Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nhận thức luận của i kant và tư tưởng của ông về giới hạn của nhận thức trong phê phán lý tính thuần túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------(((------

ĐỖ HỒNG THÀNH

NHẬN THỨC LUẬN CỦA I. KANT VÀ TƯ TƯỞNG
CỦA ÔNG VỀ GIỚI HẠN CỦA NHẬN THỨC TRONG

PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------(((------

ĐỖ HỒNG THÀNH

NHẬN THỨC LUẬN CỦA I. KANT VÀ TƯ TƯỞNG
CỦA ÔNG VỀ GIỚI HẠN CỦA NHẬN THỨC TRONG

PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60 22 03 01



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:: TS. Phạm Văn Chung

Hà Nội, 2017

2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 5
1.

Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 5

2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................... 7

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 10

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 11

5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu........................................................ 11


6.

Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 11

7.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .............................................................................. 11

8.

Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 12

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH...................................................................................... 13
CHƢƠNG 1 .............................................................................................................. 13
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI NHẬN THỨC LUẬN .................... 13
CỦA I. KANT TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY ............ 13
1.1. Những tiền đề lịch sử của sự hình thành nhận thức luận của I. Kant ............ 13
1.1.1. Những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội ........................................... 13
1.1.2. Những tiền đề khoa học tự nhiên ............................................................ 19
1.1.3. Những tiền đề lý luận .............................................................................. 25
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của I. Kant ................................................................ 30
1.3. Về tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy ....................................................... 35
CHƢƠNG 2 .............................................................................................................. 41
NỘI DUNG CƠ BẢN NHẬN THỨC LUẬN CỦA I. KANT VÀ TƢ TƢỞNG
CỦA ÔNG VỀ GIỚI HẠN CỦA NHẬN THỨC ..................................................... 41
2.1. Nội dung cơ bản và những bƣớc chuyển trong nhận thức luận của I. Kant .. 41
2.1.1. Nội dung cơ bản nhận thức luận của I. Kant .......................................... 41
2.1.2. Từ triết học tự nhiên đến triết học nhận thức ......................................... 51
2.1.3. Từ sự đối lập giữa nhận thức duy lý và nhận thức kinh nghiệm đến nhận
thức tiên nghiệm ................................................................................................ 53

2.2. Tƣ tƣởng của I. Kant về giới hạn của nhận thức ............................................ 58

3


2.2.1. “Vật tự thân” – Thuyết bất khả tri hay là về giới hạn không thể vượt qua
được của nhận thức ........................................................................................... 58
2.2.2. Những nghịch lý (antinomie) của lý tính thuần túy và giới hạn của nhận
thức .................................................................................................................... 66
2.3. Giá trị và hạn chế của nhận thức luận của I. Kant nói chung và tƣ tƣởng của
ông về giới hạn của nhận thức nói riêng ............................................................... 69
2.3.1. Giá trị và hạn chế của nhận thức luận của I. Kant ................................. 69
2.3.2. Giá và hạn chế của tư tưởng của I. Kant về giới hạn của nhận thức .... 73
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 82

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Ph.Ăngghen, “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tƣ duy lý luận”, nhƣng tƣ duy lý luận ấy
“cần phải đƣợc hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có
một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trƣớc”, vì “triết
học là sự tổng kết lịch sử tƣ duy”. Mà lịch sử phát triển của tƣ duy lại đƣợc
tổng kết trong lịch sử triết học, vì thế việc nghiên cứu tƣ duy lý luận là một
yêu cầu cấp thiết đƣợc đặt ra cho các ngành khoa học hiện nay. Nghiên cứu tƣ
duy lý luận giúp cung cấp cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận cho việc nghiên
cứu các ngành khoa học nói chung và khoa học xã hội nhân văn nói riêng.

Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, vấn đề nghiên cứu triết học nhân loại là
vấn đề đang đƣợc các nhà khoa học tâm huyết trong nƣớc quan tâm và chú ý,
nhằm tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nhân loại, vận dụng vào hoàn cảnh
thực tiễn Việt Nam để đổi mới cách nhìn, đổi mới phƣơng pháp tƣ duy xóa bỏ
lối tƣ duy cũ đang tồn tại từ lâu đời.
Ở nƣớc ta hiện nay, việc nghiên cứu lịch sử triết học còn ít. Hầu nhƣ
chỉ tập trung ở một một số trƣờng đại học lớn mang tính chất đặc thù, chuyên
ngành. Chính vì vậy, nghiên cứu lịch sử triết học là một việc làm hết sức cần
thiết nhằm đi tìm hiểu cội nguồn lịch sử tƣ tƣởng triết học thế giới.
Trong dòng chảy lịch sử triết học nhân loại, nổi lên những triết gia đại
diện cho các thời đại, một trong những triết gia vĩ đại đó là I. Kant của triết
học cổ điển Đức, bên cạnh các triết gia khác nhƣ Hêghen, Phoiơbắc…
Immanuel Kant (I. Kant) đƣợc coi là ngƣời đã thực hiện cuộc cách mạng
Copernic trong nhận thức luận. I. Kant so sánh sự chuyển hƣớng trong cách
tìm hiểu tri thức của mình với cuộc cách mạng Copernic trong thiên văn học..
Ông đƣợc tôn vinh là ngƣời sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Triết học I.
5


Kant đã có ảnh hƣởng rất lớn đối với các trào lƣu triết học phƣơng Tây về
sau. Với tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy sức hấp dẫn của nó không chỉ
bởi những luận điểm phức tạp, đầy mâu thuẫn của I. Kant, cũng không phải vì
có quá nhiều những ý kiến trái ngƣợc nhau về tƣ tƣởng triết học của ông.
Một trong những nguyên nhân để chúng tôi đi vào tìm hiểu triết học I.
Kant chính là ở chỗ, trong triết học I. Kant có khá nhiều những vấn đề đƣợc
các học giả quan tâm nhƣ đạo đức, triết học lịch sử, siêu hình học, triết học
thực tiễn… những vấn đề này hiện nay vẫn còn gây nhiều bàn cãi và chƣa đi
đến hồi kết. Việc tìm hiểu tính tích cực của chủ thể nhận thức, năng lực, giới
hạn và cấu trúc của lý tính, mâu thuẫn trong quá trình nhận thức, sự tồn tại và
bất tử của Linh hồn, Thƣợng đế, Thế giới luôn là những nan đề có rất nhiều

kiến giải khác nhau xoay quanh và luôn tìm về triết học I. Kant nhƣ là cội
nguồn và căn cứ để khai phá. I. Kant đã phân biệt hai lĩnh vực của nhận thức:
lĩnh vực mà con ngƣời có thể nhận thức đƣợc đó là thế giới hiện tƣợng, và
lĩnh vực mà lý tính con ngƣời dù đã làm cuộc bạo động xâm nhập vào nó
nhƣng vẫn bất lực, không thể nhận thức đƣợc – thế giới “Vật tự thân”. Với
những tƣ tƣởng đó, I. Kant đã phê phán mạnh mẽ sự bất lực của siêu hình học
truyền thống, khi nó sử dụng phƣơng pháp tiếp cận của khoa học tự nhiên để
nhận thức “Vật tự thân”. Theo I. Kant, triết học có sứ mệnh cao cả là cứu
nguy cho siêu hình học truyền thống, cần phải tiến hành phê phán chính lý
tính. Lý tính đã mắc phải những mâu thuẫn không thể giải quyết, chính từ
những mâu thuẫn đó là động lực để I. Kant chuyển sang lĩnh vực thực hành.
Với tƣ tƣởng vê “Vật tự thân” trên thực tế I. Kant đã đặt ra một giới
hạn của nhận thức có thể mang ý nghĩa đặt cơ sở cho một môn học mới là “về
những giới hạn của nhận thức của con ngƣời” mà những thành tựu của khoa
học thế kỳ 20 – 21 chứng tỏ điều đó. Hiện nay khoa học ngày càng phát triển,
mang lại những thành tựu to lớn cho nhân loại trên tất cả các phƣơng diện
6


càng làm cho sự ngông cuồng của con ngƣời đƣợc bộc lộ rõ nét, đặc biệt là
niềm tin tuyệt đối, thái quá vào khoa học, vào tƣ duy lý tính, vào sự hiểu biết
vô hạn của con ngƣời, niềm tin đó cho rằng không có bí mật nào mà con
ngƣời không thể biết, vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và chỉ ra những giới hạn nhận thức của con ngƣời trong tiến trình
phát triển nhƣ vũ bão của khoa học hiện đại là việc vô cùng cần thiết để từ đó
đƣa ra những gợi mở cho những hƣớng phát triển mới trên nhiều phƣơng diện
đặc biệt là trên phƣơng diện nhận thức đồng thời cũng là để gióng lên một hồi
chuông cảnh tỉnh với sự lạc quan đến mức thái quá về khả năng nhận thức của
con ngƣời.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Nhận thức luận của I.

Kant và tƣ tƣởng của ông về giới hạn của nhận thức trong Phê phán lý
tính thuần túy” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trên nhiều phƣơng diện khác nhau, các học giả Việt Nam đẫ tiếp cận,
nghiên cứu triết học I. Kant bằng nhiều cách. Tuy nhiên, hầu nhƣ chƣa có bất
cứ một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu “tƣ tƣởng của I. Kant về
giới hạn của nhận thức”trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy của ông.
Hầu hết, trong các tác phẩm hay bài viết nói về triết gia I. Kant, các tác giả
chỉ đề cập đến vấn đề “giới hạn nhận thức của con ngƣời” trong quan niệm
của ông nhƣ là một phần nhỏ trong lý luận nhận thức và hầu hết nó đƣợc hiểu
thuần túy theo nghĩa thuần túy tiêu cực.
Ở nƣớc ta, đã có nhiều tác giả đi vào nghiên cứu triết học I. Kant. Về
phƣơng diện lịch sử, ngƣời đề cập đến triết học I. Kant sớm nhất là GS. Trần
Đức Thảo trong tác phẩm “Lịch sử tƣ tƣởng trƣớc Marx”. Trong đó, GS. Trần
Đức Thảo đã trình bày các võng luận của phép biện chứng theo cấu trúc tác
phẩm Phê phán lý tính thuần túy. Đây là những đánh giá đúng đắn và khách
7


quan đối với triết học I Kant. Tuy nhiên, những đánh giá của ông còn sơ
lƣợc, chƣa đi sâu vào một vấn đề cụ thể, nhất là ông chƣa đi sâu và nghiên
cứu vấn đề “Vật tự thân” hay về giới hạn của nhận thức, đây chỉ là những
nghiên cứu chung về triết học I. Kant.
Năm 1962, Nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội) đã cho xuất bản bộ “Giáo
trình lịch sử triết học – Giai đoạn triết học cổ điển Đức” do Viện Triết học
thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô biên soạn. tác phẩm đã đem đến cho
độc giả những nét khái lƣợc về triết học cổ điển Đức, trong đó triết học I.
Kant chiếm một vị trí quan trọng. Các tác giả đã nghiên cứu quan niệm của I.
Kant về nhận thức theo ba giai đoạn: cảm tính, giác tính và lý tính, trong đó
giai đoạn nhận thức lý tính là giai đoạn nhận thức cao nhất của con ngƣời,

tuy nhiên việc đi sâu vào nghiên cứu tƣ tƣởng của I. Kant về giới hạn của
nhận thức trong Phê phán lý tính thuần túy thì chƣa có.
Trần Thái Đỉnh trong cuốn “Triết học I. Kant” đã nêu lên một cách khá
toàn diện các vấn đề triết học I. Kant. Riêng đối với triết học lý luận, tác giả
cũng đƣa ra những luận giải khá sâu sắc. Ông cho rằng khi phê phán lý tính
thuần túy, I. Kant không nhằm phá hủy siêu hình học mà trái lại cố gắng xây
dựng một siêu hình học mới. Tác giả dành khá nhiều tâm huyết trình bày các
võng luận của nhận thức triết học I. Kant. Đây là một công trình khá đầy đủ
và phong phú về triết học I. Kant, tuy nhiên để dành một dung lƣợng cho việc
nghiên cứu “những giới hạn nhận thức của con ngƣời” trong quan niệm của I.
Kant, thì Trần Thái Đỉnh chỉ đề cập đến “giới hạn nhận thức của con ngƣời”
nhƣ một phần trong lý luận nhận thức của I. Kant nhƣ các cuốn sách khác.
Trong cuốn “Triết học Immanuen Kant” của PGS.TS. Nguyễn Văn
Huyên xuất bản năm 1996, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tác giả đã trình bày
những nét tổng quát về triết học nhận thức và triết học thực tiễn của I. Kant.
Tác giả đã nêu lên những Antinomie của lý tính con ngƣời trong quá trình
8


nhận thức, phân tích cách giải quyết các Antinomie đó và tính biện chứng còn
đƣợc thể hiện ở mặt hình thức của các mối liên hệ các phạm trù, các nhóm
phạm trù. Và tác giả cũng chỉ dành một số ít trang để nói về quan niệm
“những gới hạn nhận thức của con ngƣời” của I. Kant.
Quan niệm của I. Kant về “Vật tự nó” trong tác phẩm Phê phán lý tính
thuần túy – Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Hải Yến năm 2013 tại trƣờng
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn
đi sâu tìm hiểu quan niệm của I. Kant về “Vật tự nó” trong tác phẩm Phê
phán lý tính thuần túy, có bàn đến vấn đề “giới hạn nhận thức của con ngƣời”,
tuy nhiên dung lƣợng là rất ít và chƣa thực sự đi sâu vào vấn đề này.
Ngoài ra còn cần nói đến một công trình gần đây đề cập đến khá nhiều

vấn đề nhận thức luận của I. Kant với rất nhiều bài viết đáng chú ý đó là Kỷ
yếu Hội thảo Khoa học “Triết học cổ điển Đức: những vấn đề nhận thức luận
và đạo đức học” của trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2004. Đây là công trình quy tụ khá nhiều kết quả
nghiên cứu của nhiều tác giả đã đƣợc in thành kỷ yếu hội thảo quốc tế kỷ
niệm 200 năm ngày mất của I. Kant, có khá nhiều bài viết liên quan đến vấn
đề mà đề tài nghiên cứu, về nhận thức luận có các công trình “Nhận thức luận
và đạo đức học trong triết học cổ điển Đức” của Trịnh Trí Thức; “Phƣơng
thức tƣ duy chủ thể tính của I. Kant và những gợi mở của nó đối với đƣơng
đại” của Âu Dƣơng Khang; “Thực chất cái siêu việt của lý tính trong lý luận
nhận thức của I. Kant và tƣ tƣởng của ông về một nền triết học khoa học” của
Phạm Văn Chung; “Tƣ tƣởng của I. Kant về sự thống nhất giữa lý luận nhận
thức, đạo đức học trong nhân học” của Nguyễn Vũ Hảo; “I. Kant và nhận
thức luận hiện đại” của Đỗ Văn Khang, “Lý luận nhận thức của I. Kant thời
kỳ phê phán – giá trị và hạn chế” của Trần Văn Phòng; “Nhận thức luận của I.
Kant nhìn từ triết lý Đông phƣơng” của Lê Công Sự. Về vấn đề liên quan đến
9


giới hạn của nhận thức có các công trình “Quan niệm của I. Kant về bản chất
và giới hạn của nhận thức” của Dƣơng Văn Thịnh; “Quan niệm của I. Kant về
bản chất của nhận thức và ý nghĩa của nó” của Vũ Văn Viên.
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu về triết học I. Kant luôn thu hút sự chú ý của
nhiều học giả. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu riêng về “những giới
hạn của nhận thức con ngƣời trong Phê phán lý tính thuần túy của I. Kant
chƣa thực sự nhiều, hầu nhƣ chƣa có một công trình nào dành tâm huyết và đi
sâu vào phân tích quan niệm về những giới hạn của nhận thức con ngƣời của
I. Kant, có chăng chỉ là những phân tích về phần lý luận nhận thức của ông
nói chung và khi đi vào phân tích thì các học giả còn có khá nhiều quan điểm
khác nhau. Do đó, “nhận thức luận của I. Kant nói chung và tƣ tƣởng của ông

về giới hạn của nhận thức trong Phê phán lý tính thuần túy của I. Kant vẫn
cần đặt ra để tiếp tục nghiên cứu.
Trong luận văn có phần giới thiệu về những tiền đề lịch sử cho sự ra đời
của triết học I. Kant cũng nhƣ tiểu sử của ông, về điểm này luận văn chủ yếu
khai thác các tài liệu nhƣ “101 triết gia” của Mai Sơn xuất bản năm 2007 do Nxb
Tri Thức và công ty văn hóa Phƣơng Nam liên kết ấn hành, “Triết học cổ điển
Đức” của Lê Công Sự xuất bản năm 2006 do NXB Thế giới ấn hành, “Học
thuyết phạm trù trong triết học I. Kant” của Lê Công Sự xuất bản năm 2007 do
Nxb Chính Trị Quốc Gia ấn hành, Quan niệm của I. Kant về vật tự nó trong phê
phán lý tính thuần túy - luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Hải Yến (2013) . Nói
chung ở đây chúng tôi không có những nghiên cứu mang lại những hiểu biết mới
về cuộc đời, sự nghiệp của I. Kant cũng nhƣ tiền đề cho sự ra đời của tác phẩm
Phê phán lý tính thuần túy. Điều này là hiển nhiên, vì những dữ kiện về con
ngƣời, cuộc đời của I. Kant nói chung là cố định và chắc chắn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ nhận thức luận của I. Kant trong mối liên hệ với tƣ
10


tƣởng của ông về giới hạn nhận thức trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần
túy. Trên cơ sở đó bƣớc đầu nhận định, đánh giá về ý nghĩa của chúng.
Nhiệm vụ: 1) Xem xét những điều kiện, tiền đề hình thành nhận thức
luận của I. Kant. .2) Tìm hiểu tƣ tƣởng của I. Kant về giới hạn của nhận thức
trong Phê phán lý tính thuần túy. 3) Bƣớc đầu đánh giá giá trị tƣ tƣởng của I.
Kant về giới hạn của nhận thức trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là nhận thức luận của I. Kant.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản của nhận
thức luận của I. Kant và tƣ tƣởng của ông về giới hạn của nhận thức trong tác
phẩm Phê phán lý tính thuần túy.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin,
chủ yếu về phép biện chứng, về lịch sử triết học nói chung về triết học I. Kant
nói riêng, đồng thời kế thừa, tiếp thu các tài liệu, bài nghiên cứu của các tác
giả về triết học cổ điển Đức, triết học I. Kant nhất là về phƣơng pháp.
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp, kết
hợp giữa lôgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp….
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ hơn Nhận thức luận của I. Kant thông qua việc
chỉ ra những nội dung cơ bản của Nhận thức luận của I. Kant trong mối liên
hệ với tƣ tƣởng của ông về giới hạn của nhận thức trong Phê phán lý tính
thuần túy.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả của đề tài luận văn một mặt góp phần vào việc nghiên cứu triết
học I. Kant nói chung, nhận thức luận của ông nói riêng, mặt khác có ý nghĩa
đối với nghiên cứu khoa học nhất là trong việc xác định những giới hạn của
11


nhận thức.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, Phần nội dung chính gồm 2 chƣơng,
Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.

12


PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI NHẬN THỨC LUẬN

CỦA I. KANT TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY
1.1. Những tiền đề lịch sử của sự hình thành nhận thức luận của I. Kant
1.1.1. Những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội, là sự kết tinh của những tinh hoa tinh thần của một thời đại. Do đó, sự
ra đời và phát triển của mỗi học thuyết triết học luôn luôn chịu sự chi phối và
phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội nhất định. Đó chính
là tính quy luật lịch sử, là cánh cửa đầu tiên vô cùng cần thiết và quan trọng
để bƣớc vào nghiên cứu nguồn gốc, nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của
nó. Theo đó, khi đi vào nghiên cứu triết học I. Kant, việc nghiên cứu điều
kiện lịch sử thời đại mà ông đang sống là một yêu cầu tiên quyết để hiểu đƣợc
triết học của ông.
Lịch sử các nƣớc châu Âu thế kỷ XVII – XVIII đã bƣớc sang một giai
đoạn mới, một loạt nƣớc Châu Âu nhƣ Anh, Pháp, Italia, Hà Lan…chế độ
phong kiến về cơ bản đã rời bỏ vũ đài chính trị - lịch sử của mình để nhƣờng
chỗ cho chế độ tƣ bản. Đặc biệt là vào nửa cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt
đƣợc những thành tựu kinh tế - xã hội mới, khẳng định phƣơng thức sản xuất
tƣ bản chủ nghĩa, phá tan dần các quan hệ phong kiến, làm xuất hiện nhiều
ngành sản xuất mới với các nhu cầu xã hội và cá nhân mới. Cách mạng công
nghiệp Anh nhƣ một biến cố kinh tế quan trọng nhất trong đời sống kinh tế xã hội tƣ bản lúc bấy giờ, đem lại sự phát triển nhảy vọt của sản xuất, làm
tăng trƣởng mạnh mẽ trình độ, khối lƣợng và nhịp độ sản xuất. Bên cạnh đó,

13


các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII – XVIII mở đƣờng cho phát triển các
tƣ tƣởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc Cách mạng Tƣ sản Pháp (1789 – 1794).
Hai cuộc cách mạng trên có ý nghĩa lịch sử rất lớn lao với thời đại:
“Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con ngƣời trong
nhận thức thế giới, cách mạng Tƣ sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới,

làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công
nghiệp” [17, 8]. Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, hai cuộc cách mạng đó đã có
những ảnh hƣởng lớn đến phong trào giải phóng ở các nƣớc châu Âu, đƣợc
đánh dấu bằng một loạt các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra: cách mạng tƣ sản
ở Anh, Hà Lan, Pháp, Italia…chấm dứt sự thống trị của chế độ phong kiến
hàng nghìn năm gắn liền với hệ thống thần quyền và giáo luật khắt khe, mở
đầu cho sự ra đời và phát triển của chế độ tƣ bản. Chủ nghĩa tƣ bản ra đời
đem lại một nền sản xuất phát triển chƣa từng có trong lịch sử, tỏ ra ƣu việt
hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trƣớc đó. Bƣớc chuyển đó đã đem lại
cho châu Âu một diện mạo mới với những thành tựu khổng lồ về kinh tế - xã
hội và văn hóa mà nhân loại đã đạt đƣợc trong thời kỳ bình minh đầy tính
cách mạng của chủ nghĩa tƣ bản. Đó là những tiền đề quan trọng thúc đẩy
khoa học nói chung và triết học nói riêng phát triển. Đặc biệt đối với triết học,
sự chuyển biến đƣợc thể hiện rõ.
Trong thời đại tƣ bản chủ nghĩa, hệ thống thần học nhƣ một chiếc áo
khoác lên, che đậy cho chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa kinh viện giáo điều với
những lý luận hoàn toàn hƣớng con ngƣời tới một thế giới ảo tƣởng, xa rời
hiện thực cuộc sống đã bị cởi bỏ, thay thế bởi chủ nghĩa duy vật siêu hình và
chủ nghĩa duy lý. Triết học thâm nhập khám phá cuộc sống, tìm hiểu những bí
ẩn trong lý tính của con ngƣời. Các nhà tƣ tƣởng tƣ sản trả lại cho con ngƣời
những quyền mà hệ tƣ tƣởng phong kiến đang phủ nhận: quyền tự do, quyền
bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mƣu cầu hạnh phúc.
14


Con ngƣời phải vƣơn tới trí tuệ tự do và đích thực.Trong thời kỳ đó, nếu nƣớc
Anh nhờ cách mạng tƣ sản và bƣớc ngoặt công nghiệp mà trở thành quốc gia
tƣ bản lớn mạnh nhất, nƣớc Pháp nhờ Cách mạng Tƣ sản 1789, giai cấp tƣ
bản đã tiêu diệt chế độ phong kiến, đang tiến nhanh trên con đƣờng tƣ bản
chủ nghĩa, cả châu Âu đang phát triển nhanh và mạnh mẽ, nhƣng trái lại nƣớc

Đức vẫn triền miên trong “giấc ngủ Đông” – vẫn còn là một nƣớc phong kiến
lạc hậu, với chế độ quân chủ chuyên chế phân quyền, bị phân hóa cả về kinh
tế lẫn chính trị. Triết học I. Kant đã ra đời trong hoàn cảnh đó, trong một
nƣớc Đức hết sức phức tạp và đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa.
Sau khi thất bại trong chiến tranh nông dân (1525), thế kỷ XVII, nƣớc
Đức lại trải qua cuộc chiến tranh 30 năm kéo theo hậu quả nghiêm trọng là sự
tàn phá ghê gớm, nặng nề cả về con ngƣời và của cải. Xã hội Đức cuối thế kỷ
XVIII còn là một nƣớc nghèo nàn, lạc hậu, phát triển trì trệ so với các nƣớc
Tây Âu xung quanh. Tập đoàn phong kiến Đức đang thống trị độc đoán và
ngoan cố. Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực tế đất nƣớc còn phân
thành nhiều tiểu vƣơng quốc tách biệt nhau với hàng trăm cát cứ phong kiến.
Đứng đầu mỗi cát cứ là một chúa đất có quyền lực vô hạn đối với thần dân
của mình. Trong mỗi lãnh địa đều có quân đội, cảnh sát, tiền tệ và thuế quan
riêng. Sự phân tán về kinh tế, chính trị cùng với sự bảo thủ độc đoán của triều
đình Phổ là lực cản lớn của nƣớc Đức trên con đƣờng phát triển tƣ bản chủ
nghĩa.
Về kinh tế, nền kinh tế hàng hóa bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế sản
xuất phong kiến lạc hậu. Sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ, những tàn
dƣ của chế độ nông nô, chế độ phƣờng hội, chúa đất, sự phụ thuộc lẫn nhau
của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị phản động…đã kìm hãm sự
phát triển kinh tế, làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nƣớc Đức so với các
nƣớc phát triển tƣ bản chủ nghĩa. Năng suất lao động thấp, đời sống của đại
15


đa số quần chúng nhân dân trở nên nghèo nàn, cùng cực. Toàn cảnh nền kinh
tế nƣớc Đức lúc bấy giờ hết sức manh mún, trì trệ và phân tán.
Về chính trị, vua Friedrich Wilhem II đứng đầu triều đình Phổ lúc bấy
giờ vẫn rất bảo thủ và ngoan cố tăng cƣờng quyền lực, duy trì chế độ quân
chủ chuyên chế hà khắc, muốn nhân dân mình quay trở về thời trung cổ, ngăn

cản đất nƣớc đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh ấy giai
cấp tƣ sản nƣớc Đức vẫn còn non nớt và yếu đuối, chƣa có đủ điều kiện chín
muồi cho việc nổi dậy giành chính quyền. Chính vì thế, cả nƣớc Đức bao
trùm một bầu không khí ngột ngạt, bất bình của nhân dân.
Về tƣ tƣởng, hệ tƣ tƣởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý
luận. Thần học là khoa cơ bản trong các trƣờng đại học tổng hợp. Triết học và
các môn khoa học xã hội khác nhiều khi chỉ là sự biện hộ và bảo vệ cho thần
học. Ngƣời cha tinh thần của triết học Đức lúc đó là Christian Wolft, ngƣời kế
tục tƣ tƣởng duy tâm của Lépnít. Đa số học trò của Wolft đều chiếm những
vị trí quan trọng trong các trƣờng đại học Đức lúc bấy giờ. Triết học tiến hành
cuộc thỏa hiệp với tôn giáo và đành nhƣợng bộ nó trong nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn.
Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của xã hội Đức đƣơng thời phủ một
màu xám, đúng nhƣ lời khắc họa của Ăngghen: “Không ai cảm thấy mình dễ
chịu…Mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn bao trùm cả nƣớc. Không có
giáo dục…không có tự do báo chí, không có dƣ luận xã hội - không có gì cả
ngoài sự đê tiện và tự tƣ tự lợi, lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe nịnh hót
thảm hại, đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng
sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn lấy một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì
dân tộc thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã
chết rồi” [2, 754].

16


Trƣớc ảnh hƣởng nhƣ vũ bão của các cuộc cách mạng tƣ sản trên thế
giới, đặc biệt là Cách mạng Tƣ sản Pháp (1789), cùng với bối cảnh kinh tế xã
hội phức tạp, rối ren và đầy mâu thuẫn của nƣớc Đức lúc bấy giờ đã tác động
mạnh tới tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản Đức. Họ đã đặt ra vấn đề cách mạng,
nhƣng không phải trong thực tế mà chỉ trong tƣ tƣởng mà thôi. Bởi vì, không

giống nhƣ các nhà tƣ tƣởng Pháp, các nhà tƣ tƣởng Đức không đồng thời là
các nhà hoạt động cách mạng. Không nhƣ P.H. Hônbách, C.A. Helvêtiuyt hay
Đ. Điđrô và các nhà hoạt động khác thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức
là những nhà duy tâm, chính vì thế họ không dám làm một cuộc cách mạng
trong hiện thực mà chỉ làm cuộc cách mạng trong tƣ tƣởng. Giai cấp tƣ sản
non yếu đang trong quá trình tích lũy tƣ bản vẫn phải dựa vào sự bảo hộ của
quý tộc nên cuộc đấu tranh chính trị mạnh mẽ với giới quý tộc là điều mà họ
chƣa thể nghĩ tới. Điều đó đƣợc phản ảnh trong sự bất lực tiến hành một cuộc
cách mạng chống lại trật tự phong kiến và cuối cùng thể thiện ở sự thỏa hiệp
của họ.
Các học thuyết triết học của các nhà triết học cổ điển Đức duy tâm và
yếu hèn, không thể làm cơ sở cho sự cải tạo tƣ sản nƣớc Đức theo mong
muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu: tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con
ngƣời. Trong tầng lớp trí thức Đức thời bấy giờ xuất hiện tình trạng bi quan,
bất mãn và bất lực. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tƣ tƣởng cải lƣơng, thỏa
hiệp, phủ nhận sự cải tạo xã hội cũ bằng bạo lực cách mạng, biện hộ cho sự
tồn tại của nhà nƣớc Phổ và xã hội đƣơng thời. Họ lấy triết học làm vũ khí
phê phán và chuyển tải tƣ tƣởng cách mạng. Triết học là nơi gửi gắm, thể hiện
khát vọng cải tạo hiện thực của con ngƣời.
“Triết học Đức là sự tiếp tục của lịch sử Đức trong ý niệm” [2, 557].
“Cũng giống nhƣ ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng triết học Đức hồi thế
kỷ XIX cũng đi trƣớc một cuộc cách mạng chính trị”[3, 39], nhƣng khác với
17


giai cấp tƣ sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tƣ sản Đức ngay từ đầu
đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời
đó, giữ lập trƣờng cải lƣơng trong việc giải quyết vấn đề phát triển đất nƣớc.
Tính chất cải lƣơng thỏa hiệp về tƣ tƣởng chính trị của tầng lớp trí thức
Đức đƣơng thời đã có ảnh hƣởng lớn đến I. Kant. Là một học giả chỉ nghiên

cứu khoa học và triết học, bận rộn với công việc giảng dạy cũng nhƣ giải
thích các thành quả nghiên cứu của mình, I. Kant ít quan tâm đến các vấn đề
chính trị, ngại đụng chạm đến chính quyền nhà nƣớc. Nhƣng ông lại có một
tấm lòng nhân đạo cao cả, có thiện cảm với quần chúng nhân dân lao động
nghèo khổ. Trong suy nghĩ của nhà triết học diễn ra mâu thuẫn với các câu
hỏi: cần phải làm gì và làm nhƣ thế nào để đạt đƣợc hai mục đích: câu hỏi thứ
nhất, nói lên tƣ tƣởng khoa học, đề cao vai trò lý tính, phản ánh nguyện vọng
muốn thay đổi chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc bằng một xã hội dân chủ
tƣ sản, đem lại quyền lợi đích thực cho mọi công dân xã hội; câu hỏi thứ hai,
làm vừa lòng chính thể nhà nƣớc hiện tồn. Mâu thuẫn tâm lý đó chuyển thành
mâu thuẫn tƣ tƣởng và biểu hiện một cách cụ thể trong học thuyết triết học
của I. Kant. “Tƣ tƣởng của I. Kant biểu hiện những ƣu khuyết điểm của cách
mạng tƣ sản một cách đúng đắn” [39, 419].
Dƣới sự tác động của cả hai sức ép: một bên là sự cổ vũ mạnh mẽ của
các nhà Khai sáng, cách mạng tƣ sản Pháp - những tƣ tƣởng tiến bộ; một bên
là sức ép chính trị của chính quyền chuyên chế Phổ đƣơng nhiệm với chính
sách trừng trị hà khắc đối với những học giả có tƣ tƣởng chống đối nhà nƣớc,
I. Kant cũng đã chọn con đƣờng cải lƣơng, thỏa hiệp với luận điểm: “Tôi phải
dẹp bỏ nhận thức đi để dành chỗ cho lòng tin và thuyết giáo điều trong siêu
hình học” [21, 55].
Tóm lại, triết học I. Kant là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã
hội Đức đầu thế kỷ XVIII; Nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội
18


Đức với những mâu thuẫn phát sinh trong lòng xã hội đó. Đồng thời triết học
I. Kant cũng là sự khai phá tiến bộ trên lĩnh vực tƣ tƣởng có thể xem là biểu
tƣợng của “lý luận Đức của cuộc cách mạng tƣ sản Pháp”.
1.1.2. Những tiền đề khoa học tự nhiên
Mỗi một học thuyết triết học không bao giờ ra đời trên mảnh đất hiện

thực trống rỗng mà là sự kế thừa, tiếp tục phát triển những tƣ tƣởng trƣớc đó
của nhân loại. Triết học I. Kant không chỉ hình thành trong bối cảnh lịch sử
rối ren, phức tạp của nƣớc Đức thế kỷ XVIII mà còn là sự tiếp thu những tinh
hoa tƣ tƣởng của thời đại. Trƣớc hết cần phải đề cập tới những thành quả
trong khoa học tự nhiên – một trong những yếu tố tác động trực tiếp tới sự
hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận, quan điểm của các nhà triết học.
Triết học và khoa học tự nhiên luôn là hai ngƣời bạn song hành gắn bó với
nhau trong sự phát triển, chúng có sự tác động qua lại với nhau một cách biện
chứng. Những phát minh, những thành tựu trong khoa học tự nhiên đã cung
cấp cho triết học những tƣ liệu sinh động, những bằng chứng cụ thể làm cơ sở
để từ đó triết học khái quát thành những khái niệm, phạm trù, quy luật,
nguyên lý, đồng thời khoa học tự nhiên cũng tạo tiền đề để triết học xây dựng
những phƣơng pháp nhận thức: siêu hình, biện chứng, quy nạp, diễn
dịch…Trong quá trình phát triển, những khám phá, phát hiện mới của khoa
học tự nhiên đã đặt triết học trƣớc những vấn đề lý luận với yêu cầu phải có
những lý giải phù hợp với những phát minh khoa học trong nhận thức và giải
thích thế giới. Có thể nói, I. Kant là một minh chứng điển hình cho điều đó. I.
Kant nghiên cứu về vật lý học, khoa học tự nhiên và địa chất, ông dạy môn
địa lý tự nhiên trong suốt bốn thập niên. Là một nhà khoa học tự nhiên, một
nhà triết học lỗi lạc, I. Kant không thể không chịu ảnh hƣởng của những phát
minh trong khoa học tự nhiên, nhƣ chính ông khẳng định: “Con đƣờng triết
học phải đi là con đƣờng của sự minh triết, đồng thời cũng là con đƣờng của
19


khoa học mà một khi đã khai phá sẽ không bao giờ để cho bị vùi lấp lại và
làm ta lạc hƣớng” [21, 1185]. “Sự tiến bộ của khoa học tự nhiên, kỹ thuật và y
học cũng nhƣ sự vén mây ảo thuật của thiên nhiên qua những thành tựu khoa
học cũng nhƣ sự vén mây ảo thuật của thiên nhiên qua những thành tựu khoa
học” [21, XXXII].

Khoa học tự nhiên có lịch sử phát triển lâu dài mà điểm khởi đầu là các
tri thức toán học, thiên văn học, vật lý học của các nhà thông thái Hy Lạp nhƣ
Talét, Pitago, Ơclit, Acsimet. Nhà thông thái đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ
đại đã phát minh ra các định lý hình học rất có giá trị và đƣợc Pitago tiếp tục
phát triển. Tƣ duy toán học Hy Lạp đạt tới đỉnh cao trong 13 cuốn “Cơ sở
hình học” của Ơclit đã tạo nên cả một thời đại phát triển rực rỡ của hình học
đó là những chuẩn mực tri thức có giá trị cho quá trình xây dựng và phát triển
khoa học toán học sau này. Acsimet là ngƣời đã áp dụng những tri thức toán
học vào hành động thực tiễn và thấy rằng toán học có vai trò vô cùng to lớn,
là chìa khóa vạn năng giải quyết đƣợc mọi vấn đề. Đó là những tƣ tƣởng đặt
nền móng cho toàn bộ hệ thống toán học cũng nhƣ khoa học tự nhiên phƣơng
Tây.
I. Kant trong quá trình nghiên cứu toán học đã rất lƣu ý đến tri thức
toán học nói trên. Ông nhận xét: “Từ rất xa xƣa mà lịch sử của lý tính con
ngƣời có thể vƣơn tới, toán học đã đi con đƣờng vững chắc của một khoa học
nơi dân tộc Hy Lạp đáng ngƣỡng mộ…Một ánh sáng đã lóe lên trong đầu óc
ngƣời đầu tiên (đó là Thales hay có thể một tên tuổi nào khác) khi ông chứng
minh tam giác cân. Đó là khi ông thấy rằng không thể dựa vào những gì ông
nhìn thấy trong hình tam giác, hay dò theo khái niệm đơn thuần về nó để từ
đó rút ra đặc điểm, trái lại phải tạo ra hình tam giác từ những gì tự ông nghĩ ra
một các tiên nghiệm dựa theo các khái niệm, và diễn tả nó (bằng sự cấu tạo –
Konstruktion); và thấy rằng để nhận thức chắc chắn về cái gì một cách tiên
20


nghiệm, ông không cần phải gán cho sự vật những thuộc tính nào khác ngoài
những gì đƣợc tất yếu rút ra từ cái mà bản thân ông đã đặt vào sự vật, phù hợp
với khái niệm của ông về nó” [21, 40 – 41]. Những nhận xét trên của I. Kant
đã cho chúng ta thấy rằng I. Kant tin vào những định lý, tiên đề toán học cũng
giống nhƣ các khái niệm, phạm trù triết học không phải đƣợc khái quát lên từ

những kết quả của sự nghiên cứu, khảo sát trong thực tế, từ kinh nghiệm cảm
tính, mà ngƣợc lại đó là những điều tiên nghiệm sẵn có ở trong giác tính của
con ngƣời. I. Kant đã trƣợt sang con đƣờng của chủ nghĩa duy tâm tiên
nghiệm, xa rời tính chất duy vật thể hiện trong toán học thời kỳ Hy Lạp.
Nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đời sống hiện thực, khoa học tự
nhiên đƣơng thời đã tiếp tục tiến những bƣớc vĩ đại, đã sản sinh ra những con
ngƣời khổng lồ, đáng kể là Copecnic, Niutơn, Đềcáctơ…Những phát minh
vạch thời đại của họ đã tạo nên những bƣớc ngoặt trong nhận thức của nhân
loại và có ảnh hƣởng quan trọng đến tƣ tƣởng triết học của I. Kant. Năm 1543
tại Ba Lan nhà thiên văn học Copecnic đã cho ra đời tác phẩm “Về sự vận
động của các thiên thể” với Học thuyết nhật tâm là hạt nhân, nó đã công kích
mạnh khuynh hƣớng duy tâm siêu hình, bảo thủ có phần ngây thơ của thuyết
địa tâm do Arisxtot khởi xƣớng và Plôtêmê phát triển ở thời cổ đại. Copecnic
cho rằng mặt trời đứng im làm trung tâm của vũ trụ, còn trái đất và một số vì
sao khác thì quay quanh mặt trời. Thuyết nhật tâm không chỉ tạo nên một
bƣớc ngoặt quan trọng không chỉ trong lĩnh vực thiên văn học, khoa học mà
còn trong lĩnh vực triết học. Và I. Kant đã thực hiện một cuộc cách mạng
Copecnic trong triết học, đặt nền móng sau này cho sự phát triển của triết học
cổ điển Đức nói riêng và triết học nói chung. Trong lịch sử triết học ngƣời ta
gọi đó là “cuộc cách mạng Copecnic về lề lối tƣ duy” [21, 41].
I. Kant cho rằng phƣơng pháp của Siêu hình học “đến này chỉ là sự mò
mẫm đơn thuần, và càng tệ hại hơn, chỉ là sự mò mẫm giữa những khái niệm
21


suông mà thôi” [21, 43]. Chính vì thế, tƣ duy triết học cần phải tiến hành một
cuộc đảo lộn nhƣ Copecnic từng làm. I. Kant viết: “Siêu hình học nhƣ là tri
thức lý luận, ít ra cũng nên thử mô phỏng điểm cốt yêu này. Lâu này ngƣời ta
giả định rằng mọi tri thức của ta phải hƣớng theo các đối tƣợng; thế nhƣng
mọi nỗ lực dùng các khái niệm để xử lý đối tƣợng một cách tiên nghiệm hầu

qua đó mở rộng nhận thức của ta đều đi đến thất bại cũng tại vì giả định này.
Vì thế hãy thử nghiệm để biết đâu chúng ta có thể tiến lên tốt hơn trong việc
giải quyết các vấn đề Siêu hình học bằng cách giả định rằng các đối tƣợng
phải hƣớng theo nhận thức của chúng ta; nhận thức ấy sẽ phù hợp tốt hơn với
khả thể đƣợc đòi hỏi của một nhận thức tiên nghiệm về đối tƣợng, tức loại
nhận thức xác định một cái gì đó về đối tƣợng trƣớc khi đối tƣợng đƣợc mang
lại cho ta. Đó chính là tình hình đã xảy ra với ý tƣởng đầu tiên của Copecnic”
[21, 44]. I .Kant thực sự đã thực hiện một cuộc đảo lộn Copecnic trong triết
học của mình, đặt nền móng cho sự chuyển hƣớng trong triết học cổ điển Đức
sau này.
Cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất mở đầu bằng Copecnic và kết
thúc vào giữa thế kỷ XVIII đã bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa
học tự nhiên. Cuộc cách mạng đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với triết
học đƣơng thời. Bƣớc đầu nó đã khắc phục những trở ngại của phƣơng pháp
tƣ duy siêu hình thống trị suốt mấy thế kỷ, qua đó tạo tiền đề cho sự hình
thành một phƣơng pháp nhận thức mới – phƣơng pháp biện chứng, với sự kết
hợp giữa phân tích và tổng hợp, giữa quy nạp và diễn dịch, giữa trực quan
cảm tính và tƣ duy trừu tƣợng nhằm nhận thức thế giới một cách sâu sắc hơn.
Sự ảnh hƣởng của khoa học tự nhiên tới triết học nói chung và sự lựa
chọn đi theo chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của I. Kant nói riêng đƣợc ông đề
cập tới trong “Lời tựa cho lần xuất bản lần thứ hai (1787)” cho cuốn “Phê
phán lý tính thuần túy”: “Khi Galilei cho những viên bi có trọng lƣợng do ông
22


tự lựa chọn trƣợt xuôi theo một mặt phẳng nghiêng, hay Torricelli để cho
không khí mang một trọng lƣợng mà ông tự nghĩ ra từ trƣớc ngang bằng với
trọng lƣợng của một cột nƣớc đã biết, hay muộn hơn, khi Stahl chuyển hóa
kim loại thành vôi và lại chuyển hóa thành kim loại bằng cách rút bớt đi và
cho thêm trở lại một cái gì đấy nơi chúng, thì cũng có một tia sáng lóe lên

trong đầu óc của mọi nhà nghiên cứu tự nhiên. Họ hiểu ra rằng lý tính chỉ
nhận ra những gì do bản thân nó tạo ra theo phác họa của nó…bắt buộc tự
nhiên phải trả lời cho các câu hỏi của nó, chứ không chỉ chịu để cho tự nhiên
dẫn dắt” [21, 41-42].
Gần một thế kỷ sau, tại Anh xuất hiện nhà toán cơ kiêm triết học
Niutơn, với sự ra đời của cuốn Nguyên tắc toán học có ý nghĩa không kém gì
cuốn Về sự vận động của các thiên thể của Copecnic. Những tri thức khoa
học tự nhiên của Niutơn đã tác động lớn đến quan điểm khoa học của I. Kant
cả về nội dung lẫn phƣơng pháp nghiên cứu. I. Kant cho rằng phƣơng pháp
của Niutơn trong khoa học tự nhiên đã biến sự tùy tiện của các giả thuyết vật
lý thành một phƣơng pháp nghiên cứu đáng tin cậy, là phƣơng pháp dựa vào
kinh nghiệm và hình học. Tƣ duy sáng tạo mạnh mẽ của Niutơn là động lực
mạnh mẽ tiếp sức cho I. Kant trong việc nghiên cứu triết học lý luận, mà tiêu
biểu là tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy.
I. Kant nhận thấy rằng triết học cũng giống nhƣ khoa học tự nhiên phải
dựa vào những kinh nghiệm cảm tính, quan sát thực nghiệm và cả lý tính
trong đó lý tính đóng vai trò quan trọng bậc nhất. Niutơn (Anh), Đềcáctơ
(Pháp), Lépnit (Đức) đã đƣa toán học vận dụng vào sản xuất và đời sống xã
hội, đối tƣợng của toán học vƣợt ra khỏi dạng tĩnh, vƣơn sang dạng động. Các
nhà khoa học đã chỉ ra một cách hệ thống những hình thức vẫn động của vật
chất vƣợt lên trên cách hiểu cơ học, lý học, hóa học, sinh học. Việc phát minh
ra điện và sử dụng điện năng đã góp phần tạo ra bƣớc nhảy vọt của phát triển
23


sản xuất từ công trƣờng thủ công tới công trƣờng cơ khí, đồng thời chứng
thực những phát triển đầu tiên của khoa học về sự bảo toàn và biến hóa năng
lƣợng và vật chất của vũ trụ. Lômônôxốp chứng minh bằng thực nghiệm luật
“Bảo toàn và chuyển hóa năng lƣợng”.
Nhà hóa học Pháp Lavoisier dựa vào những phát minh hóa học, bác bỏ

quan niệm về sự tồn tại của một vật chất đặc biệt: chất cháy không trọng
lƣợng, đặt nền móng cho sự cháy và ôxy hóa nói chung. Sau sự sụp đổ của
thuyết chất cháy, khoa học tự nhiên dù chƣa bác bỏ hết những “chất không
trọng lƣợng” khác nhƣ “chất nhiệt”, “chất ánh sáng”, “chất âm
thanh”…nhƣng đã khám phá ra rằng nhiệt, ánh sáng, âm thanh…đều là những
hình thức vận động khác nhau của vật chất. Với nguyên lý cấu tạo hóa học
khác nhau của vật thể do Đantơ khám phá ở Anh, ngƣời ta đã giải thích đƣợc
rằng những thay đổi về chất của vật thể đều phụ thuộc vào cấu tạo lƣợng của
nó. Sự phân tích quá trình hóa học đã làm thay đổi quan niệm máy móc coi
vận động chỉ là sự chuyển dịch đơn giản của sự vật. Gơtơ nêu lên nhiều quan
niệm tiên tiến về giải phẫu học so sánh và về địa chất học. Nghiên cứu vật hóa
thạch trong lòng đất, Cuvier chứng minh giới thực vật và động vật đều có sự
phát triển theo quá trình địa chất của trái đất. Tiến hóa luận của Lamác và
Wolff bác bỏ “dự thành luận” với quan niệm cho rằng mọi sinh vật sinh ra
đều có dự định sẵn, đều nhất thành, bất biến. Trong sinh học có dự báo về sự
phát triển trong sinh học - bào thai đã mang trong nó mọi dấu hiệu của một
sinh vật trƣởng thành, do đó không có gì mới xuất hiện mà không có nguồn
gốc của nó.
Vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của triết học một lần
nữa đƣợc Ph.Ănghen đánh giá trong tác phẩm “Lútvich Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức”: “Trong suốt thời kỳ lâu dài từ Đềcáctơ đến
Hêghen, Từ Hốpxơ đến Phoiơbắc, cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên hoàn
24


toàn không phải là sức mạnh của tƣ duy thuần túy nhƣ họ tƣởng tƣợng. Trái
lại cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ, ngày
càng nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của công
nghệ”[3, 407].
Nhƣ vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên đạt đƣợc đã đem đến

cho I. Kant quan niệm mới về sức mạnh và khả năng trí tuệ của con ngƣời
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Có thể nói, những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội và khoa học tự nhiên là những động lực không thể thiếu, góp
phần hình thành triết học I. Kant. Chính những điều kiện tiền đề đó đã tạo nên
diện mạo triết học cổ điển Đức nói chung và triết học I. Kant nói riêng, đặc
biệt là quan niệm về “Vật tự thân” độc đáo và riêng biệt trong tác phẩm Phê
phán lý tính thuần túy.
1.1.3. Những tiền đề lý luận
Nằm trong lòng của thời Cận đại nƣớc Đức với những điều kiện kinh tế
- xã hội kém phát triển nhƣng “triết học I. Kant đã xuất hiện với ánh sáng tân
kỳ của một tƣ tƣởng “tân tiến” [21, L – Dẫn luận, Thái Kim Lan]. Lịch sử tƣ
tƣởng chứng minh rằng, các học thuyết tƣ tƣởng tiến bộ có thể nảy sinh trong
lòng một nƣớc có trình độ kinh tế lạc hậu hơn, nếu nó biết tiếp thu thành tựu
mọi mặt của các nƣớc tiến bộ khác. Ở Pháp vào thế kỷ XVIII, nền kinh tế
kém phát triển hơn Anh, nhƣng lại hình thành chủ nghĩa duy vật F.H.
Hônbách, C.A. Henvitiuyt, R. Điđrô…do dựa trên những thành tựu của chủ
nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII và chủ nghĩa duy vật Hà Lan (Xpinoza). Nƣớc
Đức cũng nằm trong sự phát triển tƣ tƣởng vƣợt thời đại ấy. Kinh nghiệm lịch
sử của cuộc cách mạng Anh thế kỷ XVII, cũng nhƣ của cách mạng Pháp thế
kỷ XVIII đã có ảnh hƣởng trực tiếp đến sự phát triển của nƣớc Đức cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

25


×