¸p dơng ph¬ng ph¸p c¾t
–
gÊp h×nh b»ng giÊy trong gi¶ng d¹y m«n h×nh häc ë tr -
êng THCS
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong qu¸ tr×nh d¹y häc viƯc rÌn lun nh©n c¸ch s¸ng t¹o cho häc sinh lµ
c«ng viƯc v« cïng quan träng. Th«ng qua viƯc coi träng kh©u rÌn lun ph¬ng
ph¸p t×m tßi kiÕn thøc chÝnh lµ c¬ së cho viƯc rÌn kh¶ n¨ng lµm viƯc ®éc lËp s¸ng
t¹o cđa häc sinh.
Trong những năm học qua với sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên cũng
như cán bộ quản lý, ngành giáo dục đã đạt được những kết quả nhất đònh
trong việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghò quyết Đại hội Đảng
đã đề ra là “… nâng cao chất lượng giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao
động có văn hoá, có kỹ thuật, có kỷ luật và giàu tính sáng tạo, đồng bộ về
ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội …”
Trong trường phổ thông môn Toán cũng như mọi môn học khác phải
căn cứ vào đặc thù bộ môn của mình mà góp phần đắc lực vào việc thực
hiện mục tiêu mà Đảng đã giao cho. Cụ thể là:
- Môn Toán đã truyền thụ cho học sinh những dạng khác nhau của
tri thức như:
+ Tri thức sự vật: các khái niệm, đònh lý, một yếu tố lòch sử.
+ Tri thức phương pháp: phương pháp chứa đựng thuật toán,
phương pháp có tính chất tìm đoán.
+ Tri thức chuẩn: tri thức liên quan với những chuẩn mực đạo đức.
+ Tri thức giá trò: là những mệnh đề đánh giá.
- Ngoài ra toán học còn hình thành cho học sinh các kỹ năng:
+ Vận dụng tri thức trong nội bộ toán, thể hiện rõ dưới dạng giải
bài tập toán.
+ Vận dụng tri thức toán học vào những môn học khác.
+ Vận dụng tri thức toán vào đời sống.
Qua trên ta thấy mục đích của môn Toán thể hiện rất rõ vai trò của kỹ
năng và hoạt động – Đó là một yêu cầu quan trọng đảm bảo mối liên hệ
giữa học với hành. Việc dạy học sẽ không đạt kết quả nếu học sinh chỉ biết
học thuộc lòng các đònh nghóa, đònh lý mà không biết vận dụng hay vận
dụng không thành thạo vào việc giải bài tập. Mặt khác trọng tâm của mọi
chương trình giáo dục chính là có được một nền tảng toán học vững chắc.
Thông qua việc học Toán, học sinh được cung cấp các kỹ năng phân tích,
lôgic lập luận. Do vậy việc dạy và học môn Toán ở trường phổ thông là một
yêu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội, nó tạo sự đóng góp cần thiết
vào xã hội tri thức.
§µo Minh H¶i – THCS L¹i Xu©n – Thủ Nguyªn – HP
1
¸p dơng ph¬ng ph¸p c¾t
–
gÊp h×nh b»ng giÊy trong gi¶ng d¹y m«n h×nh häc ë tr -
êng THCS
Tuy vậy ngành giáo dục nói chung, đơn vò tôi nói riêng vẫn còn những
mặt yếu kém, bất cập chậm được khắc phục và đang đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức mà yêu cầu nổi bật nhất là yêu cầu nâng cao chất lượng
giáo dục.
Ở nhà trường phổ thông môn Toán cũng là một trong những môn gặp
nhiều khó khăn. Mặc dù Toán học là môn chủ đạo song hầu hết học sinh
đều rất sợ học toán đặc biệt là Toán hình.
Thực tế thì trong sách giáo khoa các khái niệm (kể cả khái niệm trừu
tượng) của Toán học đều được trình bày rất cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu. Mỗi
đơn vò kiến thức trong sách được trình bày theo kiểu tiếp cận quy nạp với
lược đồ: Tình huống có vấn đề (bài toán nhận thức)--> cách giải quyết vấn
đề đã nêu (rút ra kết luận) --> hình thành kỹ năng (vận dụng kiến thức).
Sách đã cố gắng tránh áp đặt kiến thức, tránh trình bày kiến thức ở dạng có
sẵn, tăng cường luyện tập vận dụng kiến thức toán vào thực tiễn, nâng cao
kỹ năng giải toán và ứng dụng của toán vào các môn học khác. Còn các bài
tập được thể hiện dưới nhiều hình thức: điền vào chỗ trống, tìm chỗ sai trong
lời giải, quan sát nêu nhận xét, thực hành đo đạc, gấp giấy, trắc nghiệm
đúng sai, trắc nghiệm nhiều lựa chọn, đọc hình, vẽ hình chứng minh. Như
vậy sách giáo khoa đã có sự đổi mới và thực sự là công cụ tốt cho người
giáo viên khi giảng dạy Hình học.
Nhưng thực trạng hiện nay không phải bất cứ giáo viên toán nào cũng
thực hiện tốt các nội dung như sách giáo khoa. Qua dự giờ của giáo viên tôi
thấy một tình trạng phổ biến trong giáo viên dạy toán đó là khai thác chưa
hết tác dụng của kênh hình trong sách giáo khoa dẫn đến bài giảng của giáo
viên chưa nhấn mạnh được trọng tâm, chưa kích thích được hoạt động nhận
thức của học sinh.
Ví dụ trong năm học vừa qua tôi dự hai đồng chí cùng dạy bài “
Đường tròn” – Hình học lớp 6. Sách giáo khoa có vẽ 2 hình như sau:
1,7 cm
R
O
M
O
N
P
M
( a ) ( b )
Hình 43
Ý đồ sách giáo khoa là giáo viên khai thác hình (a) để dạy đònh nghóa
đường tròn, còn hình (b) để dạy về điểm nằm trong, nằm ngoài đường tròn
§µo Minh H¶i – THCS L¹i Xu©n – Thủ Nguyªn – HP
2
¸p dơng ph¬ng ph¸p c¾t
–
gÊp h×nh b»ng giÊy trong gi¶ng d¹y m«n h×nh häc ë tr -
êng THCS
và dạy đònh nghóa hình tròn. Cả hai đồng chí đều không khai thác hết tác
dụng của hình (b). Dường như không hiểu hình vẽ trong sách giáo khoa gạch
chéo phần đó để làm gì? Nên cả hai đồng chí đều dùng phương pháp thuyết
trình. Dẫn đến học sinh không lấy được ví dụ thực tế, không phân biệt được
vật có dạng là đường tròn và vật có dạng là hình tròn.
Đó cũng là một trong những lý do mà đa số học sinh khi thi đều không
làm được hoặc không làm hết được phần bài tập hình. Từ thực tế này tôi
mạnh dạn đưa ra một vài suy nghó về việc ¸p dụng phương pháp cắt –
gấp hình bằng giấy trong giảng dạy môn hình học ở trường THCS.
B. NỘI DUNG
1/ Cơ sở lý luận:
Ta đã biết hướng đổi mới phương pháp dạy học toán hiện nay là tích
cực hoá hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự
học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, nâng
cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn.
Do vậy “tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh” đã trở thành
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy học. Thông qua giờ học
cung cấp cho học sinh tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người tích luỹ
được và góp phần hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh. Vì vậy
trong giờ học, học sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt
động học tập thì các phẩm chất và năng lực của cá nhân càng sớm được hình
thành, phát triển và hoàn thiện. Học sinh tự tin, năng động, sáng tạo là
những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện tại. Trong giờ học học
sinh càng bộc lộ hết khả năng tiếp thu kiến thức của mình, càng giúp cho
giáo viên đánh giá chính xác hơn và có kế hoạch bổ sung kiến thức cho học
sinh kòp thời.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Những giáo viên dạy học toán có hiệu quả chính là những người có
thể khuyến khích học sinh học toán được nhiều nhất.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc dạy học toán, làm cho quá trình
này không đạt được hiệu quả cao, trong đó có hai yếu tố quan trọng sau:
§µo Minh H¶i – THCS L¹i Xu©n – Thủ Nguyªn – HP
3
¸p dơng ph¬ng ph¸p c¾t
–
gÊp h×nh b»ng giÊy trong gi¶ng d¹y m«n h×nh häc ë tr -
êng THCS
- Giáo viên không quan tâm đến mức độ chín chắn về nhận thức của
học sinh. Không thấy được có những vấn đề là rõ ràng đối với thầy nhưng
lại xa lạ đối với trò.
- Giáo viên thường bỏ qua tầm quan trọng về nhu cầu của học sinh
trong việc kiến tạo kiến thức theo cách hiểu riêng của mình.
Vì thế phần lớn giáo viên sa vào quan điểm “dạy học toán chính là
việc truyền thụ các kiến thức toán học một cách có hệ thống và chặt chẽ
cho học sinh, giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải toán”.
Trong thời đại khoa học hiện nay quan điểm dạy học toán hoàn toàn
trái ngược với quan điểm trên. Nó được miêu tả như sau:
- Học sinh được phát triển các cấu trúc toán học phức tạp hơn, trừu
tượng hơn và toàn diện hơn những cấu trúc mà họ đang có để có thể giải
được nhiều bài toán có ý nghóa.
- Học sinh được độc lập và chủ động trong các hoạt động toán học.
Những học sinh này tin rằng toán học là một cách để hiểu các vấn đề. Học
sinh được nhận kiến thức nhiều từ sự khám phá tư duy và tham gia thảo luận
chứ không phải từ giáo viên.
- Trong giờ học trách nhiệm của học sinh được nâng cao, họ không chỉ
là hoàn thành các bài tập, các yêu cầu của giáo viên mà là hiểu nghóa và
trao đổi về những vấn đề toán học.
Qua trên cho thấy trong dạy học toán hiện nay vai trò của giáo viên
không phải là đọc bài giảng, giảng giải và nỗ lực chuyển tải các kiến thức
mà phải là người chủ động tạo ra các tình huống qua đó giúp học sinh tự
thiết lập ra các cấu trúc nhận thức cần thiết.
Do vậy tôi chọn đề tài này nhằm mục đích tổ chức các hoạt động hình
học tạo ra tình huống học tập trong tiết học.
3/ Giải pháp cụ thể:
Hoạt động hình học ở đây gồm có: hoạt động gấp hình, cắt ghép hình,
hoạt động vẽ hình, hoạt động đo đạc, tính toán trên các hình, hoạt động suy
luận và chứng minh hình... đều là các hoạt động thực hiện theo hướng đổi
mới nêu trên.
Học sinh tiếp thu kiến thức thông qua các hoạt động hình học. Tức là
qua quan sát và hành động trên các đồ vật, vật thật, hình vẽ... học sinh thu
thập những thông tin có liên quan, tích luỹ kinh nghiệm cảm tính, hình thành
một số kỹ năng đối với các đối tượng hình học. Từ đó khám phá ra các con
§µo Minh H¶i – THCS L¹i Xu©n – Thủ Nguyªn – HP
4
¸p dơng ph¬ng ph¸p c¾t
–
gÊp h×nh b»ng giÊy trong gi¶ng d¹y m«n h×nh häc ë tr -
êng THCS
đường, các thủ thuật cần thiết tích luỹ kiến thức để xây dựng khái niệm
hoặc tìm đường lối chứng minh đònh lý, tính chất.
Để tạo ra một hoạt động hình học ta thường qua các hoạt động cụ
thể sau: Hoạt động 1: Tiếp cận khái niệm
Hoạt động này qua hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ gấp, cắt
hình rồi quan sát và nêu nhận xét.
Hoạt động này vừa có tác dụng tạo tình huống vào bài, vừa chỉ ra tồn
tại của đối tượng, vừa tạo biểu tượng cho hoạt động tư duy sau này.
Hoạt động 2: Hình thành khái niệm
Học sinh dựa vào kết quả của hoạt động 1 trả lời các câu hỏi “tại
sao” để hình thành khái niệm.
Đây là quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá, để hình thành khái
niệm toán học sau đó rút ra kết quả một cách tổng quát nhờ suy diễn.
Hoạt động 3: Nhận dạng khái niệm
Ở hoạt động này giáo viên yêu cầu học sinh lấy ví dụ thực tế.
Hoạt động này giúp học sinh có thể diễn tả,hình dung một đối tượng
trừu tượng bằng một đối tượng cụ thể. Trên cơ sở đó học sinh nhận dạng,
khắc sâu khái niệm vừa học.
Hoạt động 4: Thể hiện khái niệm (Học sinh thực hành thông qua các bài
tập)
Hoạt động này giúp học sinh thể hiện khái niệm, hiển thò biểu tượng
có trong tư duy của mình thành hình vẽ có trên trang giấy. Hoạt động này
kết hợp được hoạt động bên trong (tư duy) với hoạt động bên ngoài (thao tác
bằng tay). Lúc này khái niệm đã được ứng dụng.
4/ Ví dụ minh hoạ:
4.1: Bài học : “Đường tròn” – Toán 6, tập 2.
PHẦN DẠY ĐƯỜNG TRÒN
Hoạt động 1:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ đường
tròn bằng Compa trên giấy (như hình vẽ)
- Giáo viên thông báo đường mà bút vẽ
trên giấy gọi là đường tròn.
- Yêu cầu học sinh lấy vài điểm trên đường
tròn, giả sử là: A, B, C, D
- Yêu cầu học sinh gấp giấy đo các khoảng cách từ O đến A, B, C, D
rồi rutù ra nhận xét.
§µo Minh H¶i – THCS L¹i Xu©n – Thủ Nguyªn – HP
5
D
O
C
B
A