùng biển Hoàng Hải là nơi cả Bắc Triều Tiên và
Hàn Quốc đều tuyên bố chủ quyền…Khu vực Biển Đông là nơi có các cuộc tranh chấp
phức tạp nhất hiện nay, bởi liên quan đến lợi ích của nhiều nước. Biển Đông – Trường Sa
hiện nay đang xảy ra tranh chấp giữa 5 nước, 1 bên là: Việt Nam; Trung Quốc; Đài Loan;
Philippin; Malaixia và Brunei, mỗi quốc gia hiểu rất rõ vai trò to lớn của biển đảo về chính
trị, quân sự, kinh tế như đã nêu ở trên nên ra sức chiếm lấn và đòi yêu sách với các vùng
biển.
Việc phân định biên giới trên biển rất khó khăn và phức tạp, vì có nhiều vùng chồng
lấn và những vấn đề do lịch sử để lại, trong khi các nước lại có những quan điểm rất khác
nhau về phân định các vùng biển. Nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất là do tham vọng
các nước, nhất là các nước lớn muốn sử dụng ưu thế về kinh tế và quân sự để chiếm phần
lợi về mình. Ngoài ra hiện nay trên thế giới chưa có một tổ chức đủ mạnh và vô tư để giải
quyết công việc này, kể cả Liên hợp quốc vẫn bị các nước lớn chi phối. [28]
1.1.2.2. Vấn đề tranh chấp chủ quyền
Biển đảo có vai trò hết sức quan trọng đối với các nước trong khu vực về địa- chiến
lược, về an ninh quốc phòng, giao thông hàng hải và kinh tế, đặc biệt là Biển Đông ,bởi lẽ
biển Đông nằm trên tuyến giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương-Ấn Độ
Dương, châu Âu- châu Á, Trung Đông- châu Á. Cụ thể, về an ninh- quốc phòng thì biển
Đông chính là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước; các đảo và quần đảo (tiêu biểu là

quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa) không chỉ kiểm soát các tuyến giao thông biển
mà còn là nơi phòng thủ chiến lược quan trọng đối với nước ta. Về kinh tế, biển Đông là
cửa ngõ quan hệ trực tiếp, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao đổi,
18


giao lưu và hội nhập các nền văn hóa giữa các nước. Không những thế, biển Đông còn
chứa đựng nguồn thủy hải sản, dầu khí, các quặng sa khoáng như titan,thiếc, vàng, đất
hiếm… đặc biệt là cát nặng và cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước; cùng với
các dịch vụ như đóng tàu, du lịch... góp phần làm cho nền kinh tế nước Việt Nam phát
triển, đồng thời cũng là lý do các nước khác “luôn dòm ngó” vào Biển Đông . Đối với các
nước trên thế giới biển Đông đóng vai trò cũng không nhỏ, vì nằm trên ngã tư đường hàng
hải nên giúp cho các nước vận chuyển hàng hóa thuận tiện và dễ dàng hơn, ngắn hơn tiết
kiệm được thời gian và chi phí.
Biển Đông đang phải đối mặt với vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, cụ thể là 2
quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trương Sa thuộc chủ quyền Việt Nam và tranh
chấp trong việc xác định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chống lấn giữa các nước
có bờ biển liền kề hay đối diện nhau ở xung quanh biển Đông. Và Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC) đã được ký kết giữa các nước ASEAN là một bước tiến quan
trọng tìm kiếm các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp liên tục và lâu dài; mở ra
hy vọng mới về khả năng quản lý xung đột, thúc đẩy hợp tác, hình thành cơ sở chính trị
pháp lý mới nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định Biển Đông.
1.1.2.3. Vấn đề khai thác tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển đảo
Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên biển cũng là 1 trong
những vấn đề đáng được quan tâm và lo ngại bậc nhất.
Nhờ có 71% diện tích là biển và đại dương bao phủ bề mặt Trái đất giúp điều hòa
nhiệt độ không thể trái đất biến thành sa mạc khô cần, môi trường sống của con người sẽ
bớt khốc liệt hơn. Ngoài ra biển và đại dương còn có khả năng thu và lưu giữ được 30%
lượng CO2 thừa trong bầu khí quyển giúp ứng phó với nhũng tác động khôn lường của
biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên môi trường biển và các nguồn tài nguyên biển đang suy giảm đáng kể do:
các hoạt động phát triển trên đất liền, nhất là ở gần các lưu vực sông như xây dựng các khu
đô thị, các khu công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản; xả các chất thải
19


chưa qua xử lí trực tiếp xuống sông suối và cuối cùng đều đưa ra biển cả. Các hoạt động
trên biển như đánh bắt thủy hải sản, khai thác các loại khoáng sản đặc biệt là dầu khí, du
lịch biển… cũng gây ra những hiện trạng tiêu cực đối với môi trường biển.
Để có thể hạn chế tình trạng trên, cần có các giải pháp ngăn chặn kịp thời và phù
hợp phát triển bền vững kinh tế- xã hội, tránh làm suy thoái, cạn kiệt tài nguyên, suy giảm
đa dạng sinh học biển nhằm đảm bảo cân bằng sinh thái biển ở mức ổn định ,như: sử dụng
hợp lí và tiết kiệm tài nguyên; giảm thiểu suy thoái và ô nhiễm môi trường biển và vùng
ven biển, chú trọng phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm biển kết hợp với xử lí ô nhiễm, cải
thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; tăng cường kiểm soát môi trường biển và vùng
ven biển theo các tiêu chuẩn môi trường, đánh giá tác động môi trường, đánh giá môi
trường chiến lược; các chính sách về quản lí tài nguyên và môi trường được ban hành ngày
càng nhiều như: Bảo vệ Môi trường Khoáng sản, Đất đai, Dầu khí, Thủy sản, Tài nguyên
nước,.. Luật tài nguyên và bảo vệ môi trường.
1.1.2.4. Vấn đề ngoại giao
Các nước phải tôn trọng chủ quyền, không được xâm phạm lãnh thổ của nhau cả về
vùng trời vùng đất và vùng biển; nghiêm túc thực hiện, tuân thủ các quy tắc trên biển, giải
quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình hữu nghị, không được dùng vũ lực,
đe dọa sử dụng vũ lực. Đồng thời, thúc đẩy hợp tác cùng phát triển phù hợp với luật biển
quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, thực hiện đầy đủ,
đúng đắn và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên về Biển Đông (DOC), và từng bước
xây dựng Bộ quy tắc về ứng xử của các bên về Biển Đông (COC). Mỗi quốc gia cần phải
có nhận thức đúng đắn, khách quan, tránh làm phức tạp thêm tình hình tranh chấp trên biển
, tránh đe dọa sử dụng vũ lực, làm ảnh hưởng đến việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác
lâu dài, bền vững giữa các nước.

Ngoài ra vấn đề giáo dục, tuyên truyền về biển đảo cũng đáng quan ngại vì thế đưa các vấn
đề liên quan đến chủ quyền biển đảo vào sách giáo khoa, đặc biệt là ngay từ bậc tiểu học
như Trung Quốc để khẳng định chủ quyền biển đảo của họ. Thông qua các hoạt động tuyên
truyền, các hoạt động ngoại khóa, tổ chức các buổi sinh hoạt, văn nghệ, vẽ tranh… nói về
20


chủ quyền biển đảo để học sinh, sinh viên hiểu rõ, nắm bắt các vấn đề về chủ quyền biển
đảo; từ đó có nhận thức và hành động đúng đắn trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển
đất nước.
Bên cạnh đó còn có một số vấn đề khác như: kinh tế biển đảo, nghiên cứu khoa học
biển, an toàn và an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc
gia, bao gồm và không giới hạn ở hành động buôn bán ma túy, cướp biển và cướp tàu có vũ
trang và buôn lậu vũ khí.
1.2. Các vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Khi nghiên cứu về vấn đề biển đảo trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, có
rất nhiều tác giả đã nghiên cứu và trình bày ở nhiều khía cạnh khác nhau, giải quyết những
vấn đề xoay quanh biển đảo như vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, quản lý và khai
thác tài nguyên biển, tuyên truyền và giáo dục về biển đảo.
1.2.1. Vấn đề xác lập chủ quyền biển đảo
“Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” là khẩu hiệu rất quen thuộc khi vùng Biển
Đông của Việt Nam bị xâm chiếm nhằm thể hiện sắc khí, lòng tin, tình yêu quê hương đất
nước, kiên quyết bảo vệ chủ quyền thiêng liêng mà ông cha ta đã hy sinh để bảo vệ và xây
dựng của các thế hệ mai sau, đặc biệt là lực lượng thanh niên, sinh viên- chủ nhân tương lai
của đất nước. Hiện nay, Hoàng Sa, Trường Sa đang bị Trung Quốc xâm chiếm, tấn công và
đưa ra những luận điệu, chứng cứ vô giá trị, việc xác lập chủ quyền của Trung Quốc đối
với hai quần đảo này chỉ là “biết” mà không phải “phát hiện”, mà không phát hiện cũng
không “chiếm hữu” thì những yếu tố đầu tiên của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ rõ ràng
là không có. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam cộng hòa đã tiếp quản hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa từ năm 1956 sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương và đã tổ chức về mặt

hành chính tại hai quần đảo này, tổ chức và khai thác tài nguyên về biển; đồng thời kiên
quyết bảo vệ chống lại những hành động và ý đồ xâm chiếm của các nước khác, bảo vệ lợi
ích và chủ quyền của mình tại các hội nghị và tổ chức quốc tế, tuyên bố chủ quyền với hai
quần đảo. Khi Việt Nam phát hiện Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) và khẳng định chủ quyền của

21


mình thì chủ quyền đó ngày càng được củng cố bằng việc thực hiện thật sự, liên tục và hòa
bình quyền làm chủ ấy, như Bác Hồ có câu: “Biển là của ta do nhân dân ta làm chủ”.
Ở Việt Nam, trong cuốn “Bảo vệ chủ quyền và quản lý- khai thác biển đảo Việt Nam
1975-2014” của TS. Phạm Ngọc Trâm đã trình bày về vấn đề xác lập chủ quyền: “ Căn cứ
vào tư liệu lịch sử có thể khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trên các phương diện lịch sử, địa lý, pháp lý (cả công
pháp quốc tế) điều đó thêm một minh chứng cho mấy ngàn năm lịch sử ông cha chúng ta
đã tốn biết bao nhiêu công sức, xương máu để mở rộng từng tấc đất, mở rộng lãnh thổ từ ba
mặt: Nam tiến, Tây tiến và Đông tiến.[13, tr.52]
Và khi bị các nước xâm chiếm tới chủ quyền thiêng liêng ấy, Việt Nam luôn khẳng
định, nước Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử về chủ quyền biển đảo, cụ
thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
*Các chứng cứ lịch sử
Qua các tư liệu cổ, thư tịch cổ do chính các sử giả Việt Nam viết vào thế kỉ XVIIIXIX dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn cho thấy quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam từ lâu.


Đại Nam nhất thống chí: đã viết: “ Ở phía đông Cù lao Ré, từ bờ biển Sa Kỳ

chạy ghe ra khơi, thuận gió thì ba bốn ngày sẽ đến nơi. Trên đảo có các núi la liệt hơn 130
ngọn, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc trong vài trống canh. Trên đảo có bãi Hoàng
Sa ( Cát Vàng) kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục danh là Vạn Lý Trường Sa… Phía

Đông đảo này gần Quỳnh Châu thuộc phủ Hải Nam, nước Trung Hoa”.


Trong Phủ biên tạp lục (1777) Lê Quý Đôn viết: “Xã An Vĩnh thuộc huyện

Bình Sơn, phủ Quãng Ngãi ở gần bãi biển. Về phía Đông Bắc ngoài biển có nhiều đảo và
nhiều núi linh tinh hơn 130 đỉnh… ở trong các hòn đảo có bến Cát Vàng… Ngày trước, họ
Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh… Họ Nguyễn còn
thiết lập thêm đội Bắc Hải…”, để quản lý Côn Đảo và quần đảo Trường Sa
Ngoài ra trong Châu bản triều Nguyễn cũng có nhiều văn bản của triều đình nhà
Nguyễn viết có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa.
22


Qua những sách sử cổ từ thời nhà Lê, nhà Nguyễn đã minh chứng rằng quần đảo
Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và Việt Nam đã thể hiện chủ quyền của mình
trên quần đảo ấy như dựng miếu Thần Hoàng Sa, thành lập Đội Hoàng Sa để kiểm soát, lập
hải trình, vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền, khai thác tài nguyên, thu tiền của tàu thuyền
nước ngoài vận chuyển hàng hóa qua, giúp đỡ những tàu thuyền gặp nạn ở Hoàng Sa…
Qua một số sách và tư liệu cổ của các nước phương Tây cho thấy quần đảo Hoàng
Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam từ thời chúa Nguyễn


Vũ trụ, lịch sử, thiên văn và vật lý của tác giả Bagio Soria in năm 1828 tại

Napoli, có viết: “Thuộc về đế chế này là quần đảo Hoàng Sa (Paracels) bao gồm các đảo và
các đá ngầm ở phía đông bờ biển nước này”.


Lịch sử Đông Ấn của Itali Felica Ripamonti viết về vùng Đông Ấn, trong đó


có Việt Nam, được in năm 1825 tại Milan có viết trong phần Libro XXII, từ trang 124-143
dành riêng cho Đàng Trong, trang 127 đã viết: “Thuyền trưởng các tàu buôn phải thường
xuyên qua lại vùng này thì thích nhập cảng Hội An hơn, cảng này không xa thủ đô Huế.
Những người đi biển ở ba cảng này ( tức Huế, Hội An, Đà Nẵng) là những người lão luyện
nhất của quốc gia này và hằng năm có chuyến đi biển đến chuỗi đảo ra bãi đá nhỏ có tên là
Hoàng Sa”. Tác giả muốn nhắc đến Đội Hoàng Sa thời Nguyễn được cử ra đảo để quản lý,
cắm mốc chủ quyền cũng như khai thác tài nguyên.
*Các chứng cứ địa lý
Các bản đồ địa lý của nước ta dưới thời nhà Lê, nhà Nguyễn tuy không nhiều,
nhưng đều khẳng định rằng bãi Cát Vàng – quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam


Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư ( thế kỉ XVII) do Đỗ Bá tự là Công Đạo

vẽ đã ghi: “Giữa biển có một dải cát dài, tên gọi là Bãi Cát Vàng dài độ bốn tram dặm,
rộng hai mươi dặm đứng dựng giữa biển… Hằng năm cuối mùa đông, chúa Nguyễn đưa
mười tám chiếc thuyền đến đây để lấy hàng hóa, vật sản, được nhiều vàng bạc, tiền tệ, sung
đạn và các vật liệu khác…”.

23




Đại Nam nhất thống toàn đồ do các sử quan triều Nguyễn vẽ vào năm 1839-

1840 dưới thời cua Minh Mạng (1820-1841), bản đồ ghi rõ: “Hoàng Sa” là một chùm đảo
kéo dài, đối diện với cửa Đại, cửa Đà Nẵng trong đất liền, còn quần đảo Trường Sa với

nhiều đảo nằm đối diện với đia phận các tỉnh Phú Yên- Khánh Hòa ghi là “Vạn lý Trường
Sa”
Đây là những bản đồ do quan lại triều Nguyễn vẽ nhằm khẳng định chủ quyền của
nước ta trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ rất lâu.
Nhiều sách địa lý và bản đồ của các tác giả, nhà thám hiểm, nhà hàng hải và giáo sĩ
phương Tây đã vẽ về Bãi Cát Vàng- quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về vương
quốc An Nam như


Địa lý học hình thể và chính trị do tác giả người Italia Luiji Galant biên soạn

và xuất bản năm 1834 tại Napoli, có nêu: “Cuối cùng chúng tôi phải nói tới một mê cung
các đảo nằm ở phía đông Đàng Trong (Cochinchine) có tên gọi là Parcel hay Percels
(Hoàng Sa) bao gồm các đảo đá nhỏ và vùng nước nông. Chúng thuộc quyền cai trị của
vương quốc An Nam, cũng như đảo Pirati ở phía đông Đàng Ngoài (Cochino)”.


Địa lý hiện đại thế giới của tác giả Italia G.R. Pagnozzi xuất bản năm 1823

tại Florence, nói đến Hoàng Sa (Paracel), Cù lao Chàm (Callas), Côn Đảo ( Polo Condor),
Đảo Nghi Sơn (Bientson) của vương quốc An Nam.
Ngoài ra trong cuốn A Balbi’s Allegemeine des geographischen Wissens và trong
Bản đồ Ngoại Ấn và các đảo Đông Ấn cũng có đề cập đến nội dung tương tự.
Qua đó cho thấy các nước phương Tây cũng đã công nhận hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là của Việt Nam từ lâu.
*Các chứng cứ pháp lý
Căn cứ vào Luật pháp quốc tế về chủ quyền, chủ quyền quốc gia của một nước phải
đảm bảo các quy định về chiếm hữu và quản lý sau:
- Lãnh thổ được chiếm hữu phải là đất vô chủ
- Tác giả chiếm hữu phải là một quốc gia hoặc bởi đại diện của quốc gia ấy; sự chiếm

hữu tư nhân hay cá nhân không có giá trị pháp lý về chủ quyền;
24


- Quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện và những hoạt động quản lý liên tục trên
lãnh thổ đó;
- Việc chiếm đoạt một vùng lãnh thổ có chủ bằng vũ lực là không có giá trị pháp lý
quốc tế về chủ quyền.
Và Việt Nam đã có đủ các chứng cứ đảm bảo được những quy định ấy đề khẳng
định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
Thông qua các chứng cứ lịch sử, địa lý cũng như các chứng cứ của nhiều nhà hàng
hải , các giáo sĩ phương tây đã khẳng định từ lâu và liên tục Việt Nam ta đã làm chủ hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thể hiện bằng nhiều hoạt động như tham vãng bảo vệ
hàng năm( thành lập Đội Hoàng Sa để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và Đội Bắc Hải để bảo
vệ quần đảo Trường Sa) , xây dựng cơ sở vật chất, trạm cứu nạn các tàu bị đắm ở Hoàng
Sa, cắm mốc chủ quyền, xây miếu thờ, khai thác tài nguyên … Việc chiếm hữu và khai
thác của Việt Nam không có một quốc gia nào phản đối kể cả Trung Quốc.
Như vậy, trên cơ sở các chứng cứ lịch sử, địa lý và pháp lý có thể khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách rõ ràng, cụ thể và
xác thực không thể chối cãi được.
1.2.2. Vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo
Trước tầm quan trọng của Biển Đông về vị trí chiến lược quan trọng và có tới 30 tỉ
tấn dầu đã làm “mờ mắt” các nước có quyết tâm xâm chiếm chủ quyền biển đảo của ta
thông qua các yêu sách. Vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo tiêu biểu ở các nước: Trung
Quốc, Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei.
*Trung Quốc
Năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm lược, đánh chiếm quần đảo Hoàng
Sa khi đã và đang được Nhà nước Việt Nam thực thi chủ quyền một cách liên tục và hòa
bình từ hàng trăm năm qua. Tháng 3/1988 và năm 1992 Trung Quốc một lần nữa dùng đến
vũ lực để chiếm đóng một số đá và bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa và một số bãi ngầm

nằm trên thềm lục địa của Việt Nam.

25


×