Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Hiện tượng chuyển mã tiếng anh trong giao tiếp tiếng việt (trường hợp sinh viên chuyên ngữ ở một số trường đại học tại hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 193 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

HIỆN TƢỢNG CHUYỂN MÃ TIẾNG ANH
TRONGGIAO TIẾP TIẾNG VIỆT
(TRƢỜNG HỢP SINH VIÊN CHUYÊN NGỮ
Ở MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

HIỆN TƢỢNG CHUYỂN MÃ TIẾNG ANH
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT
(TRƢỜNG HỢP SINH VIÊN CHUYÊN NGỮ
Ở MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI)


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62 22 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRỊNH CẨM LAN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả đƣợc nêu trong luận án là trung thực, chƣa từng đƣợc ai cơng
bố ở đâu và trong bất kì cơng trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài ...............................................................................................6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................8
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................................8
5. Cái mới của luận án ........................................................................................11
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án .......................................................12
7. Kết cấu luận án ...............................................................................................13

CHƢƠNG 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT VỀ HIỆN TƢỢNG CHUYỂN MÃ ......................................................14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hiện tƣợng chuyển mã ..........................14
1.1.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển mã trên thế giới .................... 14
1.1.2. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển mã trên ngữ liệu tiếng Việt
và ở Việt Nam ...................................................................................................................... 21
1.2. Cơ sở lí thuyết ...............................................................................................27
1.2.1. Mã và sự lựa chọn mã trong giao tiếp ............................................................. 27
1.2.1.1. Khái niệm mã ....................................................................................27
1.2.1.2. Sự lựa chọn mã trong giao tiếp .........................................................29
1.2.1.3. Chuyển mã và các khái niệm có liên quan ........................................31
1.2.2. Song ngữ, đa ngữ, người song ngữ, người đa ngữ ..................................... 37
1.2.3. Mơ hình khung ngơn ngữ ma trận (the matrix language frame - MLF)
.................................................................................................................................................. 40

1.2.3.1. Các khái niệm cơ bản của khung lí thuyết ........................................40
1.2.3.2. Nội dung lí thuyết ngôn ngữ ma trận ................................................43
1.2.3.3. Sự tương tác giữa ngôn ngữ ma trận và ngôn ngữ nhúng ................46
1.3. Tiểu kết ..........................................................................................................47
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM HIỆN TƢỢNG CHUYỂN MÃ TIẾNG ANH
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT .....................................................................49

1


2.1. Khái quát một số đặc điểm ngữ pháp của tiếng Việt với tƣ cách là ngôn
ngữ ma trận và tiếng Anh với tƣ cách là ngôn ngữ nhúng ..............................49
2.2. Kết quả khảo sát hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng
Việt theo mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận ....................................................51
2.2.1. Các phát ngôn chỉ được tạo bởi ngôn ngữ nhúng ...................................... 52

2.2.1.1. Phân loại theo cấu trúc .....................................................................54
2.2.1.2. Phân loại theo mục đích nói/ ngơn trung..........................................57
2.2.2. Các phát ngôn hỗn hợp được tạo bởi cả ngôn ngữ ma trận và ngôn
ngữ nhúng ............................................................................................................................ 64
2.2.2.1. Các cù lao hỗn hợp ...........................................................................64
2.2.2.2.Các cù lao ngôn ngữ nhúng ...............................................................80
2.2.2.3. Sự biến đổi ngữ âm của ngôn ngữ nhúng .........................................86
2.2.2.4. Đặc điểm cấu trúc của các thành tố ngôn ngữ nhúng ......................93
2.2.2.5. Đặc điểm từ loại của các thành tố/ hình vị nội dung của ngôn ngữ
nhúng ...................................................................................................................................... 98
2.3. Tiểu kết ..........................................................................................................99
CHƢƠNG 3. ĐỘNG CƠ VÀ THÁI ĐỘ NGÔN NGỮ ĐỐI VỚI HIỆN TƢỢNG
CHUYỂN MÃ TIẾNG ANH TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT .................102
3.1. Động cơ chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt .......................102
3.1.1. Mơ hình đánh dấu .............................................................................................. 102
3.1.2. Cơ sở của nghiên cứu và cách thức thực hiện nghiên cứu ................... 103
3.1.3. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................ 106
3.1.3.1. Chuyển mã khơng đánh dấu do thói quen của người nói ...............107
3.1.3.2. Chuyển mã có đánh dấu và các động cơ chuyển mã ......................110
3.2. Thái độ ngôn ngữ đối với hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao
tiếp tiếng Việt .....................................................................................................125
3.2.1. Vài nét về thái độ ngôn ngữ ............................................................................. 125
3.2.2. Vài nét về tư liệu và các đặc trưng của mẫu .............................................. 127
3.2.2.1. Tư liệu .............................................................................................127
2


3.2.2.2. Phương pháp ...................................................................................128
3.2.2.3. Các đặc trưng của mẫu ...................................................................128
3.2.3. Kết quả phân tích và thảo luận ........................................................................ 132

3.2.3.1. Thái độ của sinh viên với tư cách là chủ thể chuyển mã ................132
3.2.3.2. Thái độ của sinh viên với tư cách người tiếp nhận hiện tượng chuyển
mã .................................................................................................................134
3.2.3.3. Ảnh hưởng của các đặc trưng xã hội đối với tần suất chuyển mã và
thái độ đối với hiện tượng chuyển mã ..........................................................136
3.3. Tiểu kết ........................................................................................................140
KẾT LUẬN ............................................................................................................143
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................148
PHỤ LỤC

3


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân loại các phát ngôn xét theo thành phần ngôn ngữ đƣợc sử dụng…51
Bảng 2.2. Phân loại câu/phát ngôn chỉ đƣợc tạo bởi ngôn ngữ nhúng…….......…..53
Bảng 2.3. Phân loại cù lao ngôn ngữ nhúng…………………...........................…..81
Bảng 2.4 . Sơ đồ phân loại các loại chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt
theo mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận……………......................................……..85
Bảng 2.5. Đặc điểm cấu trúc của các thành tố ngôn ngữ nhúng…......................……93
Bảng 3.1. Chuyển mã và động cơ tƣơng ứng……………………................………106
Bảng 3.2. Các đặc trƣng của sinh viên chuyên ngữ…………………………….….129
Bảng 3.3. Các đặc trƣng của sinh viên không chuyên ngữ……………………...…130
Bảng 3.4. Sở thích và tần suất chuyển mã của sinh viên chuyên ngữ………….…..132
Bảng 3.5. Sở thích và tần suất chuyển mã của sinh viên không chuyên ngữ…....…133
Bảng 3.6. Giá trị trung bình của các thang đo đối với sinh viên chuyên ngữ…....…134
Bảng3.7.Giá trị trung bình của các thang đo đối với sinh viên không chuyên
ngữ…......................................................................................................................…135
Bảng 3.8. Tƣơng quan giữa các đặc điểm xã hội với tần suất chuyển mã của sinh viên
chuyên ngữ…......................................................................................................……137

Bảng 3.9. Tƣơng quan giữa các đặc điểm xã hội với tần suất chuyển mã của sinh viên
không chuyên ngữ……..........................................................................................…139

4


DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 1: Phân loại các phát ngôn theo thành phần ngôn ngữ được sử dụng........52
Biểu đồ 2: Phân loại câu (chỉ được tạo bởi ngôn ngữ nhúng) theo cấu trúc...........53
Biểu đồ 3: Phân loại phát ngôn (chỉ được tạo bởi ngơn ngữ nhúng) theo mục đích
nói/ ngơn trung..........................................................................................................54
Biểu đồ 4: Đặc điểm cấu trúc của các thành tố ngôn ngữ nhúng.............................94

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Là một trong những ngôn ngữ đƣợc sử dụng phổ biến nhất trên thế giới với số
ngƣời nói khoảng 1,5-2,0 tỉ, trong đó số ngƣời nói tiếng Anh nhƣ là ngơn ngữ thứ
nhất, ngôn ngữ thứ hai và ngoại ngữ chiếm không dƣới 1/3 dân số thế giới (Hoàng
Văn Vân, 2016 [50]), tiếng Anh hiện diện nhƣ một phƣơng tiện kết nối giữa các
cộng đồng, các quốc gia, dân tộc. Với vai trò kết nối của mình, tiếng Anh đƣợc coi
là ngơn ngữ chính thức trong các sự kiện chính trị-kinh tế-văn hố-xã hội trên toàn
cầu, là phƣơng tiện giao tiếp của các công ty đa quốc gia; là ngôn ngữ giao tiếp
thông dụng trong ngành hàng khơng, truyền hình, báo chí… Sự phổ biến của tiếng
Anh trên toàn cầu đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự tiếp xúc giữa tiếng Anh với
rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Một trong những biểu hiện sinh động, dễ thấy nhất
của sự tiếp xúc này là hiện tƣợng dùng xen tiếng Anh với một ngơn ngữ nào đó
(thƣờng là tiếng mẹ đẻ của ngƣời nói) mà các nhà ngơn ngữ học vẫn thƣờng gọi là

trộn mã hay chuyển mã. Hiện tƣợng này ngày càng trở nên phổ biến ở khắp nơi trên
thế giới và trở thành một hiện tƣợng ngôn ngữ học xã hội đáng chú ý trong kỷ
ngun tồn cầu hố hiện nay.Các nhà ngôn ngữ học coi đây là một trong những
hiện tƣợng trung tâm của Ngôn ngữ học xã hội thế giới những năm cuối thế kỷ XX,
đầu thế kỷ XXI.
1.2. Trong xu thế nói trên, học tập, sử dụng tiếng Anh đang trở thành trào lƣu xã
hội rộng khắp ở nhiều nƣớc trên thế giới trong cố gắng hịa nhập và thích nghi với
xu thế tồn cầu hóa. Việt Nam chúng ta cũng đang vận động một cách tích cực để
hồ vào trào lƣu chung đó. Mở cửa và hội nhập quốc tế tạo cho Việt Nam chúng ta
những thuận lợi cơ bản để phát triển nhƣng cũng đặt chúng ta trƣớcnhững thách
thức rất lớn khi yêu cầu tồn xã hội phải thay đổi và nâng cao trình độ nhận thức về
mọi mặt. Trong những kiến thức, kỹ năng cần phải có để hình thành và phát triển
vốn hiểu biết cho mọi ngƣời, ngoại ngữ-tiếng Anh lại có một vị trí hết sức quan
trọng. Với vai trị nhƣ vậy, ở Việt Nam, tiếng Anh đã trở thành một trong những
môn học bắt buộc từ bậc tiểu học trong khung chƣơng trình giảng dạy theo quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kết quả là, tỉ trọng dân số biết tiếng Anh ở Việt Nam
ngày một tăng dần theo thời gian. Cùng với chính sách giáo dục ngơn ngữ, sự hỗ trợ
6


của các phƣơng tiện học tập và của internet, sự giao lƣu tiếp xúc với ngƣời bản ngữ
đã giúp một bộ phận đáng kể ngƣời Việt có tri thức tiến nhanh trên con đƣờng làm
chủ phƣơng tiện giao tiếp toàn cầu này.
1.3. Trong giao tiếp tiếng Việt giữa một bộ phận không nhỏ ngƣời Việt Nam biết
tiếng Anh hiện nay, đặc biệt là tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, hiện tƣợng tiếp
xúc giữa tiếng Việt với tiếng Anh mà một trong những biểu hiện của nó là trộn mã/
chuyển mã ngôn ngữ Việt-Anh đang ngày càng trở nên phổ biến và gây nên những
ảnh hƣởng xã hội đáng kể. Biểu hiện của sự tiếp xúc ấy ngày càng gia tăng theo thời
gian, nhất là ở các khu vực đô thị và trong các môi trƣờng làm việc hiện đại, nơi mà
chủ nhân của nó là những ngƣời có tri thức, thơng thạo phƣơng tiện giao tiếp tồn

cầu. Điều này đang thu hút sự quan tâm chú ý của xã hội, của giới nghiên cứunói
chung, của các nhà ngơn ngữ học nói riêng.
Đó là những lí do cơ bản khiến chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện tƣợng chuyển
mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt (Trƣờng hợp sinh viên chuyên ngữ ở
một số trƣờng đại học tại Hà Nội)” với mong muốn tìm hiểu các mặt biểu hiện
của hiện tƣợng này trong ngôn ngữ giao tiếp của một tầng lớp ngƣời Việt đƣợc cho
là có thể giao tiếp ở một vài phạm vi nhất định bằng tiếng Anh. Chúng tôi lựa chọn
hƣớng tiếp cận của ngôn ngữ học xã hội để xem xét hiện tƣợng này xuất phát từ
việc xem đây là một hiện tƣợng ngôn ngữ xã hội đặc thù ở nhiều ngơn ngữ trên thế
giới nói chung và trong tiếng Việt ở Việt Nam nói riêng thời hiện đại và hội nhập.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.

Mục đích nghiên cứu

Luận án đặt mục đích là ứng dụng một số cơ sở lí thuyết và phƣơng pháp nghiên
cứu ngôn ngữ học xã hội để nghiên cứu và tìm ra những đặc điểm ngơn ngữ mang
tính bản chất của hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt cũng
nhƣ những động cơ và thái độ ngôn ngữ chi phối hành vi chuyển mã ấy của ngƣời
Việt song ngữ khơng hồn tồn1.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

1

Khái niệm người song ngữ, người song ngữ khơng hồn tồn sẽ đƣợc đề cập chi tiết trong
những vấn đề thuộc cơ sở lí thuyết của luận án.

7



Để đạt đƣợc những mục đích trên đây, những nhiệm vụ cụ thể mà luận án phải
thực hiện nhƣ sau:
- Xây dựng cơ sở lí luận cần thiết cho việc nghiên cứu (bao gồm cả việc đọc, tìm
hiểu và tổng hợp tình hình nghiên cứu về hiện tƣợng này ở các cộng đồng ngôn ngữ
khác).
- Tập hợp các hội thoại tự nhiên có chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng
Việt của sinh viên chuyên ngữ ở một số trƣờng đại học tại Hà Nội (cụ thể là Trƣờng
Đại học Hà Nội và Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng).
- Thống kê, phân loại, mô tả đặc điểm và những cơ chế ngữ pháp bên trong của
hiện tƣợng tiếng Anh đƣợc nhúng vào tiếng Việt dựa trên cơ sở mơ hình lí thuyết
mà luận án lựa chọn là mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận của Myers-Scotton.
- Điều tra, phân tích những động cơ chuyển mã của những ngƣời thực hiện hành
vi chuyển mã và thái độ ngôn ngữ đối với hiện tƣợng chuyển mã từ cả hai điểm
nhìn: điểm nhìn của chủ thể chuyển mã và điểm nhìn của đối tƣợng tiếp nhận hiện
tƣợng chuyển mã.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận án của chúng tôi tập trung khảo sát và phân tích hiện tƣợng chuyển mã
tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt trên tƣ liệu là các hội thoại tự nhiên của sinh
viên chuyên ngữ ở một số trƣờng đại học tại Hà Nội. Theo quan điểm của chúng tôi,
sinh viên chuyên ngữ không chỉ là những sinh viên chuyên ngành tiếng Anh mà
sinh viên thuộc các chuyên ngành khác có các học phần trong chƣơng trình của họ
đƣợc dạy bằng tiếng Anh. Theo đó, các sinh viên năm cuối hệ chất lƣợng cao ngành
Thƣơng mại quốc tế và Kinh tế đối ngoại của Đại học Ngoại thƣơng (mà luận án lấy
làm đối tƣợng nghiên cứu) cũng đƣợc luận án xem là những sinh viên chuyên ngữ.
Số hội thoại tự nhiên đƣợc đƣa vào khảo sát là 115 hội thoại. Các chủ thể/ nhân vật
hội thoại đƣợc xác định là những ngƣời song ngữ khơng hồn tồn (theo quan điểm
của Nguyễn Văn Khang, 2012 [31]).
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1.

Tư liệu nghiên cứu

Tƣ liệu đƣợc chúng tôi thu thập phục vụ nghiên cứu này bao gồm các nguồn sau
đây:
8


(1) Tƣ liệu hội thoại tự nhiên:
Đó là các cuộc giao tiếp tự nhiên của sinh viên năm cuối chuyên ngành ngôn
ngữ Anh và sinh viên năm cuối hệ chất lƣợng cao ngành Thƣơng mại quốc tế và
Kinh tế đối ngoại tại hai trƣờng đại học trên địa bàn Hà Nội là Đại học Hà Nội và
Đại học Ngoại thƣơng. Các đối tƣợng nghiên cứu này có khả năng sử dụng tiếng
Anh hoàn toàn trong một số cảnh huống giao tiếp nhất định.Bằng chứng là một tỉ lệ
lớn các môn học mà họ phải hoàn thành ở trƣờng đƣợc dạy hoàn toàn bằng tiếng
Anh. Theo quan điểm nghiên cứu của chúng tôi, họ thực sự là những ngƣời song
ngữ không hoàn toàn.
Các tƣ liệu nghiên cứu này đều đƣợc chúng tôi thu thập trong khoảng thời gian
từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2015, đó là những hội thoại hàng ngày vào giờ nghỉ
giải lao trên lớp, ở ký túc xá, ở căng tin trƣờng hay các quán cà phê sinh viên và có
cả các hội thoại đƣợc ghi trong các khu nhà trọ sinh viên. Trong suốt thời gian ghi
âm, những ngƣời tham gia hầu nhƣ không biết rằng các cuộc nói chuyện của họ
đƣợc ghi lại. Nhiều khi, do hồn cảnh giao tiếp khơng cho phép thực hiện việc ghi
âm (Ví dụ: ở những nơi và những thời điểm quá ồn ào nhƣ căng tin hay quán cà phê
sinh viên, lớp học trong giờ giải lao…), chúng tôi buộc phải quan sát từ một khoảng
cách nhất định và ghi lại diễn biến cuộc hội thoại theo quan sát của mình (chẳng
hạn, một số hội thoại đƣợc ghi chép ở quán cà phê sinh viên hay ở lớp học trong giờ
giải lao, ngƣời điều tra ngồi ở bàn bên cạnh bàn của các đối tƣợng đƣợc nghiên cứu
và ghi lại vào sổ tay). Với cách làm việc này, chúng tơi hy vọng có thể ghi lại các

cuộc trị chuyện trong những bối cảnh tự nhiên của chúng.
Trong quá trình văn bản hóa tƣ liệu, chúng tơi cố gắng ghi lại trung thực những
gì mà các chủ thể chuyển mã đã sử dụng. Những từ nào, âm nào mà các em dùng
đúng nhƣ ngƣời bản ngữ thì chúng tơi giữ nguyên trong văn bản, những từ nào các
em chƣa dùng đúng nhƣ ngƣời bản ngữ thì chúng tơi dùng hình thức phiên âm tiếng
Việt để ghi lại.
(2) Tƣ liệu điều tra bằng bảng hỏi, bao gồm:
- Bảng hỏi điều tra thái độ ngôn ngữ và động cơ chuyển mã đối với 200 sinh
viên chuyên ngữ (sinh viên năm cuối Khoa Quản trị kinh doanh-học tất cả các môn
9


bằng tiếng Anh của Đại học Hà Nội) với tƣ cách vừa là chủ thể chuyển mã vừa là
đối tƣợng tiếp nhận hành vi chuyển mã.
- Bảng hỏi điều tra thái độ ngôn ngữ đối với 250 sinh viên không chuyên ngữ để
so sánh dựa trên giả định rằng sinh viên chun ngữ sẽ có thái độ và cách nhìn nhận
về hành vi chuyển mã khác với sinh viên không chuyên ngữ. Số lƣợng sinh viên trả
lời bảng hỏi là: 250 (96 nam và 154 nữ) sinh viên năm cuối của hai khoa Tài chính
và Ngân hàng của Học viện Ngân hàng.
Ở cả hai diện điều tra, tổng số phiếu phát ra là 450 phiếu, số phiếu thu về là 450
phiếu, số phiếu hợp lệ là 450 phiếu, số phiếu khơng hợp lệ là 0 phiếu. Con số này có
thể gây ngạc nhiên song do việc trả lời bằng bảng hỏi thƣờng diễn ra trong giờ học
do chính chúng tơi hoặc một số đồng nghiệp của chúng tôi trực tiếp hƣớng dẫn trả
lời phiếu hỏi. Vì thế, kết quả thu đƣợc là số phiếu phát ra thƣờng trùng với số phiếu
thu về và tất cả đều hợp lệ.
Hai nguồn tƣ liệu này cũng giúp chúng tôi thu thập cả những thông tin liên quan
đến nhân thân của ngƣời trả lời. Đây là những thông tin quan trọng đối với nghiên
cứu bởi chúng đƣợc giả định là những đặc điểm xã hội có chi phối ở một mức độ
nhất định đến thái độ và động cơ chuyển mã.
(3) Tƣ liệu phỏng vấn sâu:

Các cuộc phỏng vấn sâu mà chúng tôi thực hiện là dạng phỏng vấn bán cấu trúc.
Đó là những trò chuyện, chia sẻ một cách thoải mái, tự nhiên giữa ngƣời phỏng vấn
và ngƣời đƣợc phỏng vấn nhƣng vẫn trên cơ sở một số câu hỏi đƣợc định sẵn nhằm
phục vụ mục tiêu phỏng vấn. Trong q trình trị chuyện, tùy từng đối tƣợng, tuỳ
diễn biến mỗi cuộc trò chuyện mà ngƣời phỏng vấn có thể hỏi thêm một vài câu hỏi
khác so với thiết kế ban đầu. Số lƣợng ngƣời đƣợc phỏng vấn là 10 bạn sinh viên.
Các cuộc phỏng vấn này đƣợc thực hiện sau khi đã thu thập xong tƣ liệu hội thoại,
các bảng hỏi điều tra về động cơ chuyển mã và đã qua một số thao tác phân tích
bƣớc đầu. Trên cơ sở những phân tích bƣớc đầu đó, chúng tơi lựa chọn ra một số
hội thoại tiêu biểu, xác định những chủ nhân của các cuộc hội thoại và tìm cách tiếp
xúc, trị chuyện với họ để tìm kiếm thêm thơng tin liên quan đến quan điểm về
chuyển mã, diễn biến tâm lí của họ trong hội thoại khi quyết định lựa chọn mã tiếng
Anh trong một số hoàn cảnh giao tiếp thay vì tiếng Việt. Kết quả phỏng vấn sâu sẽ
10


đƣợc sử dụng nhƣ những tƣ liệu bổ sung trong q trình phân tích các động cơ
chuyển mã.
4.2.

Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây:
- Phƣơng pháp điều tra điền dã ngôn ngữ học đƣợc sử dụng để ghi thu ngữ
liệu và điều tra động cơ chuyển mã, thái độ ngôn ngữ đối với hiện tƣợng chuyển
mã.
- Với tƣ liệu là các đoạn hội thoại đã đƣợc văn bản hoá, phƣơng pháp chủ
yếu đƣợc sử dụng là phân tích ngữ pháp nhằm phân tích các thành tố ngữ pháp, tìm
ra những cơ chế ngữ pháp bên trong các kết hợp giữa hai ngôn ngữ và tìm ra sự
tƣơng tác lẫn nhau giữa ngơn ngữ ma trận (tiếng Việt) và ngôn ngữ nhúng (tiếng

Anh) trong các ngơn phẩm có chuyển mã.
- Phƣơng pháp phân tích định lƣợng (với phần mềm thống kê cho Khoa học
xã hội SPSS) đƣợc sử dụng để thống kê tần số, tỉ lệ các câu trả lời trong các bảng
hỏi, phân tích tƣơng quan (tƣơng quan nhị biến) giữa động cơ chuyển mã, thái độ
ngôn ngữ với các đặc điểm xã hội của ngƣời nói để tìm ra những ảnh hƣởng của
những đặc điểm xã hội liên quan đến ngƣời nói đối với những động cơ, thái độ và
hành vi chuyển mã của họ.
- Bên cạnh các phƣơng pháp chủ yếu trên, luận án còn sử dụng một số thủ
pháp nhƣ sơ đồ hố, mơ hình hố, so sánh tƣơng phản khi cần thiết.
5. Cái mới của luận án
Có thể nói đây là một trong những cơng trình nghiên cứu hiện tƣợng chuyển
mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt trên ngữ liệu tiếng Việt và ở Việt Nam một
cách có hệ thống từ hƣớng tiếp cận ngôn ngữ học xã hội. Chọn các cơ sở lí thuyết
và phƣơng pháp của ngôn ngữ học xã hội, luận án cố gắng tiếp cận, khảo sát và khái
quát những đặc điểm ngôn ngữ của hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp
tiếng Việt (chủ yếu từ bình diện ngữ pháp), những động cơ và thái độ ngơn ngữ với
hy vọng có thể tìm ra bản chất và những cơ chế ngơn ngữ, xã hội, tâm lí tác động
đến hiện tƣợng này và làm rõ những đặc trƣng của hiện tƣợng này trong giao tiếp
tiếng Việt từ việc so sánh với hiện tƣợng tƣơng tự ở các cộng đồng ngôn ngữ khác.
11


6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Theo những hiểu biết của chúng tơi thì có thể nói đây là một trong những cơng
trình nghiên cứu theo hƣớng tiếp cận của ngôn ngữ học xã hội về hiện tƣợng chuyển
mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt một cách có hệ thống ở Việt Nam. Trên thế
giới, hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp bằng các ngôn ngữ khác đã
đƣợc nghiên cứu ở rất nhiều nƣớc nhƣ Malaysia, Trung Quốc, Hungary, Thái Lan...
cùng với quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và quốc tế hóa. Với tƣ cách là một
trong những cơng trình nghiên cứu có hệ thốngtrên ngữ liệu tiếng Việt và ở Việt

Nam2, luận án này hy vọng có thể mang lại một số ý nghĩa về mặt lí luận và thực
tiễn nhƣ sau:
 Thứ nhất, luận án nhìn nhận chuyển mã là một hành vi có tính hai mặt, mặt
tích cực và mặt hạn chế: một mặt, nó là cơng cụ giao tiếp hiệu quả, kích thích
và chủ động hóa việc học tập trau dồi tiếng Anh của ngƣời Việt nhƣng mặt
khác, việc chuyển mã dày đặc, tùy tiện có thể làm mất đi "sự trong sáng của
tiếng Việt" và "bản sắc ngơn ngữ" của dân tộc. Do đó, kết quả nghiên cứu
của luận án, một mặt sẽ góp phần khẳng định ƣu thế của tiếng Việt (với vai
trị là ngơn ngữ ma trận) so với tiếng Anh (ngôn ngữ nhúng) trong hiện
tƣợng chuyển mã Anh-Việt nói riêng và trong giao tiếp tiếng Việt nói
chungở thời kỳ hội nhập, phát triển và hiện đại hóa.Tuy nhiên, từ góc nhìn
ngƣợc lại, kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp chỉ ra phần nào những
ảnh hƣởng tiêu cực của chuyển mã đối với việc giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt, định hình những xu hƣớng, những phƣơng thức chuyển mã hợp
lý, có thể chấp nhận đƣợc và hạn chế sự chuyển mã tuỳ tiện, làm mất đi bản
sắc và vẻ đẹp của tiếng Việt.
 Thứ hai, luận án cũng góp phần chứng minh tính đúng đắn, phổ quátvà hiệu
quả của mơ hìnhmơ hình Khung ngơn ngữ ma trận của Myers-Scotton (1993)
trong việc lí giải những cơ chế ngơn ngữ bên trong hiện tƣợng chuyển mã, đó
là ngơn ngữ ma trận là ngôn ngữ chiếm ƣu thế, ngôn ngữ nhúng chỉ đóng vai
2

Thực tế đã có những cơng trình nghiên cứu hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao
trình này sẽ đƣợc chúng tôi nhắc đến trong phần tổng quan các nghiên cứu hiện tƣợng
chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt (Chƣơng 1).

12


trị thứ yếu trong các hội thoại có chuyển mã; ngơn ngữ ma trận có quyền

kiểm sốt, chi phối tồn diện ngơn ngữ nhúng.
 Ngồi những ý nghĩa về mặt lí luận, nghiên cứu này cịn góp một phần nhỏ
giải đáp một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra hiện nay, đó là: vai trị, chức
năng, mục đích, cách thức chuyển mã cũng nhƣ các chủ đề của chuyển mã
trong giao tiếp của giới trẻ (đặc biệt là tầng lớp sinh viên chuyên ngữ) hiện
nay. Đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể đƣợc ứng dụng trong định hƣớng
học tập và giảng dạy tiếng Anh ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nguồn tƣ liệu trích dẫn
và Phụ lục, luận án có cấu trúc 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và Cơ sở lí thuyết
Chƣơng 2. Đặc điểm hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt
Chƣơng 3. Động cơ và thái độ ngôn ngữ đối với hiện tƣợng chuyển mã tiếng
Anh trong giao tiếp tiếng Việt

13


CHƢƠNG 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT VỀ HIỆN TƢỢNG CHUYỂN MÃ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hiện tƣợng chuyển mã
1.1.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển mã trên thế giới
Có thể nói lịch sử nghiên cứu về hiện tƣợng chuyển mã trong ngôn ngữ học
đƣợc bắt đầu bằng những mô tả của nhà nhân chủng học ngƣời Mỹ là Barker năm
1947 về vấn đề lựa chọn ngôn ngữ và hiện tƣợng chuyển mã xuất hiện trong cộng
đồng ngƣời Mỹ gốc Mexico sinh sống ở Tucson, thuộc bang Arizona (Nilep, C.,
2006 [87]). Ngoài các phân tích về các mối quan hệ kinh tế-xã hội hay vị trí địa lí,
trong nghiên cứu của mình, Barker còn cố gắng trả lời các câu hỏi, chẳng hạn:
Những ngƣời song ngữ đã lựa chọn ngôn ngữ và chuyển mã nhƣ thế nào? Có phải
trong trƣờng hợp này thì họ sử dụng tiếng mẹ đẻ, trƣờng hợp khác thì lại sử dụng

tiếng Anh hay khơng? Nhóm ngƣời này sẽ sử dụng hai ngôn ngữ luân phiên trong
những cảnh huống nhất định mà khơng có ngun nhân rõ ràng hay có một nguyên
nhân cụ thể nào đó chi phối?... Trong quá trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy tiếng Tây
Ban Nha (tiếng mẹ đẻ của ngƣời Mexico) thƣờng đƣợc sử dụng trong các cuộc trò
chuyện giữa những ngƣời bạn thân hoặc giữa các thành viên trong gia đình, cịn
trong các cuộc đối thoại mang tính trang trọng với những ngƣời Mỹ gốc Anh thì họ
thƣờng sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ để giao tiếp (mặc dù cả hai bên hồn tồn có
thể tƣơng tác đƣợc bằng tiếng Tây Ban Nha). Sau khi tiến hành phân tích, Barker
nhận định sự lựa chọn ngôn ngữ là không cố định trong các tình huống khơng rõ
ràng, các yếu tố của cả hai ngơn ngữ có thể cùng xuất hiện. Thêm vào đó, có một
hiện tƣợng đặc thù trong giới trẻ, họ là những ngƣời có xu hƣớng sử dụng nhiều
ngơn ngữ (đa ngôn ngữ-multiple languages) trong cùng một tƣơng tác hơn là nhóm
ngƣời trung niên và chính điều này có lẽ đã cấu thành một cộng đồng ngƣời ở
Tucson nhƣ thế (Nilep, C., 2006 [87]).
Năm 1953,Weinreich đã cho ra đời cuốn sách mang tên “Language in
Contact”. Có thể nói, đây là cơng trình nghiên cứu quan trọng và nền tảng về hiện
tƣợng chuyển mã trong ngơn ngữ học. Trong q trình nghiên cứu, ngồi việc mơ tả
các hoạt động ngơn ngữ diễn ra trong nhiều cộng đồng ngƣời song ngữ, tác giả còn
14


dành sự quan tâm đến việc mô tả những ảnh hƣởng của q trình tiếp xúc ngơn ngữ
lên các ngơn ngữ.Từ đó, ơng cũng đi đến kết luận cho rằng những mô tả của Barker
(1947) về cộng động ngƣời song ngữ ở Tucson là chƣa thật đầy đủ. Bởi lẽ, theo
ơng, nếu chỉ căn cứ vào bốn tình huống phát ngôn: thân mật, thông thƣờng (suồng
sã), trang trọng (lịch sự) và diễn ngơn liên nhóm (inter-group discourse) để mơ tả tất
cả những tổ chức cấu trúc tiềm tàng của các phát ngơn song ngữ (all potential
organizations of bilingual speech) thì chƣa đầy đủ. Theo ơng, các nhà nghiên cứu
cần nhìn nhận vấn đề này dƣới góc độ của cấu trúc luận (structuralism)-tức là cần
mơ tả, quan sát và phân tích thói quen sử dụng các diễn ngơn song ngữ kết hợp với

q trình thụ đắc ngơn ngữ (language acquisition process), q trình xã hội hóa
ngơn ngữ (language socialization process) đang diễn ra trong các cộng đồng song
ngữ (bilingual communities) (Nilep, C., 2006 [87]).
Lấy cảm hứng từ cuốn sách “Language in Contact”của Weinreich (1953),
Hans Vogt đã công bố một bài báo nghiên cứu về hiện tƣợng chuyển mã song ngữ
năm 1954. Tác giả cho rằng chuyển mã, bản thân nó, có lẽ không phải là một hiện
tƣợng ngôn ngữ học mà là một hiện tƣợng tâm lí học, và nguyên nhân của hiện
tƣợng này rõ ràng là đến từ bên ngoài ngôn ngữ. Từ lập luận trên, tác giả nhận định
chuyển mã không những là một hiện tƣợng ngôn ngữ tự nhiên mà cịn là hiện tƣợng
ngơn ngữ- xã hội phổ biến (Nilep, C., 2006 [87]).
Tiếp theo những nghiên cứu khởi đầu đó là hàng loạt các nghiên cứu khác về
hiện tƣợng chuyển mã. Theo những gì mà chúng tơi tiếp cận đƣợc, có ba lĩnh vực
liên quan đến chuyển mã đƣợc các học giả trên thế giới quan tâm, đó là:
(1) Các nghiên cứu theo hƣớng tiếp cận tâm lí học xã hội (the social psychological
approach);
(2) Một số nghiên cứu đặc tính (identity) của hiện tƣợng chuyển mã; và
(3) Hiện tƣợng chuyển mã và các ảnh hƣởng của hiện tƣợng này lên các tƣơng tác
hội thoại.
(1) Các nghiên cứu theo hướng tiếp cận tâm lí học xã hội (the sociopsychological approach)

15


Đây là một hƣớng nghiên cứu đƣợc nhiều nhà nghiên cứu theo đuổi. Hai mơ
hình quan trọng đƣợc biết đến nhiều nhất theo hƣớng này là Mơ hình đánh dấu và
Mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận.
a. Tính đánh dấu (markedness) là khái niệm đƣợc các tác giả nổi tiếng thuộc
trƣờng phái ngôn ngữ học cấu trúc (structural linguistics) nhắc đến từ nửa đầu thế
kỷ XX nhƣ Trubetzkoy (1939-1969); Jakobson (1979); Battistella (1990, 1996).
Myers-Scotton (1993) đã kế thừa và vận dụng khái niệm này để nghiên cứu và tìm

ra những đặc điểm thuộc về bản chất của hiện tƣợng chuyển mã xuất hiện trong các
cộng đồng đa ngữ (multilingual community) và khái qt nó thành một thứ “mơ
hình” gọi là “mơ hình đánh dấu” (the markedness model). Theo tác giả, mỗi ngơn
ngữ trong các cộng đồng đa ngữ đều đóng một vai trò xã hội đặc biệt. Tƣơng tác
trong hội thoại là một quá trình điều chỉnh mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ
giữa hai bên tham gia, và theo đó, cả của các ngơn ngữ tham gia (Myers-Scotton,
1993 [80]).
Trong q trình giao tiếp, nếu mã ngơn ngữ đặc trƣng của cả cộng đồng đƣợc
lựa chọn và sử dụng thì điều đó có nghĩa là giữa ngƣời nói và ngƣời nghe có một
mối quan hệ thân thiết. Cịn khi ngƣời nói chuyển mã sang ngơn ngữ đại diện cho
quyền lực và địa vị trong cộng đồng đó thì ắt mã ngơn ngữ đó sẽ khiến mối quan hệ
giữa ngƣời nói và ngƣời nghe trở lên khách sáo, xã giao và xa cách. Ngƣời giao tiếp
thƣờng vận dụng các mã ngôn ngữ này nhằm hạ thấp địa vị của ngƣời nghe hoặc
khi muốn nâng cao địa vị của bản thân (Myers-Scotton, 1993 [80]). Nhƣ vậy, việc
xác định ý nghĩa xã hội của việc lựa chọn mã ngôn ngữ cũng nhƣ những nguyên
nhân dẫn đến hiện tƣợng luân phiên sử dụng các mã hoàn toàn dựa vào quyền và
nghĩa vụ của ngƣời tham gia hội thoại (participant rights and obligations). Đánh giá
về mơ hình này, Auer (1998) khơng đồng tình vì cho rằng nó phụ thuộc q nhiều
vào những tri thức bên ngồi ngơn ngữ khi phải giả định về những gì ngƣời nói
nhận thức đƣợc và tin tƣởng. Auer lập luận rằng ngƣời nghiên cứu hồn tồn có thể
giải thích đƣợc hành vi chuyển mã theo mơ hình đánh dấu mà khơng nhất thiết phải
có những hiểu biết về việc sử dụng ngơn ngữ của ngƣời nói bên ngồi hội thoại ấy
(nghĩa là tình huống hội thoại có chuyển mã) (Auer, P., 1998a [51]).
16


Tuy vậy, mơ hình đánh dấu có lẽ vẫn là mơ hình có hiệu lực và ngày càng
đƣợc phát triển một cách hồn chỉnh hơn để giải thích các động cơ dẫn đến hành vi
chuyển mã. Trong các cơng trình nghiên cứu sau này, Myers-Scotton và các cộng sự
tiếp tục cải tiến mơ hình này theo hƣớng phù hợp và nhất quán với các nghiên cứu

hiện hành về lĩnh vực tiếp xúc ngôn ngữ (chẳng hạn nhƣ nghiên cứu của MyersScotton năm 1998; Myers-Scotton & Bolonyai năm 2001) hay tuân theo lí thuyết
chuẩn ngơn ngữ (Standard theory of linguistics) của Chomsky năm 1965 trong các
nghiên cứu Myers-Scotton & Jake năm 2001 và Jake, Myers-Scotton & Gross năm
2002 (Nilep, C., 2006 [87]).
b. Mơ hình khung ngơn ngữ ma trận (Matrix Language Frame model) là một
mơ hình rất nổi tiếng trong nghiên cứu chuyển mã ngơn ngữ. Mơ hình này cũng do
Myers-Scotton đề xuất lần đầu tiên năm 1999 và đƣợc hoàn thiện thêm vào năm
2002 (Myers-Scotton 1999, 2002 [82, 83]). Trong cơng trình nghiên cứu của mình,
tác giả đã bàn luận về các nghiên cứu đi trƣớc liên quan đến hiện tƣợng chuyển mã
và cho rằng những nghiên cứu đi trƣớc, do thiếu những cơ sở lí thuyết đặc hiệu nên
đã có những lí giải chƣa thật thoả đáng về hiện tƣợng này. Dựa trên những khảo sát
của mình, Myers-Scotton đã đề xuất mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận (Matrix
Language Frame model) nhƣ là một phƣơng pháp cơ bản để tiếp cận sự sản sinh
hiện tƣợng chuyển mã.Khác với các nghiên cứu trƣớc đây là chỉ đơn thuần mô tả
những biểu hiện bề mặt của hiện tƣợng chuyển mã, nghiên cứu của bà, do có một
mơ hình lí thuyết cơ động và có sức giải thích lớn, đã làm bộc lộ đƣợc bản chất bên
trong và những cơ chế tƣơng tác ngữ pháp trong cấu trúc sâu của ngôn ngữ để lí giải
sự biến đổi của hai ngơn ngữ tham gia vào các phát ngôn chuyển mã. Từ khi ra đời
đến nay, mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận vẫn đƣợc xem là nguyên lí trung tâm, là
cơ sở lí luận quan trọng mà các nhà ngôn ngữ học áp dụng để lí giải hiện tƣợng
chuyển mã.
(2) Một số nghiên cứu đặc tính (identity) của hiện tượng chuyển mã
Trong khi Myers-Scotton và các cộng sự nghiên cứu mơ hình đánh dấu với
mong muốn có thể lí giải hiện tƣợng chuyển mã một cách khái qt và có hệ thống
thì các nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhƣ ngôn ngữ học nhân học (linguistic
anthropology), ngôn ngữ học xã hội (sociolingusitics) và các lĩnh vực nghiên cứu
17


liên quan của ngơn ngữ học xã hội văn hóa (socioculture linguistics) cũng cung cấp

những kiến thức chung về hiện tƣợng chuyển mã trong những văn cảnh cụ thể.
Chẳng hạn, các nhà dân tộc học tiêu biểu là Monica Heller (1999)-xem xét hiện
tƣợng chuyển mã nhƣ một chiến lƣợc giao tiếp mang tính chính trị. Tác giả lí giải
rằng ngơn ngữ có xu hƣớng liên kết các tình huống của ngƣời nói, do đó, họ sử
dụng nhiều ngơn ngữ trong cùng một cuộc giao tiếp và điều này cho phép ngƣời nói
đạt đƣợc nhiều mục đích giao tiếp hơn. Do đó, ngƣời Anglophone (tiếng Anh là
tiếng mẹ đẻ) sinh sống ở vùng Quebec thuộc Canada thƣờng xuyên chuyển mã
Anh-Pháp nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp hàng ngày với những ngƣời trong cộng
đồng, lại vừa có cơ hội đạt đƣợc một vị trí trong một đồn thể nào đó do vùng này
chịu sự kiểm soát của cộng đồng Pháp ngữ.
Lịch sử các nghiên cứu về hiện tƣợng chuyển mã trong ngơn ngữ học xã hội
có lẽ bắt đầu từ cơng trình “Social meaning in linguistic structures” của hai tác giả
Bloom và Gumperz năm 1972 (Nilep, C., 2006 [87]). Hai nhà nghiên cứu tiến hành
mô tả tiếng Na Uy và tiếng Ranamal trong cộng đồng sinh sống ở vùng
Hemnesberget-gồm 1.300 ngƣời dân thuộc phía bắc của Na Uy. Hai ngơn ngữ này
đƣợc mô tả nhƣ hai mã ngôn ngữ rất khác biệt thơng qua các phân tích về sự khác
biệt âm vị học (phonological differences), khác biệt về hình thái học (morphological
differences) và từ vựng (lexical) kết hợp với quan niệm truyền thống của ngƣời dân
bản địa coi đây là hai biến thể riêng biệt và họ ln duy trì các hình thức riêng biệt
của hai biến thể này. Sau quá trình quan sát, điều tra và phân tích, Bloom và
Gumperz đã giới thiệu hai thuật ngữ rất quan trọng về hiện tƣợng chuyển mã là
chuyển mã ẩn dụ (metaphorical code-switching) và chuyển mã ngữ cảnh (situational
code-switching)-một số nhà nghiên cứu Việt Nam gọi là chuyển mã tình huống
(Nguyễn Văn Khang, 2012 [31]). Hai khái niệm cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm trong các nghiên cứu sau này. Họ cho rằng Bloom và Gumperz đã sai sót
khi cho phân tích tiếng Na Uy và Ranamal là hai mã ngôn ngữ riêng biệt, kéo theo
kết quả nghiên cứu chƣa mang tính thuyết phục. Vấn đề cần giải quyết ở đây là việc
xác định rõ mã ngơn ngữ và các tình huống giao tiếp có xuất hiện các hành vi
chuyển mã. Và quan trọng hơn, khi nào là chuyển mã ẩn dụ và khi nào là chuyển
mã ngữ cảnh, điều đó thật khó phân định rạch rịi. Do vậy, các nhà nghiên cứu sau

18


này dƣờng nhƣ né tránh việc phân định chuyển mã ẩn dụ với chuyển mã ngữ cảnh.
Một thập kỷ sau đó, trong nghiên cứu năm 1982, Gumperz đã chuyển sang dùng
thuật ngữ chuyển mã hội thoại (conversational code switching). Tác giả cũng thừa
nhận rằng dựa trên bộ phân loại của mình (Gumperz nhấn mạnh), các nhà nghiên
cứu đã gặp rất nhiều khó khăn để xác định sự lựa mã trong các tình huống hội thoại
khác nhau là ẩn dụ hay ngữ cảnh. Hạn chế của lƣỡng phân này vẫn tiếp tục bộc lộ
trong nghiên cứu ở nhiều cộng đồng khác nhau và càng về sau, sự ứng dụng mơ
hình này có xu hƣớng khơng phổ biến nhƣ trƣớc nữa.
(3) Hiện tượng chuyển mã và các ảnh hưởng của hiện tượng này lên các tương
tác hội thoại (the effect of code-switching on talk in interaction)
Điển hình cho các nghiên cứu theo lĩnh vực này là cơng trình năm 1996 của
Ochs, Schegloff & Thompson. Bằng cách quan sát các diễn ngôn một cách chi tiết
hơn, ba nhà nghiên cứu mong muốn tìm hiểu các dấu hiệu của ngôn ngữ học tƣơng
tác (interactional linguistics) trong các giao tiếp hàng ngày thông qua các phân tích
hội thoại. Cụ thể, các nghiên cứu tiến hành mơ tả vị trí chuyển mã ngơn ngữ (the
place of code-switching) trong các lƣợt lời (turn) và các chuỗi nối tiếp (sequence)
đồng thời tìm hiểu phƣơng thức của sự luân phiên ngôn ngữ (language alternation)
chẳng hạn nhƣ các dấu hiệu ngữ cảnh hóa (contextualization cues) nhằm đem đến
hiểu biết sâu hơn về ngữ cảnh có liên quan đến các diễn ngơn có chuyển mã (Nilep,
C., 2006 [87]).
Khi tiến hành phân tích về nhóm trẻ em ngƣời Ý di cƣ đến Đức trong nghiên
cứu năm 1984, Auer đã khơng tìm thấy mối tƣơng quan đáng kể nào giữa chủ đề
(topic) hội thoại với ngôn ngữ đƣợc sử dụng (language use) trong hội thoại đó. Với
phát hiện này, Auer cũng một lần nữa cho rằng quan niệm của Gumperz (1972) về
chuyển mã ngữ cảnh là chƣa hợp lí. Trong khi Gumperz kết luận chuyển mã không
mang ý nghĩa xã hội do hiện tƣơng này là hệ quả cần thiết của một số các tham số
tình huống thì Auer lập luận rằng tình huống đƣợc tạo ra thông qua các phát ngôn,

và do đó, hình thức của phát ngơn của từng chủ thể sẽ giúp các nhà phân tích xác
định đƣợc ngữ cảnh của giao tiếp (Auer, P., 1998a [51]).
Ngoài những chức năng tƣơng tác, các nghiên cứu của Wei (1998),
Gafaranga (2001) cũng tiến hành kiểm chứng các biến thể ngôn ngữ (language
19


variety) đƣợc dùng trong chuyển mã nhƣ thế nào để tạo ra các yếu tố riêng biệt của
từng tình huống tƣơng tác, đặc điểm của chủ thể phát ngôn hay bối cảnh có liên
quan đến hội thoại đang diễn ra (Wei, L., 1998 [99]).
Không đồng quan điểm với các học giả nêu trên, Stroud (1998) đã phê phán
cách tiếp cận hiện tƣợng chuyển mã quá phụ thuộc vào các phân tích hội thoại. Ơng
nhận định các học giả đi trƣớc đã bỏ qua các yếu tố liên quan đến văn hóa của
ngƣời bản xứ khi phân tích hiện tƣợng chuyển mã. Nếu khơng căn cứ vào các thơng
tin văn hóa mà cụ thể là vốn ngữ liệu của phát ngôn thì khi tiến hành nghiên cứu,
các phân tích rất có thể sẽ bỏ qua các yếu tố về mặt ý nghĩa hay chức năng của các
mã đƣợc chuyển (Nilep, C., 2006 [87]).
Nhƣ vậy, có thể nói, chuyển mã là một hiện tƣợng cực kỳ phổ biến trên thế
giới từ các thập kỷ cuối của thế kỷ XX và nhận đƣợc sự quan tâm sôi động rất nhiều
nhà nghiên cứu. Nhiều hƣớng nghiên cứu, nhiều cách tiếp cận đã đƣợc hình thành
để hy vọng có thể tìm ra đƣợc những đặc trƣng bản chất, những quy luật ngôn ngữ,
xã hội, tâm lí chi phối hiện tƣợng rất phổ biến này. Theo các hƣớng tiếp cận khác
nhau, nhiều nghiên cứu đã đƣợc thực hiện, nhiều mơ hình giải thích đã đƣợc đề xuất
và thử nghiệm.Hƣớng tiếp cận nào, mơ hình nào cũng có lí do tồn tại và có những
hạt nhân hợp lí của nó. Nhƣng tất nhiên, mơ hình nào cũng khó tránh khỏi những
hiện tƣợng trung gian, khó giải quyết một cách triệt để. Chẳng hạn, lƣỡng phân
chuyển mã ẩn dụ với chuyển mã ngữ cảnh mà Bloom và Gumpers để xuất ban đầu
tƣởng rất hợp lí nhƣng càng áp dụng càng bộc lộ những hạn chế khó vƣợt qua về
khả năng phân định rạch ròi giữa hai tiểu loại. Hay, mơ hình đánh dấu của MyersScotton, mặc dầu đƣợc áp dụng rộng rãi hơn nhƣng cũng không thể tránh khỏi lúc
này lúc khác cịn ít nhiều chủ quan. Cho đến thời điểm này, hầu hết các nghiên cứu

chuyển mã trên thế giới vẫn có xu hƣớng áp dụng mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận
một cách rộng rãi và phổ biến do năng lực đi sâu vào bản chất hiện tƣợng của nó.
Cũng vì những lí do nêu trên, và theo xu hƣớng chung, luận án của chúng tôi
sẽ áp dụng mơ hình Khung ngơn ngữ ma trận là chủ yếu để lí giải những đặc điểm
của hiện tƣợng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt. Bên cạnh mơ hình
này, để nghiên cứu và lí giải các động cơ chuyển mã, chúng tôi sẽ áp dụng mô hình
đánh dấu dù mơ hình này cịn ít nhiều chủ quan. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thức
20


rằng, động cơ là một phạm trù tâm lí cá nhân mang nặng tính chủ quan nên việc áp
dụng mơ hình đánh dấu là có thể chấp nhận đƣợc. Hơn nữa, chính tác giả cũng bộc
lộ khi nghiên cứu để hồn thiện mơ hình rằng đây là một mơ hình thích hợp để lígiải
những động cơ cá nhân cấu thành hành vi chuyển mã (Myers-Scotton, 1993 [80]).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển mã trên ngữ liệu tiếng Việt và ở
Việt Nam
Vấn đề đầu tiên cần lí giải là những nội dung đƣợc trình bày trong mục này. Nếu
ở mục trƣớc, chúng tơi đã trình bày tình hình nghiên cứu hiện tƣợng chuyển mã trên
thế giới thì ở mục này, theo logic chung, chúng tơi sẽ phải trình bày tình hình
nghiên cứu hiện tƣợng chuyển mã ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề mà đề tài đang
bàn đến có một đặc thù là có rất nhiều nghiên cứu về hiện tƣợng chuyển mã không
đƣợc thực hiện ở Việt Nam (có nghĩa là trên thế giới, và theo logic tƣ duy thơng
thƣờng thì phải xếp vào mục “Những nghiên cứu trên thế giới”) mà đƣợc thực hiện
ở nƣớc ngoài (nhƣ Mỹ, Úc) nhƣng trên ngữ liệu tiếng Việt (chuyển mã tiếng Anh
trong giao tiếp tiếng Việt) và có cả chủ thể của hành vi chuyển mã lẫn chủ thể thực
hiện nghiên cứu chuyển mã là ngƣời Việt (chủ yếu thuộc các cộng đồng di cƣ và
một bộ phận là các nhà nghiên cứu trong nƣớc thực hiện các chuyến nghiên cứu ở
nƣớc ngoài). Đối tƣợng nghiên cứu ấy khiến chúng tôi băn khoăn về việc nên xếp
chúng vào đâu trong dòng chảy chung của những nghiên cứu đã thực hiện. Sau khi
cân nhắc, chúng tôi quyết định xếp những nghiên cứu trên ngữ liệu tiếng Việt, cả ở

các cộng đồng Việt di cƣ ra nƣớc ngoài và cả ở các cộng đồng Việt tại Việt Nam
vào một nhóm để thấy đƣợc diễn biến những quan tâm của các nhà nghiên cứu đối
với cùng một đối tƣợng, trên cùng một phạm vi ngữ liệu.
Nhìn lại lịch sử, có thể thấy tiếng Anh bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ thời
kì Pháp thuộc, sau Cách mạng Tháng Tám. Tuy nhiên sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và
tiếng Anh ở giai đoạn này chƣa mạnh mẽ bởi lúc đó tiếng Việt đang chịu sự ảnh
hƣởng lớn từ tiếng Pháp trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Chỉ từ năm 1986 đến nay,
khi kinh tế thị trƣờng mở cửa với xu thế toàn cầu hóa, tiếng Anh ngày càng thâm
nhập vào đời sống ngơn ngữ của ngƣời Việt cùng với vị trí là ngơn ngữ mang tính
quốc tế của nó (Nguyễn Văn Khang, 2007 [29]). Trong bối cảnh đó, mọi phƣơng
diện của đời sống đều bị tác động mạnh nhƣ chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa,
21


trong đó ngơn ngữ là thành phần chịu tác động mạnh mẽ hơn cả. Có lẽ đây là lí do
phải đến những năm cuối thế kỷ XX trở đi các nghiên cứu về tiếp xúc ngơn ngữ,
giao thoa văn hóa, vay mƣợn từ vựng và đặc biệt là hiện tƣợng chuyển mã trên ngữ
liệu tiếng Việt và ở Việt Nam mới thực sự đƣợc các học giả Việt Nam quan tâm và
thảo luận. Đa số các tác giả, các nhà nghiên cứu đều là ngƣời Việt đang sinh sống,
học tập và làm việc ở các quốc gia nói tiếng Anh nhƣ Mỹ, Úc... Mãi đến sau này,
một số nhà nghiên cứu tại Việt Nam mới có điều kiện thực hiện một số nghiên cứu
về hiện tƣợng này. Các cơng trình nghiên cứu đều có chung một đƣờng hƣớng tiếp
cận cơ bản là hƣớng tiếp cận của ngôn ngữ học xã hội có lẽ do nhận thức đây là một
hiện tƣợng ngôn ngữ học xã hội đặc trƣng trong kỷ nguyên tồn cầu hóa. Vì vậy,
khi tổng thuật các cơng trình nghiên cứu này, chúng tôi thấy việc tổng thuật theo
các bình diện của ngơn ngữ có lẽ là một cách tổng thuật hợp lí hơn cả. Theo cách
này, có thể thấy nổi bật một vài hƣớng nghiên cứu sau đây:
(1) Hướng nghiên cứu cấu trúc hình thức của các thành phần mã tiếng Anh
trong các ngôn phẩm tiếng Việt
Tiêu biểu và sớm hơn cả phải kể đến nghiên cứu của Hồ Đắc Túc-một trong

những ngƣời Việt ở nƣớc ngoài đầu tiên xem xét hiện tƣợng song ngữ Việt-Anh
một cách có hệ thống. Cơng trình “Vietnamese-English Bilingual: Patterns of Codeswitching” đƣợc nhà xuất bản Routledge Studies in Asian Linguistics, in thành sách
năm 1997 là một sự mở hƣớng quan trọng cho những nghiên cứu sau này về hiện
tƣợng chuyển mã Việt-Anh ở Việt Nam trong đó có nghiên cứu của chúng tơi.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả bàn về những nguyên tắc phổ quát chế ngự sự
phân bố của chuyển mã nội câu (intra-sentential code-switching) và chuyển mã liên
câu (inter-sentential code-switching). Ở phƣơng diện ngữ âm, tác giả cũng ít nhiều
bàn đến sự chi phối của hệ thống thanh điệu tiếng Việt đối với việc phát âm các từ
ngữ tiếng Anh của ngƣời Việt song ngữ trong môi trƣờng mà tác giả sinh sống.
Theo hƣớng nghiên cứu cấu trúc của các đơn vị mã, có thể kể đến Nguyễn
Văn Khang (2012), Trịnh Cẩm Lan (2014) và chúng tôi (2013), Vũ Anh Thƣ (2014)
với những phác thảo bƣớc đầu về đặc điểm cấu trúc của các thành phần mã tiếng
Anh khi đƣợc chèn vào các phát ngôn tiếng Việt. Kết quả bƣớc đầu cho thấy, trong
số các thành phần mã đó, thành phẩn mã là từ chiếm tỉ trọng lớn nhất. Các đơn vị
22


×