Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản “ chữ người tử tù của nguyễn tuân ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.88 KB, 70 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

TRẦN THỊ ÁNH PHƢƠNG

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH
HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG
DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “CHỮ
NGƢỜI TỬ TÙ” CỦA NGUYỄN TUÂN
Ở TRƢỜNG THPT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn

HÀ NỘI - 2017


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

TRẦN THỊ ÁNH PHƢƠNG

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH
HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG
DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “CHỮ
NGƢỜI TỬ TÙ” CỦA NGUYỄN TUÂN
Ở TRƢỜNG THPT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Trần Hạnh Phƣơng


HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được khóa luận này, tác giả khóa luận đã nhận được sự giúp đỡ
thường xuyên, tận tình chu đáo của các thầy cơ giáo trong khoa Ngữ Văn- Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Phương
pháp dạy học và Th.S Trần Hạnh Phương-người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới các
thầy cô …!
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2017
Tác giả khóa luận

Trần Thị Ánh Phương


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Tổ chức hoạt động phân tích hình
tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ở
trường THPT” là kết quả nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nghiên cứu trong
khóa luận là trung thực và chưa từng được nghiên cứu trong bất kì một cơng trình
nghiên cứu nào.
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2017
Tác giả khóa luận

Trần Thị Ánh Phương


KÍ HIỆU VIẾT TẮT


GV: giáo viên
HS: học sinh
PPDH: phương pháp dạy học
TP: tác phẩm
TPVH: tác phẩm văn học
TPVC: tác phẩm văn chương
TTC: tính tích cực
THPT: trung học phổ thơng
SGK: sách giáo khoa
VBVH: văn bản văn học


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................6
4. Nhiệm vụ của nghiên cứu...............................................................................................7
5. Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................................7
6. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................................7
7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................7
8. Bố cục của khóa luận ......................................................................................................7
NỘI DUNG..........................................................................................................................8
CHƢƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ...............................................8
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................................8
1.1.1. Vấn đề về tiếp nhận văn học ...................................................................................8
1.1.1.1. Khái niệm tiếp nhận văn học................................................................................8
1.1.1.2. Đặc trưng của tiếp nhận văn học ........................................................................9
1.1.1.3. Định hướng của tiếp nhận văn học ...................................................................10
1.1.1.4. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học ..............................................................15

1.1.2. Vấn đề đọc - hiểu, dạy học đọc hiểu văn bản văn học .......................................15
1.1.2.1. Khái niệm đọc - hiểu ...........................................................................................15
1.1.2.2. Khái niệm dạy học đọc-hiểu văn bản văn học.................................................17
1.1.2.3. Chức năng, vai trị của đọc - hiểu .....................................................................17
1.1.2.4. Mơ hình dạy học đọc-hiểu văn bản văn học ....................................................18
1.1.2.5. Mối quan hệ đọc hiểu văn bản văn học- phương pháp dạy học tích cực ............20
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực ..............................................................................21
1.1.3.1. Khái niệm tích cực, phương pháp dạy học tích cực ........................................21
1.1.3.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.................................................23
1.1.3.3. Các nguyên tắc dạy học tích cực .......................................................................26


1.1.3.4. Các phương pháp dạy học tích cực ...................................................................27
CHƢƠNG 2. VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰCVÀO TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG
“CHỮ NGƢỜI TỬ TÙ” (NGUYỄN TUÂN).............................................................31
2.1. Phương pháp thảo luận nhóm. ..................................................................................31
2.2. Phương pháp phát vấn ...............................................................................................35
2.3. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề....................................................................37
CHƢƠNG 3 : GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ..............................................................41
KẾT LUẬN .......................................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Văn chương hình thành, tồn tại và phát triển như một dòng chảy, trong
dòng chảy nó là sự kết tinh kế thừa giữa truyền thống lịch sử và hiện đại. Văn
chương nghệ thuật không bao giờ ngưng đọng. Có khi nó phải trải qua những thác

ghềnh, những con sóng lớn dữ dội nhưng có khi nó lại trơi đi một cách phẳng lặng
và bình yên. Trong nhà trường THPT môn Ngữ văn là một mơn học quan trọng,
khơng chỉ có học để tiếp thu kiến thức mà nó cịn là một mơn học phục vụ cho các
em thi tốt nghiệp và các trường cao đẳng đại học. Văn học ln hướng cho chúng ta
tìm đến cái Chân- Thiện – Mĩ để tâm hồn mỗi chúng ta thấy yêu cuộc sống,yêu
nhân loại. Không những thế văn học còn cho chúng ta thấy rõ từng bước đi, từng
nhịp đập, từng hơi thở của lịch sử xuyên suốt qua từng chặng đường, từng thời kì,
từng giai đoạn với những nấc thăng trầm khác nhau. Công việc dạy học văn là một
công việc quan trọng. Giáo viên cần dạy và tập cho học sinh tiếp nhận văn chương
một cách sáng tạo, bồi dưỡng năng lực tư duy văn học, tư duy thẩm mĩ để mỗi em
tiếp nhận chủ động những giá trị văn minh văn hóa tinh thần của dân tộc và nhân
loại.
1.2.Tuy nhiên việc dạy học văn trong nhà trường đang gặp rất nhiều khó
khăn.Hơn nữa trong thời điểm hiện nay nhiều giáo viên chưa biết cách dạy đọc-hiểu
văn bản văn học theo năng lực của học sinh. Nhiều ý kiến phê bình về cơng việc
dạy học văn trong nhà trường làm cho học sinh ngày càng chán học văn và sợ học
văn, hay là học văn theo mẫu. Học sinh có quá nhiều lỗi sai về cách dùng từ và lỗi
diễn đạt hoặc chưa cảm nhận được cái hay và cái đẹp của văn chương... Học sinh
học văn theomột khuân mẫu theo những cách sắp đặt của giáo viên. Có thể thấy
nguyên nhân chủ yếu là do cách dạy của giáo viên. Giáo viên chưa thực hiện tốt
chức năng nhiệm vụ, đặc trưng của môn Ngữ văn. Thứ hai giáo viên dạy theo
phương pháp thuyết giảng là chính. Lên lớp, giáo viên chỉ giảng dạy theo bài soạn,
nói thay, làm thay, cảm thụ thay những cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương.

1


Học sinh chỉ có nhiệm vụ ghi chép lại, học thuộc rồi trả bài một cách máy móc. Từ
đó dẫn đến những thói quen lười suy nghĩ, lười tư duy, thiếu sáng tạo... Vì vậy vấn
đề cấp thiết xảy ra là phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó

dạy học ngữ văn theo hướng đọc- hiểu được xem là giải pháp hữu hiệu góp phần
cải thiện và nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn ở trường THPT.
1.3.Những năm gần đây giáo dục đã trải qua nhiều sự thay đổi quan trọng.
Năm 2003 Giáo Dục, chương trình, SGK mơn Ngữ văn THPT đã có sự điều chỉnh.
Từ đó, PPDH cũng đổi mới. Chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành cũng nêu
rõ: “Phải phát huy tích cực,tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc trưng của môn học, đặc điểm đối tượng của học sinh, điều kiện của từng lớp
học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.[Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục. Đào Tạo]
Trên thực tế việc dạy học theo định hướng tích cực đã được giáo viên quán
triệt về mặt quan điểm và nhận thức về lý luận. Tuy nhiên dạy học theo phương
pháp đổi mới hiện nay là một điều hết sức khó khăn, nan giải… Để tổ chức một
hoạt động đọc hiểu theo phương pháp dạy học đổi mới là một việc không dễ dàng
nếu người giáo viên không đổi mới cách dạy, chắc hẳn học sinh sẽ không chủ động
tích cực trong việc học của mình. Vì vậy đây là một “bài tốn” khó trong thời đại
ngày nay…
Nguyễn Tuân là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam và
cũng là một trong 9 tác gia được chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Ơng
là nhà văn có vị trí vững chắc trong lịch sử văn học của dân tộc, người đã tìm cho
mình tiếng nói riêng nhờ một phong cách văn học vơ cùng đặc sắc.Ngịi bút của ơng
đã đi vào nhiều vấn đề, nhiều vẻ của những hình tượng. Và ở hai thời kì trước và
sau Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nguyễn Tuân đã có sự khác biệt khá rõ nét.
Đi vào văn chương của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám có thể thấy cái
Đẹp ở “Chữ người tử tù” trong tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” viết về những

2


con người trong quá khứ đã từng vang bóng: những người anh hùng hảo hán thất

thế.Nguyễn Tuân đã cố níu giữ những giá trị tinh thần, giá trị văn hóa của dân tộc
cịn ẩn sau thói chơi chữ của các nhân vật trong tác phẩm này. Đề cao vẻ đẹp “thiên
lương” của những con người biết trân trọng cái đẹp, biết “ngơng” trên cái tài năng
của mình. Vì vậy dạy văn bản “Chữ người tử tù” trong nhà trường phổ thơng sẽ góp
phần đưa những giá trị vẻ đẹp của một thời đã qua đến với học sinh và giúp các em
tiếp cận với “người chiến sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm
thấy trong văn học Việt Nam” (Hoài Anh)
1.4.Là một sinh viên sư phạm, một giáo viên tương lai, thông qua việc thực
hiện đề tài này, tác giả muốn tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu, bước đầu tiếp
cận được với phương pháp dạy học đổi mới và phương pháp nghiên cứu khoa học.
Tất cả những cơ sở thực tiễn trên là lý do em chọn đề tài: Tổ chức hoạt động
phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản “ Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân ở trường THPT.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trên thế giới
Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống những phương pháp dạy học nhằm
phát huy cao độ tính tích cực hoạt động của học sinh trong q trình học tập, vấn đề
này đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong lịch sử phát
triển của giáo dục và nhà trường, tư tưởng về dạy học tích cực đã được các nhà giáo
dục biết đến từ lâu.
Từ thời cổ đại các nhà sư phạm tiền bối đã từng nói đến tầm quan trọng to
lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và nhắc đến các phương
pháp, biện pháp phát huy tính tích cực.
+ Socrat (469-339 TCN) nhà triết học, người thầy vĩ đại của Hy Lạp cổ đại
đã từng dạy học trị của mình bằng cách ln đặt ra những câu hỏi gợi mở, nhằm
giúp cho người đọc dần dần phát hiện ra chân lý
+ Khổng Tử (551-479TCN) nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Hoa
cổ đại địi hỏi người ta phải học hỏi tìm tịi, suy nghĩ và đào sâu trong quá trình học.

3



Ơng nói “khơng tức giận vì muốn biết, thì khơng gợi mở cho, khơng bực tức vì
khơng rõ được thì khơng bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho một góc mà khơng suy
ra ba góc kia thì khơng dạy nữa”.
+ Komensky (1592-1670) là một nhà tư tưởng Clovakia, nhà lý luận giáo dục
đã đưa ra bí quyết về phương pháp giảng dạy “Bí quyết của giáo dục là rèn luyện
cho các em một tâm hồn dễ dàng tích cực, tự do, ngăn cản được những điều mà các
em muốn làm, ngược lại đẩy các em vào những điều mà chúng không muốn”.
Trong thế kỉ XX, các nhà giáo dục Đơng, Tây đều tìm đến con đường phát
huy tính tích cực học tập, chủ động, sáng tạo của người học cụ thể như: Kharlamop
nhà giáo dục học Xô Viết trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế
nào?” Một trong những vấn đề căn bản mà nhà trường Xô Viết hiện nay đang lo
lắng và giải quyết là việc phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học
sinh trong quá trình học”.
Căn cứ vào những tác giả nêu trên chúng tôi thấy việc nghiên cứu về phương
pháp dạy học tích cực trên thế giới đang đi trước chúng ta từ rất lâu. Người ta đã
thấy được rõ vai trò to lớn của phương pháp dạy học tích cực đối với sự nghiệp giáo
dục và phát triển của xã hội.
2.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX dạy học tích cực đã bắt đầu
được đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong cuốn giáo trình Giaó dục học,
Tâm lý học, phương pháp giảng dạy bộ môn…Trong các trường sư phạm đã bắt đầu
xuất hiện tư tưởng “Phương pháp giáo dục tích cực”, khẩu hiệu biến quá trình “đào
tạo thành quá trình tự đào tạo”.
Tại Nghị quyết thứ IV của Ban chấp hành TW khóa VII đã chỉ rõ: Đổi mới
phương pháp giảng dạy ở các cấp học, bậc học…áp dụng những phương pháp giáo
dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề.[1993].
2.3. Các công trình nghiên cứu đọc-hiểu và phƣơng pháp dạy học tích cực

2.3.1. Cơng trình nghiên cứu đọc-hiểu

4


Thuật ngữ “đọc-hiểu” là việc dạy học Ngữ văn theo hướng đọc -hiểu được
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm:
-V.A.Nhicoxki trong “ Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ
thông” đã chú ý đến hoạt động đọc, vị trí của người học sinh trong nhà trường PT,
đặc biệt tác giả chú ý đến việc đọc diễn cảm của HS
- Z.Ia.Rez trong “Phương pháp luận dạy học” đã trình bày một hệ thống các
phương pháp, biện pháp dạy học, đặc biệt chú ý đến đọc sáng tạo
Ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỉ XX đã xuất hiện nhiều cuốn sách viết về
phương pháp dạy học đọc-hiểu
-GS.TS.Nguyễn Thanh Hùng (Đại học Sư phạm Hà Nội) trong bài viết “Đọc
hiểu văn chương” trên tờ tạp chí GD số 92, tháng 7, năm 2014 cũng đưa ra những
kiến giải về khái niệm đọc-hiểu.Theo ông “Đọc hiểu văn chương là đọc cái chủ
quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình
trong trang sách”, nghĩa là một quá trình đồng sáng tạo. Tác giả của bài viết cũng
chia “đọc” làm ba dạng: Đọc kĩ, đọc sâu, đọc sáng tạo [tháng 7, năm 2014]
- Cố GS. Phan Trọng Luận trong cuốn “Phương pháp dạy học văn” đã xem
đọc diễn cảm là một trong ba phương pháp thường dùng trong quá trình thâm nhập
tác phẩm. Trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”, tác giả đã
phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động học[Nxb Giáo dục, 1983]
-GS.TS.Trần Đình Sử trong bài viết “Dạy học văn là dạy học sinh đọc-hiểu
văn bản” để bàn luận về vấn đề thế nào là đọc hiểu văn bản thông qua cắt nghĩa đọc
là gì,hiểu là gì. Ơng cho rằng đọc - hiểu văn bản có hai bước: Hiểu thơng báo và
hiểu ý nghĩa
2.3.2. Cơng trình nghiên cứu phƣơng pháp dạy học tích cực
Các nhà giáo dục học đã có cơng trong việc áp dụng phương pháp dạy học

tích cực vào giảng dạy như:
+Phạm Văn Đồng trong bài: “Một phương pháp cực kì quý báu” đăng trên
báo Nhân Dân vào tháng 11/1994 đã nói: “PP dạy học mà các đồng chí nêu ra nói
gọn lại là lấy người học làm trung tâm”. Người ta phải đặt ra những câu hỏi, đưa ra
những câu chuyện có tính hấp dẫn, khêu gợi, địi hỏi người nghe, người đọc dẫu là

5


suy nghĩ kém cỏi cũng phải chịu khó suy nghĩ, tìm tịi…PPDH tích cực này có khả
năng phát triển được những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con người…
+ Nguyễn Kì trong bài viết “Biến quá trình dạy học bằng quá trình tự học”
đã đưa ra những cơ sở tích cực về phương pháp dạy học tích cực. Tác giả cũng chỉ
rõ quá trình tự học là quá trình tự nghiên cứu,tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều chỉnh
dưới sự hướng dẫn tổ chức trọng tài của thầy.[Tạp chí NCGD số 7/1993]
+ Trần Bá Hồnh với các bài “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”đăng
trên Tạp chí NCDG số 1/1994/ bài: “Phương pháp tích cực” đăng trên Tạp chí
NCGD số 3/1996/ bài “Phát triển chí sáng tạo của học sinh và vai trò của giáo
viên” đăng trên Tạp chí số 9/1999,nêu rõ: thế nào là dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, thế nào là phương pháp tích cực, thế nào là phương pháp hợp tác…tác giả cũng
đã chỉ rõ những đặc trưng của phương pháp tích cực.
+ PGS-TS Nguyễn Ngọc Bảo với cuốn sách “Phát triển tính tích cực, tự lực
của học sinh trong q trình dạy học” tác giả đã đưa ra quan niệm học là hoạt động
tích cực, tự lực và là trung tâm c ủa quá trình dạy học và đã nêu lên các phương pháp
nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Như vậy có nhiều cơng trình nghiên cứu về PPDH tích cực, trong cơng trình
nghiên cứu khoa học của tơi cũng chỉ đi sâu vào một phần nhỏ của PPDH tích cực
trong việc phân tích cắt nghĩa hình tượng nhân vật trong dạy học đọc-hiểu văn bản.
3. Mục đích nghiên cứu
-Mục đích của nghiên cứu nhằm:

+ Củng cố và nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học môn Ngữ Văn theo
hướng đổi mới.
+ Hình thành phát triển năng lực cho học sinh.
+ Đưa văn bản “Chữ người tử tù” đến với học sinh theo đúng hướng của
phương pháp.
+ Bồi dưỡng năng lực đọc-hiểu, cảm thụ tác phẩm, làm cơ sở cần thiết cho
việc dạy học Ngữ Văn sau này của trường phổ thông.

6


+ Đề xuất cách thức ứng dụng dạy học tích cực vào đọc hiểu văn bản văn học ở
trường THPT.

4. Nhiệm vụ của nghiên cứu
-Tập hợp các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
-Khảo sát thống kê các cơng trình nghiên cứu đọc-hiểu, các cơng trình
nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực.
-Xử lý và phát triển các vấn đề khảo sát, vận dụng vào văn bản “Chữ người tử tù”.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
-Đề tài nghiên cứu về vấn đề “Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân
vật trong dạy học đọc hiểu văn bản (Chữ người tử tù- Nguyễn Tuân) ở nhà trường
THPT”.
6. Phạm vi nghiên cứu
-Luận văn tập trung nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực trong các hoạt
động dạy học đọc-hiểu văn bản văn học. Tuy nhiên tập trung nhất là hoạt động
“Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù-Nguyễn Tuân)”cũng
như khả năng vận dụng nó trong giờ dạy học đọc hiểu văn bản văn học, giúp cho
học sinh phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng những phương pháp sau đây:
-Phương pháp phân tích tổng hợp
-Phương pháp so sánh, đối chiếu
-Phương pháp thực nghiệm sư phạm
8. Bố cục của khóa luận
Khóa luận gồm có:
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Chương 2: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào tổ chức hoạt động phân
tích hình tượng nhân vật trong “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân)

7


Chương 3: Giáoán thực nghiệm
Kết luận

NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Vấn đề về tiếp nhận văn học
1.1.1.1. Khái niệm tiếp nhận văn học
Theo “Từ điển tiếng việt”, 2009,(Hồng Hiệp):“Tiếp nhận là đón nhận cái từ
người khác, nơi khác chuyển giao cho”[5;tr.1269]
Theo giáo trình “Lý luận văn học”,(Phương Lựu chủ biên): “Tiếp nhận văn
học là giai đoạn hồn tất q trình sáng tác-giao tiếp của văn học. Người nghệ sĩ
sáng tạo ra tác phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khách quan về cuộc
đời cho người đọc. Chỉ khi được bạn đọc tiếp nhận,q trình sáng tạo mới hồn tất.
Thực chất của quá trình này là chuyển cảm xúc đến bạn đọc cộng hưởng cảm xúc

đó” [14; tr.221]
Theo GS.Nguyễn Thanh Hùng trong Chuyên luận: “Đọc và tiếp nhận tác
phẩm văn chương” lại quan niệm “Tiếp nhận tác phẩm văn học là đem lại cho
người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào người đọc để củng cố và
phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực
cảm xúc của con người trước đời sống”[6; tr.105]
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, (Lê Bá Hán chủ biên): “Tiếp nhận văn học
là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các tác phẩm văn học bắt
đầu từ sự cảm nhận văn bản ngơn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng cảm hứng,
quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: Cách
hiểu, ấn tượng trong trí nhớ ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển
thể…” [3; tr.325]
Như vậy, về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoạt tự
do giữa người đọc với nhà văn thông qua tác phẩm. Nó địi hỏi người đọc phải tham

8


gia bằng tất cả trái tim, khối óc, hứng thú, nhân cách và tri thức của mình. Có thể
nói là được xem như một q trình “đối tượng hóa sức mạnh bản chất người” của
cá thể trong xã hội. Để thực hiện q trình đó thì chủ thể tiếp nhận khơng chỉ dựa
vào những phân tích văn bản ngơn từ một cách máy móc rồi khái quát giá trị ý
nghĩa của tác phẩm. Nói tới tiếp nhận là đề cập đến hai phương diện thống nhất bản
chất của một vấn đề: về phía đối tượng tức tác phẩm văn học, khi được tiếp nhận nó
khơng cịn là những “kí hiệu tĩnh” khơng cịn là những kí hiệu mang tính khách
quan của những con chữ khô khan, mà trở nên một thế giới có hồn, có đời sống, có
số phận, hồn cảnh, sự việc và tâm lí.Có được điều đó hay khơng và có được đến
mức độ nào- nhân tố có vai trị quyết định lại do khả năng chuyển kí hiệu thẩm mĩ
sang hoạt động thẩm mĩ của chủ thế tiếp nhận: “người đọc”.
Việc dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường thực chất là dạy cho học

sinh cách tiếp nhận văn học. Nhưng tiếp nhận văn học với học sinh là tiếp nhận
dưới sự giúp đỡ, gợi ý, dẫn dắt của giáo viên. Giáo viên cần phải lưu ý: Mỗi tác
phẩm văn học đều được người nghệ sĩ sáng tạo bằng những phương thức riêng, vì
vậy giáo viên cần phải nắm được những phương thức đặc trưng ấy để giúp học sinh
có cách tiếp nhận cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
1.1.1.2. Đặc trưng của tiếp nhận văn học
Tiếp nhận văn học là một hoạt động tinh thần. Nó là một q trình đưa tác
phẩm văn học đến với độc giả-người tiếp nhận. Hoạt động này nhằm thỏa mãn nhu
cầu tất yếu của con người là hưởng thụ thẩm mĩ, nhu cầu hiểu biết, nâng cao tầm
đón nhận làm giàu vốn sống.
- Con đường nhà văn sáng tạo ra tác phẩm
Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ có thể hình dung như sau:
Đời sống -> Nhà văn -> Tác phẩm
Nhà văn đứng trước cuộc sống muôn màu mn vẻ, bằng óc tưởng tượng và
trí tưởng tượng phong phú, nhà văn đã tạo ra TPVH - “đứa con tinh thần của mình”.
Song văn chương là địa hạt của sự sáng tạo, nó khơng bao giờ dung nạp nhưng thứ
sẵn có, theo khn mẫu từ trước mà địi hỏi sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Bởi thế

9


TPVC đích thực sẽ vượt qua sự băng ngoại của thời gian và sống mãi với loài người
đến ngày tận thế.
- Con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
Tiếp nhận văn học trước hết địi hỏi người đọc phải có khả năng cảm thụ,
thấu hiểu lớp ngơn từ, hình ảnh giọng điệu trong thơ hay tình tiết, cốt truyện nhân
vật trong văn xi. Sau đó qua hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư
tưởng, tình cảm của nhà văn, người đọc sẽ tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của người
nghệ sĩ. Người đọc sẽ sống với tác phẩm văn học, rung động với nó, vừa đắm chìm
trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, vừa tỉnh táo lắng nghe những thông điệp của

tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp qua tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ.
Bằng trí tưởng tượng kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và những rung động sâu
sắc trong tâm hồn, người đọc sẽ cùng tái hiện bồi đắp những nét phác họa thường
rất hàm súc của nhà văn thành những bức tranh đời sống chân thực, sống động,
những hình tượng hồn chỉnh để rồi quan sát, đối chiếu, đối thoại, yêu, ghét, tự rút
ra cho mình những bài học nhân sinh quý giá. Văn học qua quá trình tiếp nhận tích
cực ấy sẽ giúp cho con người có thêm những hiểu biết, trải nghiệm về cuộc đời.
Như vậy, chiếm lĩnh tác phẩm văn học thực chất là quá trình đi ngược lại con
đường sáng tạo của nhà văn:
Tác phẩm-> Nhà văn -> Đời sống
1.1.1.3. Định hướng của tiếp nhận văn học
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn: “Hiểu văn, dạy văn” có ý kiến:
“Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của quá trình tư duy, sáng tạo của nhà
văn. Nó thể hiện các chức năng của mình thông qua lớp ngôn từ mà nhà văn đã sử
dụng như một phương tiện giao tiếp. Mỗi tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng vật
chất là một cấu trúc chỉnh thể. Tuy nhiên, nó chỉ mới mang tính tiềm tàng khi độc
giả chưa biến chúng thành hiện thực thông qua việc tiếp nhận và cảm thụ của
mình”. [8; tr.48]
Như vậy, thực chất của quá trình sáng tác văn học là quá trình chuyển cảm
xúc của tác giả đến với bạn đọc. Bên cạnh đó, mỗi tác phẩm văn chương là những
sinh thể cực kì đa dạng và độc đáo. Mà đối tượng HS là một thế giới vô cùng phong

10


phú và đa dạng. Bởi vậy công thức dập khuân, máy móc trong giảng dạy tác phẩm
văn chương đều khơng thích hợp với bản chất sáng tạo của lao động, phân tích tiếp
nhận văn chương.
Theo PGS.TS.Bùi Minh Đức trong chuyên luận: “Hệ thống hoạt động đọc-hiểu
văn bản văn học ở nhà trường THPT” thường được triển khai qua năm hoạt động:

* Hoạt động tạo tâm thế
Đây là hoạt động có tính chất chuẩn bị cho q trình tiếp nhận văn học ở bạn
đọc HS. Nhiệm vụ của hoạt động này là kiến tạo mơi trường cảm thụ, giúp cho HS
thốt khỏi những khơng gian riêng tư, cá nhân bên ngồi chuyển vào không gian
thẩm mĩ, tạm gạt bỏ những bộn bề của đời thường để “tham dự” vào cuộc giao tiếp
nghệ thuật của nhà văn. Bằng những cách tác động nào đó,GV phải tạo được cho
HS một “tâm thế” tiếp nhận, thu hút được sự chú ý của các em đối với bài học, gây
được sự “hứng thú” tiếp nhận và một ý thức sẵn sàng nhập cuộc đầy say mê với
khát vọng trở thành bạn đọc sáng tạo của nhà văn.
Một số biện pháp tạo tâm thế tiếp nhận văn học cho HS:
-Tạo tâm thế tiếp nhận bằng một cuộc thi nhỏ: Tổ chức cuộc thi nhỏ(Thi giới
thiệu tác giả, tác phẩm, trả lời nhanh các bài tập trắc nghiệm…) giữa các HS hoặc
các tổ, nhóm làm một biện pháp có thể thu hút sự chú ý HS tạo tâm thế tiếp nhận và
khơng khí cần thiết cho giờ học trước khi HS bước vào giai đoạn đọc-hiểu văn bản.
-Tạo tâm thế học tập bằng những lời giới thiệu hay, ấn tượng: Một lời mở
đầu bài học thật hấp dẫn sẽ có tác dụng khơng nhỏ thu hẹp khoảng cách giữa HS và
tác phẩm. Về tâm lý con người thường bị thu hút, lơi cuốn bởi những lời nói hay,
những cách nói độc đáo và đầy ấn tượng. Chính vì vậy, dẫn dắt vào bài cũng là
nghệ thuật sư phạm của người GV.
-Tạo tâm thế học tập qua việc ứng dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại:
Bằng những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, bảng biểu… Trực quan sinh động, các
phương tiện kĩ thuật hiện đại có thể tác động vào cùng một lúc vào nhiều giác quan
khiến cho HS, các em phải chú ý, tạm gạt những mối quan tâm cá nhân để bước vào
bài học.
* Hoạt động tri giác ngôn ngữ

11


Hoạt động này nằm trong giai đoạn đầu của quá trình cảm thụ tác phẩm từ

lớp vỏ đến lớp hình. Quá trình nhận thức thẩm mĩ chỉ thực sự bắt đầu khi người đọc
làm sống dạy những kí hiệu, những con chữ câm lặng trên trang giấy. Tác dụng của
hoạt động tri giác ngôn ngữ là giúp cho HS cảm nhận tác phẩm ở cấp độ chỉnh thể,
bước đầu hình dung được cuộc sống mà nhà văn đã miêu tả trong tác phẩm và giọng
điệu nghệ thuật của người nghệ sĩ. Đây cũng là hoạt động tiền đề cho hoạt động
tưởng tượng tái hiện tiếp theo.
Một số biện pháp tổ chức HS tri giác ngôn ngữ nghệ thuật một cách chủ
động, sáng tạo.
Đọc văn là biện pháp chủ đạo để tri giác ngôn ngữ nghệ thuật. Đọc ở nhà,
đọc trên lớp, đọc thành tiếng, đọc cá nhân, đọc cùng bạn, đọc nhanh toàn bộ văn
bản để cảm nhận âm hưởng chung để toát lên chỉnh thể bài văn, bài thơ. Đọc chậm,
đọc kĩ, đọc sâu kết hợp tra từ điển, tìm hiểu chú thích, điển tích, điển cố để hiểu
được ý nghĩa của câu chữ, đoạn văn, đoạn thơ…là những hình thức khác nhau của
hoạt động đọc văn có thể tổ chức một cách linh hoạt ở HS để việc tri giác ngôn ngữ
đạt được hiệu quả cao nhất.
* Hoạt động tái hiện hình tượng
Tiếp nối hoạt động tri giác ngơn ngữhoạt động tái hiện hình tượng giúp cho
HS bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Chức năng của hoạt động này kích
thích trí tưởng tượng của HS giúp cho các em nhìn ra bức tranh thiên nhiên và đời
sống con người mà nhà văn đã khắc họa trong tác phẩm. Điều cần chú ý là GV
không tưởng tượng, tái hiện thay cho HS, GV nên kiên trì gợi mở để HS nhận thức
cuộc sống trong tác phẩm qua trí tưởng tượng chính của các em. Nói cách khác, GV
phải có biện pháp giúp cho HS chuyển thế giới hình tượng trong tác phẩm thành
những hiện tượng tâm lí tinh thần trong đầu các em, để các em có thể sống với nó,
trải nghiệm cùng các nhân vật.
Các biện pháp tổ chức cho HS hoạt động tái hiện hình tượng văn học một
cách tích cực và sáng tạo.

12



-Tái thuật và tái thuật sáng tạo thế giới hình tượng trong tác phẩm: Tái thuật
là biện pháp rất căn bản để HS nắm chi tiết, cốt truyện, hành động, tâm trạng nhân
vật…được nhà văn miêu tả trong tác phẩm. Tái thuật sáng tạo địi hỏi HS phải tích
cực hóa trí tưởng tượng của mình để “lấp chỗ trống” hoặc để diễn giải rõ hơn
những “ ý tứ, sự tình” còn chưa hiện rõ nét và đ ầy đủ.
-Tái hiện hình tượng nghệ thuật qua biện pháp sơ đồ hóa những diễn biến chi
tiết trong truyện và mối quan hệ giữa các nhân vật. Biện pháp này không chỉ dừng
lại ở những yêu cầu sơ đồ hóa một cách thuần túy mà cái chính là HS cịn tiên đốn
ý đồ nghệ thuật của nhà văn, xác định được các ý nghĩa toát lên từ các mối quan hệ
nhân vật-nhân vật; nhân vật-sự kiện; nhân vật-hình ảnh thiên nhiên…
- Trực quan hóa bức tranh thế giới hình tượng bằng các loại hình tác phẩm
khác(tranh vẽ,băng hình,tượng…) Đây là biện pháp chuyển hình tượng “phi vật
thể”-hình tượng khơng thể soi ngắm bằng mắt thường sang những hình tượng có
tính trực quan.
* Hoạt động phân tích cắt nghĩa
Hoạt động này là bước tiếp theo trong quá trình nhận thức thẩm mĩ của bạn
đọc HS. Nó bao gồm những thao tác tiếp nhận mang tính chất lí tính, từng bước đưa
HS đọc thâm nhập sâu vào văn bản nghệ thuật. Khám phá từng nét nghĩa, lớp nghĩa
để rồi cuối cùng nắm bắt được chủ đề, giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm.
Một số biện pháp tổ chức HS hoạt động phân tích cắt nghĩa
-Phân tích, cắt nghĩa và đánh giá khái quát bằng đàm thoại, gợi mở: Thực
chất của biện pháp này là GV thiết kế một hệ thống câu hỏi có tính logic chặt chẽ,
dẫn dắt HS đi từ sự cảm thụ cụ thể đến khái quát ý nghĩa của các chi tiết nghệ thuật
trong tác phẩm, từ những kết luận mang tính bộ phận đến những kết luận khái quát
hơn và cuối cùng là chủ đề tư tưởng.
-Phân tích, cắt nghĩa văn học bằng biện pháp so sánh: So sánh giúp cho HS
đi sâu khám phá các tầng ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật được định hướng, phân
tích, cắt nghĩa. So sánh là một thao tác tư duy có khả năng kích ho ạt các vận động
trí tuệ của con người để tường giải cái hay cái đẹp. Điều cốt yếu là GV không tiến


13


hành việc so sánh hộ HS mà gợi ý để HS liên hệ đến các yếu tố tương đồng, tương
phản. Hoặc GV cung cấp các dữ liệu để các em thực hiện thao tác so sánh một cách
chủ động sáng tạo.
-Phân tích, cắt nghĩa,khái qt hóa qua việc xây dựng tính huống có vấn đề:
Tình huống có vấn đề là tình huống chứa đựng những cái đã biết và chưa biết.Mâu
thuẫn này được HS chấp nhận như mâu thuẫn của bản thân và địi hỏi phải giải
quyết. Thơng qua sự giải quyết, HS chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo.
* Hoạt động tự bộc lộ, nhận thức của HS
Tự bộc lộ là hoạt động chủ động, tự giác, tự nguyện của bạn đọc HS thể hiện
kết quả tiếp nhận của mình về tác phẩm. Đó là sự thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau- những rung động nhận thức, tình cảm, thái độ… của HS trước những sự
kiện, những số phận… mà nhà văn đã xây dựng trong tác phẩm. Tự bộc lộ cần phải
được GV đầu tư công sức để tổ chức cho HS tiến tới biến hoạt động này thành một
nhu cầu, một thói quen trong đọc văn, học văn của các em.
Một số biện pháp tổ chức HS tự bộc lộ, tự nhận thức:
-Tạo tình huống có vấn đề thúc đẩy HS tự bộc lộ, tự nhận thức. GV sẽ lựa
chọn trong tác phẩm những vấn đề thực sự để xây dựng tình huống có vấn đề nhằm
thúc đẩy HS bộc lộ thái độ nhận thức và rút ra bài học sống, triết lý sống đúng đắn
-Biện pháp đóng vai tác giả hoặc nhân vật trong tác phẩm. Đóng vai tác giả
là biện pháp HS nhập vai người sáng tác để trao đổi, tranh luận với các bạn HS khác
hoặc phát biểu, bộc lộ quan điểm, thái độ về nhân vật, tình tiết trong tác phẩm.
Đóng vai nhân vật trong truyện là hình thức HS đóng vai nhân vật để thể hiện thái
độ, tình cảm, hành động của nhân vật hoặc phát biểu những suy nghĩ chủ quan về
những con người, hồn cảnh, sự kiện, tình huống trong tác phẩm.
-Biện pháp thúc đẩy HS cùng sáng tạo với nhà văn thông qua việc viết lại,
sửa lại, bổ sung văn bản để thể hiện sự tự bộc lộ, tự nhận thức của HS. Sửa đổi sự

việc, đặt nhân vật vào bối cảnh khác tổ chức lời thoại khác hoặc bổ sung thêm sự
kiện, tình huống vào truyện, thêm hành động, lời nói, suy nghĩ cho nhân vật, viết
đoạn kết cho tác phẩm… những cách làm này vừa thể hiện thái độ tiếp nhận của HS

14


với những gì mà nhà văn đã sáng tạo, vừa bộc lộ những quan điểm nhân sinh, thẩm
mĩ mới, những kiến giải mới của bạn đọc nhà trường.
1.1.1.4. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học
Có thể nói mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc là mối quan hệ tương tác
giữa người lập mã và người giải mã. Trong sự tương tác này, văn bản là sự mã hóa
thơng tin thẩm mĩ của nhà văn, cịn bạn đọc thực hiện một quy trình ngược lại: giải
mã văn bản để tiếp nhận thông điệp thẩm mĩ.
Bạn đọc đã đóng một vai trị quan trọng trong đời sống văn học. Mỗi tác giả
khi sáng tạo ra tác phẩm đã gửi gắm vào đó bao hồi bão, ước mơ, lý tưởng lớn
lao… nhưng nó vẫn chỉ ở trên trang giấy tĩnh. Khi bạn đọc giải mã văn bản đó thì
tác phẩm văn học mới thực hiện được những chức năng xã hội của mình. P.Lalery
nói “Ý nghĩa trong thơ tơi là do bạn đọc cho nó”. Hay Gion Điway phân biệt “Sản
phẩm nghệ thuật” do người nghệ sĩ sáng tạo ra khi nào được cơng chúng thưởng
thức tiếp nhận thì mới trở thành tác phẩm nghệ thuật. Vai trò của bạn đọc đối với
sinh mệnh, sự sống còn của tác phẩm nghệ thuật là vơ cùng quan trọng.
Nói tới vấn đề bạn đọc với tiếp nhận văn học không thể khơng nhắc tới tầm
tiếp nhận (hay tầm đón nhận): “Với tư cách là chủ thể tiếp nhận với bất cứ tác
phẩm văn học nào người đọc không bao giờ là một tờ giấy trắng thụ động mà vốn
có một “tầm tiếp nhận” được hình thành một cách tổng hợp gồm nhiều yếu tố”.
Mỗi bạn đọc tùy vào điều kiện sống, lứa tuổi, tâm lý,trình độ, học vấn, thời đại…lại
có những kiến giải khác nhau về tác phẩm. Đó là một điều bình thường làm phong
phú cho các tác phẩm văn học.
Như vậy, mối quan hệ gắn bó, biện chứng giữa bạn đọc và tiếp nhận văn học

sẽ đưa ra những kết luận cho sự tồn tại và phát triển của tác phẩm văn học đó. Bạn
đọc, cơng chúng chính là nhân tố chuyển hóa những giá trị tinh thần trong tác phẩm
để trở thành những động lực tình cảm trong tiến trình lịch sử.
1.1.2. Vấn đề đọc-hiểu, dạy học đọc hiểu văn bản văn học
1.1.2.1. Khái niệm đọc-hiểu
* Đọc: Có rất nhiều khái niệm về đọc:
Về mặt triết học, đọc có những nội dung sau:

15


- “Đọc” là quá trình tiếp nhận ý nghĩa từ văn bản, tất nhiên phải hiểu ngôn
ngữ của văn bản (ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thể loại của văn
bản); phải dựa vào tính tích cực của chủ thể (hứng thú, nhu cầu, năng lực) và tác
động qua lại giữa chủ thể và văn bản
Theo SGK,ngữ văn Nâng Cao 10(tập 1): “Đọc là một hoạt động nắm bắt ý
nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý nghĩa từ
tín hiệu âm thanh”. Đó là ho ạt động lấy văn bản viết, in, khắc làm đối tượng khác
với việc đọc người đọc thoát nạn mù chữ là biết đọc ở đây đòi hỏi hiểu sâu hơn nội
dung tư tưởng, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản vào đời
sống cá nhân và xã hội. [23;tr. 35]
Như vậy, mục đích của đọc là để nắm bắt ý nghĩa của văn bản được đọc, tức
là hiểu văn bản để sống trong thế giới nghệ thuật, thưởng ngoại, giải trí và làm giàu
có tâm hồn mình. Đọc phải gắn liền với hiểu.
* Hiểu
Hiểu là phải nắm được thơng tin, ý nghĩa của văn bản,là giải thích biểu đạt
được ý tưởng và cái hay của văn bản. “Hiểu” là “nghộ” (giác ngộ, bừng ngộ) ra
những chân lý của đời sống, những triết lý nhân sinh được người viết gửi gắm qua
văn bản.
Hiểu thường gắn liền với “cảm” nhất là trong các hoạt động tiếp nhận nghệ

thuật. GS. Đặng Thai Mai đã từng nhận định: “Cảm thấy hay chưa đủ. Có hiểu là
hay thì sự thưởng thức mới có ý nghĩa và tác dụng. Ơng cịn lưu ý bạn đọc nếu chịu
khó suy nghĩ thì thế nào cũng thu hoạch được những điều thú vị, sâu sắc, đậm đà
đằng sau cái âm hưởng trầm bổng”.
* Đọc - hiểu
Đọc-hiểu còn được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp
Theo nghĩa rộng: “Đọc-hiểu chỉ chung phương thức và đích của việc lĩnh hội
tri thức, nắm bắt thơng tin”. Đó là hoạt động nhận thức nói chung (đọc-hiểu văn
bản báo chí; đọc-hiểu văn bản lịch sử, chính trị, văn hóa...)thơng qua con đường giải
mã các kí hiệu ngơn từ.

16


Theo nghĩa hẹp: “Đọc-hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngơn từ,
hưởng thụ thẩm mĩ của con người”. Nó bao gồm nhưng hành động thể chất (mắt
nhìn, tay rở sách tra từ điển…) và các thao tác tư duy (tưởng tượng, phân tích, phán
đốn…) để đi đến đích là cách cảm, cách hiểu và thể nghiệm được nội dung, ý
nghĩa của tác phẩm.
Như vậy, đọc văn là quá trình đi tìm hiểu ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản, hiểu
được các ý nghĩa đó là làm giàu có và phong phú vốn hiểu biết của bản thân. Chính
vì thế, một nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học Ngữ văn là tập trung hình thành
cho HS cách học văn để dần dần các em có thể tự đọc-hiểu tác phẩm văn học một
cách khoa học, đúng đắn.
1.1.2.2. Khái niệm dạy học đọc-hiểu văn bản văn học
Dạy học đọc-hiểu văn bản văn học hoàn toàn khác với việc giảng văn, nhất là
đối tượng của giảng văn chỉ là các văn bản văn học.
Dạy học đọc-hiểu văn bản văn học là việc giáo viên hướng dẫn học sinh sử
dụng những kĩ năng để đọc hiểu văn bản thông qua các hoạt động thao tác theo một
quy trình nhất định nào đó.

Dạy học đọc-hiểu văn bản văn học đề cao vai trò của chủ thể sáng tạo, tích
cực của học sinh trong ho ạt động đọc. Điều quan trọng là chúng ta cần phải thay đổi
quan điểm về việc sử dụng phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng và phương
pháp dạy học đọc-hiểu nói chung, nghĩa là khơng có một phương pháp dạy học đọchiểu duy nhất nào cả. Tùy thuộc vào từng loại văn bản, mục đích đọc và đối tượng
học sinh, người thầy sẽ tự do lựa chọn bất kì một phương tiện giảng dạy và cách
hướng dẫn nào mà họ muốn.
Trong dạy học đọc-hiểu văn bản văn học, giáo viên là người hướng dẫn, tổ
chức,nêu vấn đề để cho học sinh trao đổi, thảo luận, là người dạy về phương pháp
đọc chứ chưa phải là người đọc thay, đọc ngầm biến học sinh trở thành thính giả
chủ động của mình.
1.1.2.3. Chức năng, vai trị của đọc-hiểu
Trước hết đọc-hiểu được coi là con đường, cách thức tiếp cận tác phẩm.
Bằng hoạt động đọc-hiểu, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề của cuộc sống đang

17


được đề cập đến trong tác phẩm có thể là những hình tượng, những cách nhìn nhận
đánh giá vấn đề, hiện tượng đời sống được đưa vào trong tác phẩm. Học sinh trong
quá trình đọc sẽ nhận thức một cách đầy đủ được những kiến thức, kinh nghiệm,
hiểu biết về đời sống, con người và xã hội… Bởi thông tin mà các văn bản văn học
cung cấp cho bạn đọc sẽ vơ cùng phong phú. Đó có thể là những vấn đề của cuộc
sống đời thường, nhỏ bé, giản dị, và cả những biến đổi nội tâm thậm chí cả những
vấn đề lớn lao vĩ đại.Đọc-hiểu là hoạt động dạy học mang tính phổ qt. Nó nhằm
mục tiêu giáo dục đào tạo nói chung nghĩa là nó được xem như một phương tiện
nhằm giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho người đọc, người học.
Hoạt động đọc-hiểu sẽ góp phần cho HS một phương pháp học tập mới.
Phương pháp ấy giúp cho HS chủ động hơn khi lĩnh hội, tìm hiểu, khám phá bài một
cách sáng tạo với vai trò của bạn đọc. Thông qua việc đọc-hiểu VBVH các kĩ năng và
kinh nghiệm mới sẽ được hình thành, mở rộng sự hiểu biết và phát triển khả năng bao

quát vấn đề, nắm bắt nội dung thông tin. Hoạt động đọc-hiểu không chỉ giúp cho việc
đọc-hiểu văn bản mà hình thành cho HS kĩ năng tạo lập văn bản, một công việc vô
cùng quan trọng giúp cho các em vận dụng vào cuộc sống sau này.
Có thể khẳng định rằng, đọc-hiểu là một phương pháp dạy học góp phần khắc
phục hạn chế của những phương pháp dạy học truyền thống. Qua đó HS sẽ nhớ bài
nhanh hơn, chủ động lĩnh hội, ghi nhớ bài một cách chủ động hơn. Từ việc các em
nắm được cách thức đọc-hiểu VBVH trong nhà trường rồi sẽ vận dụng vào đọc-hiểu
các văn bản trong đời sống có cùng thể loại.
Như vậy, đọc-hiểu trở thành một nhu cầu, một thao tác, phương pháp khi tiến
hành tiếp nhận văn bản văn học ở nhà trường PT, cũng như khi các em vận dụng vào
khám phá các văn bản trong đời sống. Vai trò của việc đọc-hiểu VBVH trong hoạt
động dạy học môn Ngữ văn là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định vai
trò của người GV khi tổ chức hướng dẫn HSvề sự chủ động, sáng tạo lĩnh hội tri thức,
thông tin từ GV và VBVH từ các em.
1.1.2.4. Mơ hình dạy học đọc-hiểu văn bản văn học
Từ khi hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản nghệ thuật được vận dụng trong
quá trình dạy học văn, chúng ta thấy xuất hiện nhiều tài liệu giới thiệu mơ hình dạy

18


×