Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận bản thể luận trong triết học phật giáo giá trị và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.4 KB, 19 trang )

BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO, GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ?
Lời giới thiệu
Bản thể luận trong phạm trù Phật học luôn luôn có một mối quan hệ trực tiếp
đến hệ thống căn bản nhất của Phật học, do vậy điều này sẽ dùng để thảo luận cho sự
quan sát về mọi tư tưởng và giáo lý đạo Phật. Dù vậy, những vấn đề sau đây sẽ đề cập
một cách chuyên biệt và chủ yếu là dựa trên phương diện tư tưởng Phật giáo Đại thừa.
Thế thì cái gì biểu thị cho bản thể luận?
Chúng ta đâu cần phải nói thêm về thuật ngữ bản thể luận hay siêu hình học
(metaphysics) là những từ chuyên môn được khai triển trong giới triết gia và các nhà
nghiên cứu đến từ phương Tây. Nhưng chúng ta nên đặt ra cho mình một vấn đề rằng,
liệu những thuật ngữ đó có thể được áp dụng hoặc thậm trí có thể tìm được trong tư
tưởng đạo Phật cùng với các thức như vậy chăng.
Bản thể luận đại biểu cho một lý thuyết cơ bản trong đó người ta khảo sát sự
hiện hữu như là chính nó đang “ hiện hữu”. Và điều ấy đang được hiểu rằng, đồng
nghĩa như siéu hình học hoặc là như điều đã được biết vào thời cổ đại là “ philosophia
prima- nguyên lý/tiền đề triết học”. Trong những trường hợp này, hiện hữu mà cụ thể
là hiện hữu thực sự (subtantial) hoặc hiện hữu về mặt bản chất (intrinsic existence) là
đối tượng của thảo luận, và đều được khảo sát trong cách đặt vấn đề như: “ Cái gì là
nguyên lý nền tảng ẩn tàng trong sự hiện hữu?” hoặc “Cái gì là nguyên nhân đầu tiên
của sự hiện hữu”,… Bản thể luận là về một phương diện rất gần gũi với vũ trụ luận
(cosmology) khi khảo sát nguồn gốc và hình thành vũ trụ và triết học tự nhiên khảo sát
về luật tác của tự nhiên giới, động lực học, các nguyên tố chính cấu thành ( nguyên tửatomic principles). Mặt khác bản thể luận chính nó có sự liên quan đến vấn đề hiện
hữu của Thượng đế (God), có nghĩa vế đề hiện hữu của Thượng đế là cao tột nhất, và
vì vậy điều ấy được triển khai cùng với tuyến thần học, khi đó là nỗ lực chứng tỏ sự
hiện hữu của Thượng đế. Do vậy, bản thể luận có một khuynh hướng rất mạnh về phía
luận lý siêu hình học và đến mức độ khác với Triết học, đã lập nền tảng trên chủ nghĩa
kinh nghiệm (empiricism) hoặc tâm lý học ( psychology).
Khái niệm Bản thể luận: Bản thể luận hay còn gọi là Bản thể học là bộ môn
nghiên cứu triết học về bản chất của con người và sự tồn tại của sự sống và thế giới.
Tức là, khái niệm về loại hình nghi vấn có liên quan đến bản chất, sự hình thành, tồn
tại, và thực tại được nhận biết như thế nào?


Bản thể luận đề cập đến sự hiện hữu và mối quan hệ của các vấn đề trên diễn ra và xác
định chúng như thế nào? Chúng được phân cấp hoặc nhóm lại ra làm sao? Sự giống và
khác nhau giữa tồn tại và thực tại như thế nào? v.v… Đó là các vấn đề của Bản thể
luận đề cầp đến và nghiên cứu, giải thích chúng theo một quy luật logic, khoa học
bằng những phạm trù biểu thị bản chất. Với nguyên lý hệ thuộc (điều kiện, nhân
duyên), và tất cả đều luôn thay đổi, biến chuyển, không có một tự tính tự tồn nhất
định, chính là bản chất của Bản thể luận Phật giáo.

1


I. Sơ lược về phật giáo:
Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI
trước công nguyên ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa
Ấn Độ và Nê Pan bây giờ. Đạo Phật ra đời trong phong trào phản đối sự ngự trị của
đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải
thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Nghiên
cứu bản thể luận trong triết học Phật giáo giúp chúng ta hiểu được sự ra đời, những
chân lý, tư tưởng của Phật giáo.
Về đặc điểm ra đời, Ấn Độ có những điều kiện tự nhiên tạo thuận lợi cho sự ra
đời của triết học Phật giáo. Ấn Độ là một bán đảo lớn – một “tiểu lục địa”, nằm ở miền
Nam châu Á; hai mặt Đông Nam và Tây Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy
Hymalaya hùng vỹ, án ngữ theo một vòng cung dài 2.600 km. Theo tiếng Phạn
(Sanscrit) chữ Hymalaya có nghĩa là “xứ sở của tuyết”. Từ xa xưa, nơi đây đã từng là
chốn tu hành, nơi khổ luyện của những đạo sĩ và theo trí tưởng tượng của người Ấn
Độ cổ Hymalaya là nơi trú ngụ của các đấng thần linh. Tiếp xuống phía Nam là vùng
đồng bằng Ấn – Hằng. Các con sông như sông Ấn (Indus hay còn gọi là Sindhu), chạy
về phía Tây, qua những vùng di tích cổ nổi tiếng của nền văn minh sông Ấn như
Harappa, Monhenjo-Daro đổ ra vịnh Oman; sông Hằng (Gange) tuy bắt nguồn gần
sông Ấn nhưng chảy theo hướng ngược lại, về phía Đông, ra vịnh Bengale. Sông Hằng

(còn có nghĩa là con gái của Hymalaya) được coi là dòng sông linh thiêng của Ấn Độ.
Nó chảy qua thành phố Vanasari (tức Benares), từ ngàn đời nay đã trở thành nơi hành
hương thiêng liêng của người dân Ấn Độ. Ngoài ra còn con sông Brahmapoutra, cũng
xuất phát từ Hymalaya, cùng với sông Ấn và sông Hằng, ngày đêm mang nguồn nước
và phù sa về tưới cho cả một vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Bắc Ấn Độ, tạo điều
kiện cho sự phát triển nông nghiệp. Giữa miền Bắc Ấn và miền Nam Ấn được phân
chia bởi dãy núi Vindhya và vùng sa mạc Thar rộng lớn. Miền Nam Ấn là cao nguyên
Dekkan, có nhiều rừng núi, sông ngòi chảy qua đổ ra Ấn Độ Dương. Do địa hình hiểm
trở nên mực nước các con sông ở đây không ổn định và chảy với tốc độ lớn. Điều kiện
tự nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp,
vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú; có vùng kí hậu nóng, ẩm,
mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại cũng có những vùng sa mạc
khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là
những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người
Ấn Độ cổ. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên như vậy đã hình thành nên các nền văn hóa
sông Ấn, thời kỳ Véda, chế độ đẳng cấp … Thời kỳ Véda cũng là thời kỳ hình thành
các tôn giáo lớn mà tư tưởng là tín ngưỡng của nó ảnh hưởng đậm nét tới đời sống tinh
thần xã hội Ấn Độ cổ đại, như đạo Rig-Vesda, đạo Bàlamôn và sau đó là đạo Phật.
Người sáng lập ra đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Siddhattha (Tất Đạt Đa)
họ là Cù Đàm (Gautama), con đầu vua Tịnh Phạn (Suddhodana) dòng họ Sakya, có
kinh đô là thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu). Phật Thích ca sinh ngày 8 tháng 4 năm
563 trước công nguyên và mất năm 483 trước công nguyên. Năm 29 tuổi, ông quyết

2


định từ bỏ cuộc đời vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi khổ của chúng
sinh. Sau 6 năm liền tu luyện, Tất Đạt Đa đã “ngộ đạo”, tìm ra chân lý “Tứ diệu đế” và
“Thập nhị nhân duyên”. Siddhattha Gautama đã trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi
đó Ngài vừa tròn 35 tuổi.

Tư tưởng Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn, thể hiện
trong một khối lượng kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng” gồm ba bộ phận: 1) Tạng
kinh ghi lời Phật dạy, 2) Tạng luật gồm các giới luật của đạo Phật, 3) Tạng luân gồm
các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả
về sau. Trái với quan điểm của kinh Véda, Upanishad, đạo Bàlamôn và các môn phái
triết học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo
và chi phối vũ trụ. Brahman, đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật
trong thế giới chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô định không do một vị thần nào sang
tạo nên cả. Vì thế giới luôn là dòng biến ảo vô thường, nên không có cái gọi là bản
ngã, không có thực thể; tất cả theo luật nhân quả cứ biến đổi không ngừng, không
nghỉ, theo quá trình sinh, trụ, di diệt hay thành, trụ, hoại, không và chỉ có sự biến hóa
ấy là thường hữu. Tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, theo triết học Phật
giáo, từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, đều không thoát ra khỏi sự chi phối của
luật nhân duyên. Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Qủa lại
do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới
… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh,
hóa hóa mãi.
Con người cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần:
thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của ngũ uẩn. Cái tôi sinh lý
tức thể xác gọi là sắc gồm: địa, thủy, hỏa, phong, tức là cái có thể cảm giác được. Cái
tôi tâm lý, tinh thần, tức là tâm gọi là Danh, với bốn yếu tố chỉ có tên gọi mà không có
hình chất là : Thụ, cảm thụ về khổ hay lạc đưa đến sự lãnh hội với thân hay tâm;
Tưởng tức là suy nghĩ, tư tưởng; Hành ý muốn thúc đẩy hành động, tạo tác và Thức
nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý, phân biệt ta là ta … Nhưng sắc không chỉ gồm
cái nhìn thấy mà cả cái không nhìn thấy; nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của sắc,
gọi là “vô biểu sắc”.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn, do nhân duyên hợp thành mỗi con người cụ
thể có danh sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta, duyên tan ngũ uẩn ra thì không còn là ta,
là diệt, nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ
uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luật nhân quả không ngừng, không nghỉ. Nên vạn vật,

con người cứ biến hóa, vụt mất, vụt còn, không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi,
không có cái tôi thường định. Cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay. Sự biến
hóa, trôi chảy không ngừng do nhân duyên, gọi là vô thường. Trong kinh “Tăng Nhất
A Hàm” viết: “Pháp pháp tự sinh, pháp pháp tự diệt, pháp pháp tự động, pháp pháp tự
nghĩ … pháp có thể sinh ra pháp … Như thế hết thảy cái đó đều về cái không: không
ta, không người, không mệnh, không sĩ, không phu, không hình, không tưởng, không
nam, không nữ”.

3


Vì không nhận thức được cái biến ảo, vô thường, vô định của vạn vật mới là
thường hằng và chân thực; không nhận thức được rằng “cái tôi” có mà không, không
mà có, nên người ta lầm tưởng rằng ta tồn tại mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng
của ta, là ta, do ta nên con người cứ khát ái, tham dục, hành động chiếm đoạt nhằm
thỏa mãn những ham muốn, dục vọng đó, tạo ra những kết quả, gây nên nghiệp báo
mắc vào bể khổ triền miên không dứt. Đã mắc vào sự chi phối của luật nhân duyên là
chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi.
Đó là cách lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người của đạo Phật. Chỉ ra căn
nguyên biến đổi của vũ trụ, thế gian, tìm ra nguồn gốc nỗi khổ do sự mê ngộ về bản
chất con người, Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra thuyết “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân
duyên” để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây
là tư tưởng, triết lý nhân sinh chủ yếu của đạo Phật.
II. Bốn chân lý(sự thật) về khổ (Tứ diệu đế)
Khái niệm Tứ diệu đế: Tứ là bốn; Diệu là hay đẹp, quý báu, hoàn toàn; Đế là
sự chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani. Tứ diệu đế là bốn sự
thật chắc chắn, quý báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo lý ngoại đạo nào có thể
sánh kịp. Với bốn sự thật mà Đức Phật đã phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị
tối tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như
một ngọn đuốc thiêng có thể soi đưởng cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích.

Vì cái công dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi là Diệu.
Chữ Đế còn có nghĩa là một Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các Sự Thật
khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật hạn cuộc trong không gian
và thời gian.
Trong giáo lý Tiểu thừa thì Tứ diệu đế là giáo lý căn bản.
Dẫn nhập:
Một hôm, Đức Phật đang ở tại Kosambi trong rừng cây simsàpa, Ngài nhặt một
ít lá simsàpa đưa lên hỏi: “Này các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào? Lá simsàpa ở trong
tay ta nhiều hay là ở trong rừng simsàpa nhiều?”.
“Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn quá ít, còn lá trong rừng simsàpa thì
quá nhiều”. Phật dạy: “Cũng vậy, này các Tỳ kheo, điều ta biết thì quá nhiều, nhưng
những gì ta dạy cho các ông thì rất ít; nhưng đó là những gì cần thiết và căn bản cho sự
giải thoát. Những gì ta đã dạy cho các ông? Chính là “Đây là Khổ”, “Đây là Khổ tập”,
“Đây là Khổ diệt”, “Đây là con đường đưa đến Khổ diệt”.
Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật
thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như, những bạn
tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ
đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở
rộng. Đức Phật nhiều lần xác định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế,
Ngài dạy: “Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai

4


hay hiện tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn
thánh đế”.
Mục đích của đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được
thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý Tứ điệu đế được coi là
thiện pháp tối thắng. Ngài Xá Lợi Phất nhận định: “Ví như tất cả dấu chân của mọi
loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này lớn nhất trong tất cả

dấu chân. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ thánh
đế” (Trung Bộ kinh I). Đức Phật cũng dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng
không cần xây dựng tầng dưới của ngôi nhà, tôi sẽ xây tầng trên của ngôi nhà, sự kiện
này không thể xảy ra. Cũng vậy, nếu có ai nói rằng không cần giác ngộ Tứ thánh đế, ta
sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này không thể xảy ra”.
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối, Ngài nhắc
lại giáo lý Tứ đế: “Các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ
nào thì có thể chất vấn tức khắc, không nên giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp«
(kinh Di Giáo, Trí Quang dịch)”.
Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đã được xác định bởi chính
Đức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm, giáo lý Tứ diệu
đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Nguyên thủy hay Đại thừa, đều xiển dương
và hành trì.
Định nghĩa: Tứ diệu đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani. Arya là
Diệu, cao quý, mầu nhiệm; Satya là Đế, là sự thật, là chân lý. Tứ diệu đế còn được gọi
là Tứ chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.
Khổ đế (Duhkha): Tức là sự thật thứ nhất mà chúng ta phải nhận ra, phải tìm
hiểu.
Tập đế (Samudaya): Tức là những nguyên do đưa tới khổ, những thức ăn vật
chất, tinh thần đã được tiêu thụ và đưa tới khổ đau.
Diệt đế (Nirodha): là sự vắng mặt, sự trừ diệt của các nguyên do đã đưa tới
khổ.
Đạo đế (Marga): Tức là con đường, là thức ăn, là các phương pháp thực tập
dẫn tới sự vắng mặt của các nguyên nhân gây khổ.
Theo văn phạm chữ Hán, Khổ là sự thật thứ nhất, duhkha. Sự thật thứ hai là
Tập, nói cho đủ là khổ-tập. Khổ-tập tức là những nguyên do, những gốc rễ, những thực
phẩm đã tập thành, dẫ tới đau khổ, Phạn ngữ là duhkha samudaya (the making of the
suffering). Và Diệt là khổ-tâp-diệt, tức là sự vắng mặt, sự tiêu diệt của những nguyên
do đưa tới khổ đau. Sự thật thứ tư là Đạo, con đường. Con đường nào? Con đường đưa
tới sự tiêu diệt của những nguyên nhân gây đau khổ.


5


Giáo lý Tứ diệu đế được nói đến trong các kinh: Đế phân biệt tâm kinh (Trung
Bộ III), kinh Phân biệt thánh đế (Trung A Hàm), kinh Chuyển pháp luân (Tương Ưng
& Tạp A Hàm), và rải rác trong kinh tạng Pàli cũng như Hán tạng.
1. Nội dung Tứ diệu đế:
Khổ đế (Duhkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt
lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con người luôn có
xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì không hiểu rõ bản chất
của khổ đau nên không tìm được lối thoát thực sự; đôi khi ngược lại, càng tìm kiếm
hạnh phúc càng vướng vào khổ đau.
Khổ đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Đức Phật dạy: “Này
các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là
khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ” (Tương Ưng
V). Như vậy, Khổ có thể chia làm 3 phương diện như sau:
-Về phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau đớn. Khi
ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát vào trong mắt khó chịu..., đây là
sự bức bách đau đớn của thể xác. Sự đau đớn của thể xác rất lớn, như Lão Tử nói:
“Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân” (Có thân nên có khổ). Con người sinh ra đã vất
vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng; và cuối cùng, cái chết: sự tan
rã cuối cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.
-Về phương diện tâm lý: Là sự khổ đau do không toại ý, không vừa lòng v.v...
Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau đớn về tâm lý. Những mất mát, thua thiệt trong
cuộc đời làm mình khổ. Người mình thương muốn gần mà không được, người mình
ghét mà cứ gặp gỡ hoài, mình muốn tiền tài, danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua
ngoài tầm tay của mình. Cuộc đời như muốn trêu ngươi, những ước mơ không toại ý,
lòng mình luôn trống trải, bức bách v.v... Đây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
-Khổ là sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cái khổ thứ ba này bao

hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy: «Chấp thủ năm uẩn là khổ«.
Năm uẩn là 5 yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có: thân
thể vật lý và cấu trúc tâm lý như: cảm giác, niệm tưởng, hành và thức (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức). Nói một cách tổng quát, khi ta bám víu vào 5 yếu tố trên, coi đó là ta, là
của ta, là tự ngã của ta, thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm về “thân thể tôi”, “tình cảm tôi”,
“tư tưởng tôi”, “tâm tư tôi”, “nhận thức của tôi”... hình thành một cái tôi ham muốn, vị
kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng
đều gắn liền với ý niệm về “cái tôi” ấy.
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp
thủ, ngã hóa năm uẩn.
Tập đế (Samudaya): Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực
đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được

6


bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau
(Đạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ tâm lý,
cảm thọ và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong
tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ; có
cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm
thức.
Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái
mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn
đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy không bao giờ thỏa mãn.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy
rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và
chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy

rõ nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới
lầm tưởng rằng “cái tôi” là quan trọng nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố
và thỏa mãn nhu cầu của nó. Nói cách khác, do vô minh mà có chấp thủ “cái tôi” và
“cái của tôi” như thân tôi, tình cảm tôi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của
tôi, sự nghiệp của tôi... Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc
đời.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng
mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là chắc chắn. Nói
cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu
không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị
trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập
tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là
hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định
có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để đạt được hạnh
phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức độ khác nhau.
-Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì
những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc
tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản và rộng lượng hơn. Đó là một hình thức
của hạnh phúc. Kinh Trung Bộ có một ví dụ: Có một người con trai đang yêu một cô
gái. Tình cờ, anh ta bắt gặp cô gái nói chuyện, cười đùa với một chàng trai khác. Tâm
hồn của người con trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau
khổ. Thời gian sau, người con trai ấy không còn yêu thương cô gái ấy nữa; lần này,
anh ta gặp cô ái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những chàng trai khác, nhưng hình
ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy, nhờ tâm trí không bị chi

7



phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền
muộn, lo lắng, sợ hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận
thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm
được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và
khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, không còn bị áp
lực của nó đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm
chất hơn.
Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ
nào thì đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì
bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: “Có người có thể không bị bệnh về thể
xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người không bị
bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút”. Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần
gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5 triền cái: tham lam, sân hận, hôn trầm ngủ
nghỉ, dao động và hối hận, hoài nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có mặt, nó sẽ trói
buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an
lạc như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này được gọi
là Tứ thiền.
-Hạnh phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển tuệ
quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, bạn có thể đạt hạnh
phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết bàn là sự thanh
tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: “Vô bệnh lợi tối thắng, Niết bàn lạc tối
thắng” (K.Magandiya, TBK II).
Niết bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vô sanh,
giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực tướng, pháp thân... Niết
bàn không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ. Đây là trạng thái an
lạc, hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đã vắng mặt tham, sân, si.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao
cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của các tôn giáo khác; đó là một sai lầm lớn.
Niết bàn vượt thoát mọi khái niệm đối đãi về thời gian, không gian, có, không, lớn,

nhỏ... Dù vậy, Niết bàn không phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh, siêu việt,
không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay nói cách khác, không thể nhận
thức được Niết bàn khi đang còn tham, sân, si. Một vị Thiền sư nói: “Hãy nhìn những
rặng núi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết
nhìn mọi vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan không bị chi phối bởi tham sân
si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó ! Niết bàn không phải là một nơi chốn nào
khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm đến. Niết bàn chính là
ở đây”. Đức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán đã đạt Niết bàn ngay trong đời sống này.
Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết
bàn là không còn tạo nghiệp và không còn tái sinh.

8


Đạo đế (Marga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an
lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy,
toàn bộ giáo lý mà Đức Phật đã dạy đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37
pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, đây là những
pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập,
truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an
lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài người. Đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm
lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần« (kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong 37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo
đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Tám chánh đạo - con đường chân chính - có 8 chi phần:
-Chánh kiến (Sammà Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng
về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất
của sự vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên
nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
-Chánh tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc

của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức tối giận hờn, bạo động
hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự buông thả,
sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm
tĩnh.
-Chánh ngữ (Sammà Vàcà): Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời
đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm
tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích.
-Chánh nghiệp (Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành
vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không
ham muốn thú vui bất thiện.
-Chánh mạng (Sammà Ajivà): Đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu
sinh, nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian
xảo.
-Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ
điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.
-Chánh niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các
pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An trú
tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.
-Chánh định (Sammà Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để
tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có
hiệu quả phát triển tuệ giác.

9


Mối quan hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần
này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh đạo có thể chia làm 3
bước là Giới, Định và Tuệ. Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Định là
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Xác định
Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát, Đức Phật dạy:”Này Subhadda, trong

pháp luật nào không có Bát thánh đạo thì ở đấy không có Tứ quả Sa môn(kinh Đại Bát
Niết bàn, TB I)”. Đức Phật dạy thêm: “Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát
chánh đạo) thì cõi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán”.
Con đường tu tập của Đạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành giả
Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời sống này.
2. Tu tập Bốn chân lý
Giáo lý đạo Phật không phải là một học thuyết, mà là một công trình tu tập, có
thực hành mới biến lý thuyết thành thực tiễn, thành chất liệu sống trong mỗi con
người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết khát. Đó là chỗ khó khăn của người
Phật tử, không thể nhờ cậy vào ai tu giúp cho mình, hoặc ai ban cho mình được giải
thoát, hết khổ.
Trong kinh đưa ra 3 giai đoạn nhận thức và hành trì đối với Bốn chân lý, thuật ngữ gọi
là Tam chuyển: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.
1)- Đối với Khổ đế: Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện cái khổ. Thấy được khổ là
bước đầu tiên; nếu không thấy, không biết thì sẽ không có hành động diệt khổ. Khuyến
chuyển là đi sâu hơn vào bản chất cái khổ, khởi lên ước muốn đoạn trừ khổ. Chứng
chuyển cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện về bản chất của khổ đau.
2)- Đối với Tập đế: Thị chuyển là nhận diện nguyên nhân đưa đến đau khổ. Khuyến
chuyển là khởi lên ước muốn đoạn trừ các nguyên nhân ấy. Chứng chuyển là tu tập, nỗ
lực để đoạn trừ chúng.
3)- Đối với Diệt đế: Thị chuyển là nhận thức được sự vắng mặt của đau khổ là hạnh
phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy điều ấy. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn
được hạnh phúc, hưởng được niềm vui, thanh thản an lạc của đời sống. Chứng chuyển
là đạt được, hưởng thụ thật sự trạng thái an lạc ấy.
4)- Đối với Đạo đế: Thị chuyển là nhìn thấy con đường, thấy được phương pháp diệt
khổ, thấy rõ rằng đây là con đường đưa đến giải thoát; nói cách khác, thấy được lối
thoát ! Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đi trên con đường ấy, khởi hành trên lộ
trình ấy. Chứng chuyển là đi trên con đường ấy một cách trọn vẹn.
Tóm lại, đối với mỗi chân lý, chúng ta đều phải nhận thức rõ ràng. Từ nhận thức thông
suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành động, và cuối cùng đạt được mục đích. Chúng ta phải

thấy rõ diễn biến của hành vi, ngôn ngữ và tư duy của chính mình, cái nào có đau khổ,
gây ra đau khổ, ta phải nhận diện và diệt trừ chúng; ta chuyển hóa nó để hưởng được
niềm an bình hạnh phúc của Diệt đế. Hạnh phúc hay đau khổ đều xuất phát từ nơi thân
tâm của chúng ta.

10


III. Tam giới (Ba cõi)
Ba cõi cũng tức là vòng sinh tử luân hồi. Các kinh luận thường dạy rằng, tất cả
mọi loài chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ (Phật tính), nhưng vì bị các kiến
chấp sai lạc làm cho mờ tối nhận thức, khiến không tự phát hiện và thắp sáng được khả
năng ấy, cho nên cứ phải quanh quẩn mãi trong ba cõi.
Còn ở trong ba cõi là còn bị phiền não chi phối. Chỉ khi nào đạt được quả vị
giác ngộ thì mới được giải thoát ra khỏi ba cõi – tức là thoát khỏi vòng sinh tử luân
hồi. Ba cõi đó là:
1. Cõi Dục (Dục giới). “Dục” là ham muốn. Cõi Dục là cõi của thực phẩm, ước
muốn vật chất và dục vọng thể xác. Chúng sinh trong cõi này vì đam mê theo các “thú
vui” về sắc tướng, âm thanh, mùi hương, ăn uống, chạm xúc và dâm dục cho nên luôn
luôn gây ra nhiều tội lỗi, tai họa và khổ đau. Các loài chúng sinh trong cõi Dục này
gồm có: Người, A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh. Trong 5 loài này thì loài
Người có tâm ý phát triển cao hơn hết, là cảnh giới có khổ đau và hạnh phúc lẫn lộn.
Bởi vậy, các vị Bồ-tát thường chọn sinh vào thế giới loài Người, nơi có nhiều hoàn
cảnh thuận lợi, để phụng sự chúng sinh và tu tập các pháp môn cần thiết sau cùng để
thành tựu quả Phật. Cũng bao gồm trong phạm vi cõi Dục này còn có 6 cõi Trời, tuy
hưởng được nhiều phước báo hơn loài Người, nhưng vẫn là những phước báo tạm bợ,
và trí tuệ thì không hơn loài Người. Chúng sinh trong 6 cõi này vẫn có hình sắc, nhưng
phần vật chất của họ vô cùng vi tế, mắt người thường không thể trông thấy được. Họ
đều là hóa sinh, cũng mang hình thể nam, nữ, với đầy đủ các thứ dục vọng như con
người. Sáu cõi Trời của cõi Dục (Lục Dục thiên) này, từ thấp lên cao gồm có: Tứvương, Đao-lợi (cũng gọi là cõi trời Ba-mươi-ba – tam thập tam thiên), Dạ-ma, Đâusuất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại.

2. Cõi Sắc (Sắc giới). “Sắc” là hình tướng, vật chất. Đây là cõi của các vị Phạm
Thiên, có hình tướng, vật chất như thân thể, cung điện v.v..., nhưng rất vi tế, đẹp đẽ,
tinh diệu. Các vị trời ở đây không có tướng nam nữ, không có tham dục như ở cõi
Dục, chỉ sống trong thiền định. Tùy theo mức độ cao thấp của thiền định, cõi Sắc được
chia làm 4 bậc, gồm 18 cõi Trời:
-Cõi Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Phạm-chúng (các vị trời tùy
tùng của các vị Phạm Thiên), Phạm-phụ (các vị trời thân cận các vị Phạm Thiên), Đạiphạm (các vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ, tuổi thọ cao nhất trong cõi Sơthiền). Các vị Phạm Thiên ở các cõi này có thân thể khác nhau, nhưng cách suy nghĩ
thì đều giống nhau, và trong tám thức thì không còn có tị thức và thiệt thức hoạt động.
-Cõi Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-quang (các vị Phạm
Thiên có chút ít ánh sáng), Vô-lượng-quang (các vị Phạm Thiên có ánh sáng vô cùng),
Quang-âm (các vị Phạm Thiên có ánh sáng rực rỡ). Cõi Nhị-thiền này có rất nhiều ánh
sáng. Các vị Phạm Thiên ở đây đều có thân thể giống nhau nhưng cách suy nghĩ thì
khác nhau, và trong tám thức thì từ cõi Nhị-thiền này trở lên, cả năm thức cảm giác
đều không còn hoạt động.

11


-Cõi Tam-thiền (Tam-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-tịnh (có hào quang
nhỏ), Vô-lượng-tịnh (có hào quang vô hạn), Biến-tịnh (có hào quang không xao động).
Cõi Tam-thiền này mọi sự đều thanh tịnh, cả thân và tâm của các vị Phạm Thiên đều
hoàn toàn giống nhau.
-Cõi Tứ-thiền (Tứ thiền thiên), gồm 9 cõi Trời: Vô-vân (cảnh giới quang đãng),
Phước-sinh (cảnh giới trường cửu), Quảng-quả (hưởng phước báo rộng lớn), Vô-phiền
(hoàn toàn tinh khiết), Vô-nhiệt (hoàn toàn thanh tịnh), Thiện-kiến (cảnh giới đẹp đẽ),
Thiện-hiện (hoàn toàn tự tại), Sắc-cứu-cánh (cảnh giới tối thượng), Vô-tưởng (không
còn tư tưởng). Đây là cõi cao nhất của Sắc giới, chúng sinh sống trong cảnh giới thiền
định sâu xa, hoàn toàn tịch tịnh, chẳng những năm thức cảm giác mà cả ý thức cũng
không còn hoạt động nữa.
3. Cõi Vô-sắc (Vô-sắc giới).Cõi này hoàn toàn không còn có vật chất, hình thể,

cho nên cũng không có tướng nam nữ, không có dục vọng, mà chỉ thuần có nghiệp
thức trú trong các cảnh giới thiền định thâm diệu. Đây là cõi cao nhất trong ba cõi,
gồm có 4 cõi Trời:
-Cõi Không-gian vô-biên (Không vô biên xứ thiên): Cảnh giới của các vị trời
chỉ thấy có không gian vô biên, đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định
gọi là không vô biên xứ định.
-Cõi Tâm-thức vô-biên (Thức vô biên xứ thiên): Cõi chỉ thấy có tâm thức vô
biên, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định
gọi là thức vô biên xứ định. .
-Cõi Vô-sở-hữu (Vô sở hữu xứ thiên): Cõi này không còn có bất cứ một hiện
tượng gì, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền
định gọi là vô sở hữu xứ định.
-Cõi Phi-tưởng phi-phi-tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên): Cõi này
không có tri giác mà cũng không phải là không có tri giác, là cảnh giới của chư thiên
đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ
định.
Trong sách Đức Phật và Phật Pháp (Phạm Kim Khánh dịch), hoà thượng
Narada Maha Thera có nói: “Nên ghi nhận rằng đức Phật không nhằm mục đích truyền
bá một lí thuyết về vũ trụ. Dầu những cảnh giới trên có hay không, điều ấy không ảnh
hưởng gì đến giáo lí của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin một điều nào, nếu điều ấy
không thích hợp với sự suy luận của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lí trí
hữu hạn của ta không thể quan niệm được, thì điều ấy cũng không phải hoàn toàn là
chính đáng.”
4. Con đường giải thoát
Có thể nói rằng đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong hệ thống triết học - tôn
giáo Ấn Độ cổ đại là triết lý giải thoát của Phật giáo. Ở đó có sự kế thừa, chắt lọc,
dung hợp và cả sự hoàn thiện những mặt mạnh và cả những mặt yếu của tất cả những

12



quan điểm, những phương pháp, các chủ trương giải thoát của các trường phái triết học
- tôn giáo vào thời đó.
Đạo Phật cho rằng vũ trụ này là vô thủy vô chung, vạn vật trong thế giới này
chỉ là dòng biến hóa vô thường, duyên sinh vô định, không do một vị thần nào sáng
tạo nên cả. Sở dĩ tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới này luôn biến đổi không
ngừng nghĩa là bởi vì trong vũ trụ từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn đều không
thoát khỏi luật nhân quả hay còn gọi là luật “Nhân duyên khởi ”. “Nhân” nhờ “duyên”
mới thành “quả”, “quả” lại nhờ “duyên” mới biến thành “nhân” mới, “nhân” mới lại
nhờ “duyên” mới biến thành “quả” mới. Cứ như thế mà thế giới nối tiếp nhau biến hóa
vô cùng vô tận và vì vậy mà mọi sự vật hiện tượng cứ sinh sinh hóa hóa mãi, quá trình
đó được Phật giáo gọi là “Chư hành vô thường”
Trong sự vận động của thế giới sự vật hiên tượng, con người là một thực thể
sống trong thế giới vận động đó. Do vậy, ngay chính bản thân con người cũng do
“nhân – duyên” kết hợp mà thành. Con người được cấu tạo bởi hai thành phần thể xác
và tinh thần, hai thành phần này là kết quả tan – hợp, hợp – tan của ngũ uẩn, duyên
hợp ngũ uẩn lại thì ra “ta”, duyên tan ngũ uẩn thì không còn “ta”, mà là diệt. Nhưng đó
không phải là sự mất đi mà là sự trở lại với ngũ uẩn và ngay cả mỗi yếu tố của ngũ uẩn
(sắc, thụ, tưởng, hành, thức) cũng luôn luôn biến đổi không ngừng theo luật nhân –
quả. Như vậy, vạn vật chúng sinh cứ biến hóa vô thường, vụt mất vụt còn, không có
thực thể, không có một hình thức nào tồn tại riêng lẻ và vĩnh viễn, không có cái tôi
thường định, không có bản ngã hay cái ngã cá nhân bất biến (vạn pháp vô ngã). Nhưng
do không thấy được nguồn gốc của sự biến đổi vô cùng vô tận của vạn vật và chúng
sinh là do đâu và như thế nào, nên con người đã lầm tưởng rằng ta tồn tại mãi mãi, cái
gì cũng thường định, cái gì cũng là của ta, do ta. Vì thế mà con người cứ khát ái tham
dục, dẫn đến hành động để chiếm đoạt để thỏa mãn những dục vọng của mình, tạo ra
những kết quả gây nên nghiệp báo (Karma), mắc vào bể khổ trầm luân. Đức Phật cũng
có dạy rằng: “Này chư Tỳ khưu, Như Lai không thấy dây trói buộc nào khác mà chặt
chẽ cột trói chúng sinh lâu dài, dai dẳng, thênh thang và hối hả bất định xuyên qua
vòng quanh những kiếp sinh tồn như trói buộc của ái dục. Quả thật vậy, này chư Tỳ

khưu, bị thằng ái dục cột trói, chúng sinh lê bước thênh thang và hối hả bất định trong
vòng luân hồi” . Ái dục chính là những khát vọng mù quáng của chúng sinh đã gây
nên sân hận và tất cả mọi khổ đau phiền lụy. Vì vậy việc đầu tiên theo đức Phật, để
giúp con người thoát ra được bể khổ triền miên đó là phải diệt ái dục; tiếng nói của sự
giải thoát khổ đau phải là tiếng nói của duyên sinh vô ngã.
Con đường giải thoát chúng sinh cũng như tư tưởng giải thoát khổ đau không
chỉ thể hiện qua lý “Nhân duyên khởi” mà còn được thể hiện trong học thuyết “Tứ
diệu đế” (Catvary Arya Satya) - tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hệ thống kinh sách nhà
Phật. Cùng với “lý nhân duyên khởi”, học thuyết “Tứ diệu đế” đã trở thành nền tảng
cho giáo lý nhà Phật. Thông qua các thuyết này, Phật giáo không chỉ vạch rõ con
đường, cách thức để giải thoát chúng sinh ra khỏi nghiệp báo luân hồi và những nổi
khổ của cuộc đời con người, mà chúng còn tìm ra nguồn gốc của nỗi khổ của cuộc đời

13


con người, chỉ ra căn nguyên biến đổi không ngừng của vũ trụ và thế giới. Chính ở đây
chứ không đâu khác đã thể hiện rõ nét và tập trung nội dung tư tưởng giải thoát đặc
sắc của triết lý Phật giáo. Triết lý Phật giáo phủ nhận thế giới quan thần quyền cũng
như quan điểm về cái tôi cá nhân bất biến. Phật giáo không tán thành cách tu luyện ép
xác khổ hạnh để có thể giải thoát (của đạo Jaina), cũng như phê phán chủ nghĩa khoái
lạc vật chất (của trường phái Lokayata). Theo Phật giáo thì cả hai khuynh hướng đều
không thể dẫn đến trạng thái diệt ái dục một cách trọn vẹn. Tu luyện khổ hạnh sẽ làm
suy giảm trí lực do đó khó có thể đạt tới minh giác, còn nếu sa vào thế giới vật chất tức
là đã sa vào thế giới vật dục, là đam mê theo đuổi cái giả tưởng, làm lu mờ tâm tính,
điều này dẫn đến sự chậm trễ trong tiến bộ tinh thần. Vì vậy, theo Phật giáo con đường
đúng đắn nhất để đạt tới giác ngộ và giải thoát là con đường trung đạo. Trong kinh
Chuyển Pháp Luân đức Phật đã nói: “Người xuất gia có hai cực đoan cần tránh, một
con đường thấp hèn chủ trương cuộc sống chỉ cần khoái lạc, một con đường cực nhọc
vô ích như chủ trương của phái khổ hạnh ép xác. Con đường trung đạo thì ở giữa hai

thái cực kia, có thể dẫn đến giác ngộ và giải thoát. Như vậy, đức Phật đặc biệt nhấn
mạnh và nhắc nhở người xuất gia phải tránh những điều thái quá hay những điều cực
đoan khi xác định con đường giải thoát chúng sinh.
Như vậy, con đường giải thoát trong triết lý của Phật giáo được thể hiện qua các
nội dung như sau: Đầu tiên, thể hiện trong thuyết Tứ diệu đế, tư tưởng giải thoát Phật
giáo có xuất phát điểm từ nỗi khổ của cuộc sống con người. Theo quan điểm của Phật
giáo, thì ngay việc con người sinh ra và tồn tại thì con người lại càng rơi vào vô minh,
rơi vào những ảo tưởng giả tạo. Chính vì thế nhiệm vụ và mục đích tối cao của sự giải
thoát chính là xóa bỏ sự vô minh của con người để đạt tới sự giác ngộ với cái tâm sáng
tỏ, có thể nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của vạn vật. Có vậy mới dập
tắt được ngọn lửa ái dục, thoát ra mọi khổ não của cuộc đời để đạt đến cõi Niết bàn
(Nirvana). Vì vậy, mà đức Phật đã đưa Khổ đế thành chân lý thứ nhất. Triết lý của đạo
Phật khẳng định thực tại nhân sinh là khổ. Phật đã nói trong kinh Chuyển Pháp Luân
rằng: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử là khổ, oán tăng hội khổ, thụ biệt ly khổ,
thụ ngũ uẩn khổ, sở cầu bất đắc khổ. Như vậy, với Bát Khổ mà đức Phật đưa ra cũng
đã khái quát rằng cuộc đời con người vốn đã là bể khổ.
Thứ hai, trong Tập Đế, Ngài đã nêu ra và lý giải căn nguyên của nổi khổ, tức
chỉ ra nguồn gốc, nguyên nhân của mọi nổi khổ. Cũng như ở thuyết “Nhân – Duyên
khởi”, nguyên nhân chính để gây nên nổi khổ của con người chính là lòng ái dục.
Nhưng sở dĩ có ái dục là vì sự vô minh, từ cái mê lầm của con người do không nhận
thức được bản chất của thế giới. Con người muốn tồn tại mãi nhưng thực tại lại cứ
luôn biến dịch, con người muốn trường tồn nhưng cuộc đời cứ luân chuyển không
ngừng nghĩ theo quy trình: sinh – lão – bệnh – tử; thành – trụ –hoại –không; sinh – trụ
–dị – diệt. Vì thế, con người mới sinh ra lòng tham, lòng sân, lòng si, chiếm đoạt để rồi
gây nên những nỗi khổ triền miên trong đời. Cùng với “Nhân duyên khởi”, đức Phật
đưa ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” để giải thích căn nguyên nổi khổ ấy, cùng với đó
cũng vạch ra mối liên hệ của nghiệp từ quá khứ tới hiện tại, rồi từ hiện tại tới tương

14



lai. Mười hai duyên đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, aí, thủ,
hữu, sinh, lão tử. Mười hai duyên này nối tiếp nhau, chúng liên hệ và chuyển hoá cho
nhau, chúng vừa là “nhân” vừa lại là “quả” của nhân.
Thứ ba, để con người có thể được giải thoát khỏi bể khổ thì phải diệt khổ, đó
chính là mục đích tối cao của sự giải thoát. Chân lý tối cao mà đức Phật đưa ra đó là
diệt đế. Phật Tổ nói rằng: “Đó là sự xa lánh trọn vẹn, là sự tận diệt chính cái ái dục ấy.
Đó là sự rời bỏ, sự khước từ, sự thoát ly và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục. Đó là chân
lý cao thượng về sự diệt khổ” , để đạt tới trạng thái Niết bàn; Niết bàn được xem là
trạng thái tuyệt đối: trạng thái không tịch, diệt trừ mọi danh sắc, cảm giác, ý thức,
trạng thái diệt mọi ái dục, vô vi, thanh tịnh, là hoàn thiện, vĩnh hằng, bất tử… Chính vì
thế mà Long Thọ Bồ Tát đã viết: “Niết bàn là ngừng định, ngừng hết tư tưởng vô và
hữu, sắc và không” .
Thứ tư, để thực hiện được mục đích và lý tưởng giải thoát, để đạt tới trí tuệ bát
nhã, Phật giáo đưa ra thuyết về Đạo Đế. Đạo đế là quan điểm về con đường, cách thức
hay phương pháp giải thoát của đạo Phật. Trong đó, con đường trung đạo như đã nói ở
trên với thuyết tiêu biểu là “Bát chính đạo”. Tám con đường đó là:
-Hiểu biết nhận thức đúng đắn (Chính kiến).
-Suy nghĩ chân chính (Chính tư duy).
-Hành động , làm việc chân chính (Chính nghiệp).
-Chỉ nói những điều hay, đúng (Chính ngữ).
-Sống một cách trung thực (Chính mệnh).
-Cố gắng vươn lên theo con đường chân chính (Chính tịnh tiến).
-Suy nghĩ chính pháp, gạt mọi tà niệm (Chính niệm).
-Chuyên chú vào con đường chân chính để giác ngộ (Chính định).
Cùng với tám con đường này, đức Phật đưa ra những phương pháp thực hành tu
luyện cho các phật tử để chủ động thực hiện điều tốt cho người và cho mình, ví như
“Ngũ giới”, “Lục độ” và “Thập thiện”.
Nói một cách khái quát, trong thuyết Tứ diệu đế, thì Khổ Đế và Tập Đế trình
bày về sự khổ và nguyên nhân của nổi khổ. Đây chính là điểm xuất phát của tư tưởng

giải thoát trong triết lý Phật giáo. Diệt Đế là quan điểm của Phật giáo về mục đích và
nhiệm vụ tối cao của sự giải thoát, mục đích và nhiệm vụ ấy là xóa bỏ mọi vọng
tưởng, thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới vật dục, diệt ái dục để có thể giác ngộ,
đến với Niết bàn. Còn Đạo Đế là con đường và cách thức giải thoát, đó là “Bát chính
đạo”.
Như vậy, với tư tưởng giải thoát mà đức Phật đưa ra đã thể hiện rất sâu sắc tính
chất nhân bản, nó quan tâm đến thân phận và đời sống của mỗi con người, giúp con
người thoát khỏi những nổi khổ của cuộc đời, tìm cho họ một niềm tin trong cuộc

15


sống, một chỗ dựa vững chắc và chỗ dựa vững chắc ấy không ở đâu xa lạ mà chính
ngay trong tâm mỗi người. Theo đó, con đường và cách thức giải thoát trong triết lý
Phật giáo rất giản dị, có ý nghĩa hết sức thiết thực và phù hợp với đời sống hiện thực
khách quan. Nó chủ trương tu luyện toàn diện trên mọi lĩnh vực từ đời sống đạo đức
luân lý đến tâm linh, trí tuệ.
IV. Giới -Định -Tuệ (Tam vô lậu học)
1. Dẫn nhập:
Suốt 49 năm thuyết pháp độ sanh, bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng lúc
nào đức Phật cũng dành nhiều thời gian để chỉ bày cho chúng đệ tử kỹ càng về ba môn
học gọi là Giới-Định-Tuệ, xem như là con đường độc đạo, một đáp án thỏa đáng và rốt
ráo duy nhất cho bài toán để giải quyết tận gốc rễ vấn đề khổ đau của con người. Để
rồi qua hơn 25 thế kỷ, ba môn học Giới-Định-Tuệ vẫn rực sáng như 3 viên dạ minh
châu trong toàn bộ kho tàng giáo lý của Như lai cũng như kho tàng triết học – khoa
học của nhân loại.
2. Nội dung Giới –Định –Tuệ:
2.1 Giới học:Nói cho đủ là Giới luật, tức là giới pháp, quy luật để ngăn ngừa
những điều tà quấy của đệ tử Phật (theo Từ điển Phật học Huệ quang tập II- Tr.1719).
Như vậy giới luật có nghĩa “ phòng phi chỉ ác, biệt biệt giải thoát ” (ngăn ngừa mọi tội

lỗi, đọan diệt tất cả các tội ác và tùy theo năng lực giữ giới, nếu giữ được một giới thì
được giải thoát một phần tội ác và giữa được nhiều giới thì giải thoát được nhiều
phần), thực hành giới luật là phương pháp điều trị thân và khẩu ở bên ngoài cho được
thanh tịnh để nhờ đó tâm ý bên trong cũng được thanh tịnh. Giới như phương thuốc
chữa bệnh, còn bệnh thì còn thuốc, hết bệnh thì thuốc không cần. Vì vậy mà giới
không phải bất di bất dịch, khi nào còn tạo tội lỗi thì giới là điều cần thiết, khi thân
tâm thanh tịnh thì giới cũng tự tiêu tan. Vì vậy bước đầu tu học, mỗi mỗi việc làm đều
phải cố gắng giữ gìn thân, khẩu đừng cho mắc phải những điều tội lỗi để tâm thần
thanh thản an vui.
Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, cho nên trước khi đức Thế Tôn nhập Niết
bàn, Ngài đã căn dặn : “ Các thầy Tỳ kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải trân
trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng
ngọc. Phải biết tịnh giới là đức Thầy cao cả của các thầy. Nếu Như Lai ở đời thì cũng
không khác gì tịnh giới ấy ”.(Kinh Di giáo)
2.2 Định học: Tiếng Phạn là Samãdhi tức tâm chuyên chú vào một đối tượng,
đạt đến tinh thần không tán loạn hoặc chỉ cho trạng thái vắng lặng của tâm thức (theo
Tự điển Phật học Huệ quang –Tập II, Tr. 1522). “ Tâm viên ý mã ” là một thành ngữ
nói lên đặc tính của tâm thường hay lăng xăng, vọng động, không bao giờ ngừng nghỉ.
Để tâm lắng xuống, không vọng động theo ngoại cảnh, ấy là trạng thái tâm lý của
Định. Thế gian nầy sỡ dỉ có sinh tử luân hồi triền miên chỉ vì tâm chúng sanh còn vọng
động, nhiểm ô tội lỗi, vô minh che lấp. Vì vậy phải tu định để chấm dứt những tà niệm

16


dấy khởi, để trong mỗi niệm khi đi, đứng, nằm, ngồi ta luôn luôn giữ được chánh niệm
tỉnh giác. Trong Thiền định, Thiền là diễn tiến còn Định là cứu cánh và thực hành
Thiền để đạt Định bởi Định là nhân tố căn bản của giải thoát, Niết bàn, một trạng thái
tâm lý thoát ra ngoài ý thức suy luận, vượt lên trên mọi hiện tượng hiện hữu của thế
giới trần tục. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phân biệt rõ trong Thiền định, Thiền là sự

vận dung tư duy để thể nghiệm chân lý, còn Định là xã bỏ tư duy để thể nhập chân lý,
chứng quả Niết bàn.
2.3 Tuệ học: Tiếng Phạn Adhiprajnã tức là Trí tuệ quán xét chân lý để đoạn trừ
vọng hoặc. Còn Tuệ (tiếng Phạn là Prajnã) là Trí phán đoán sự vật. Ngoài ra cần lưu ý
Tuệ và Trí thường được gọi chung nhưng thực ra có nghĩa khác nhau : Thông đạt sự
tướng hữu vi gọi là Trí; thông đạt đến lý không, vô vi gọi là Tuệ (Theo Tự điển Phật
học Huệ Quang – Tập II,Tr.1963).
Tóm lại Tuệ theo Phật giáo dùng để chỉ một khả năng nhận thức có đủ 3 tác
dụng :
-Liễu tri (Parinnata) : biết rõ sự vật.
- Thắng tri (Abhinnatha) : biết thấu đáo bản chất thật sự của sự vật : “ V ô
thường, khổ, vô ngã và biết thấu đáo hành nghiệp của mỗi chúng sanh ”.
-Đoạn tận (Pahanatha) : chấm dứt được khổ đau nhờ đoạn tận mọi nguyên nhân
tập khởi của chúng.
Qua 3 tác dụng trên đã cho ta thấy rõ một điều thật hiển nhiên đó là : Nhận thức
thông thường của con người chỉ có tác dụng làm giàu ta bằng kiến thức, và mỗi khi nó
không tự liễu tri và thắng tri chính mình thì nó tự tha hóa và làm băng hoại bản thân
bằng cách chạy theo những ảo giác của cuộc đời để thâu lượm kiến thức. Trái lại tuệ
giác chỉ có thể đạt được bằng con đường tu tập giới và định mới có thể diệt trừ được
bóng tôi vô minh để đạt được quả vị giải thoát.
V. Giá trị và Hạn chế của bản thể luận trong triết học Phật giáo.
1. Giá trị : của bản thể luận trong triết học Phật giáo. Phật giáo được gọi là Đạo
giác ngộ. Là một tôn giáo - triết học, nhưng với tâm từ bi, cứu khổ của Đức phật mong
giải thoát hết thảy mọi chúng sinh bằng con đường giải thoát vô chấp, vô trụ, không
phân biệt đẳng cấp, tầng lớp hay giới tính, vượt lên mọi đối nghịch nên những quan
niệm về bản thể luận trong triết học phật giáo cũng hướng tới việc lý giải về sự tồn tại
của thế giới, những biểu hiện và sự biến dịch không ngừng của vạn vật nhằm đạt tới
mục đích cuối cùng đó. Những quan niệm về bản thể luận trong triết học Phật giáo đã
có những đóng góp có giá trị vào sự phát triển của tư tưởng nhân loại nói chung và tư
tưởng phương đông nói riêng. Thứ nhất, với quan niệm bản thể của thế giới là sự

thống nhất trong một bản nguyên duy nhất là Như Lai Viên Giác, như là chân tâm, thế
giới đã được lý giải dưới con mắt Phật giáo là một sự thống nhất trong tận cùng xuất
phát điểm của nó. Nó thể hiện tư tưởng biện chứng và khái quát vô cùng sâu sắc của
người phương Đông trong những lý giải về thế giới mà càng trải nghiệm người ta

17


dường như càng cảm thấy nó đúng, bất chấp những đòi hỏi về những bằng chứng cụ
thể trong hiện thực chỉ có thể cảm nhận một cách trực quan. Thứ hai, đạo Phật là một
tôn giáo trí tuệ, vì vậy quan niệm về giải thoát của Phật giáo cũng hướng nhiều vào
việc giải thoát đời sống tâm linh con người qua trí tuệ. Và sự giải thoát đó bắt đầu
bằng việc người ta quan niệm thế nào về sự tồn tại của thế giới. Chính những quan
niệm về “vô ngã” , “vô thường” đã giúp cho đời sống tâm linh con người được giải
thoát khỏi những “vô minh” ngáng trở con người đạt tới hạnh phúc ngay trong “cõi
tạm” của hành trình hướng đến cõi cực lạc. Đến với Phật giáo, con người dường như
được thoát ra vòng quay khốc liệt của đời sống mưu sinh, được thoát khỏi sự xung đột
giữa cái tôi cá nhân hữu hạn và sự mong muốn vô hạn trong vòng xoáy tham, sân, si,
làm dịu đi những ham muốn để tìm thấy trạng thái cân bằng nội tâm cho một cuộc
sống thanh bình. Nó giúp cho con người có thể an nhiên trực diện cùng những vô
thường của đời sống, xua tan những muộn phiền thế tục, thiết lập mối qua hệ hài hoà
giữa con người với con người và con người với thế giới. Khi chúng ta nỗ lực để giải
thoát tâm linh thì tâm hồn con người sẽ trở nên thanh sạch, đời sống tinh thần thuần
khiết, cao thượng hơn. Đó chính là nguồn gốc của sự lương thiện và những giá trị đạo
đức hướng tới tha nhân nhiều hơn. Những tư tưởng này giúp cho hành giả diệt trừ ngã
chấp và pháp chấp, sống cuộc đời vô ngã, vị tha để: “Sống mình vì mọi người”, xây
dựng xã hội an lạc bằng cách hoàn thiện nhân cách từ mỗi cá nhân cho đến cả xã hội
mà tạo thành thế giới Cực Lạc ngay tại thế gian. Thứ ba, với quan niệm dùng trí tuệ để
phá bỏ vô minh, đạo Phật là tôn giáo đã biết đề cao giá trị của tri thức trên con đường
tìm kiếm chân lý. Mặc dù Tuệ trong cách hiểu của Phật giáo không chỉ là trí tuệ hiểu

theo nghĩa thông thường (học nhiều, biết rộng, hiểu sâu) mà là cái biết trên sự thực
hành, cái biết qua trực giác, cái biết của trí tuệ Bát nhã. Nhờ Tuệ đó mà con người mới
có thể nhận thức được quy luật và sông hài hoà với quy luật (quy luật về vô ngã, vô
thường, lý nhân duyên...). Đó là quá trình lấy minh để hoá giải vô minh, nó được ví
như ánh đèn xua tan bóng tối vô minh, là chiếc chìa khoá để mở cánh cửa đến Niết bàn
giải thoát. Sự lý giải như thế này trong tư tưởng Phật giáo thực sự là một cách đặt vấn
đề có tính nhập thế và khoa học.
2. Hạn chế : Từ trong lịch sử, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam
với rất nhiều những đóng góp tích cực cho sự phát triển của xã hội cả trong quá khứ và
hiện tại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những tư tưởng của triết học phật
giáo cũng còn một số hạn chế. Những hạn chế trong quan niệm về bản thể luận của
triết học Phật giáo là: Thứ nhất, trong tư tưởng Phật giáo, con người phải tìm giải thoát
vì cuộc đời là bể khổ, nỗi khổ nhiều hơn cát sông Hằng. Khát vọng đạt tới niết bàn vừa
“phản ánh sự nghèo nàn hiện thực” vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèp nàn hiện
thực ấy. Lý tưởng niết bàn là một lý tưởng đẹp đẽ. Tuy nhiên, sự lý giải về bản thể duy
nhất này, tuy là sự đoán định tinh tế từ trực giác tâm linh về tính thống nhất của thế
giới, nhưng lại như một yếu tố không dễ thực chứng nên rất khó nắm bắt. Sự giải thoát
chỉ thuần tuý về mặt tâm linh sẽ chưa làm thay đổi thực sự cuộc sống con người nơi
trần thế. Để an lạc, con người cần tìm thấy hạnh phúc cả trong cuộc sống thực tại chứ

18


không chỉ là “vầng hào quang nơi thần thánh”. Muốn vậy, ngoài giải thoát tâm linh,
con người phải hành động và tạo lập ra hạnh phúc cho chính mình và nhân loại bằng
việc bắt tay vào xây dựng và cải biến hiện thực để đạt tới ấm no hạnh phúc cả về mặt
vật chất và tinh thần. Con người phải nhận thấy rằng được sinh ra trên đời và được
sống làm người là một hạnh phúc lớn lao chứ không phải là “giả tạm”, để con người
sống yêu đời hơn, gắn bó với đời hơn chứ không chối bỏ cuộc đời vì những khổ đau,
bất hạnh. Thứ hai, quan niệm rằng thế giới hiện tượng là sự thể hiện muôn màu từ bản

thể duy nhất không phải không chính xác. Nhưng sự đoán định về cái bản chất nằm
sâu trong vô vàn các hiện tượng phong phú, phức tạp lại là những luận giải quá cao
siêu nên chỉ những người có trí tuệ bát nhã mới có thể thấu hiểu. Vì thế, các bộ Kinh
trên được đánh giá là một bộ kinh trừu tượng, khó hiểu ngay cả với nhiều người trong
quá trình tu tập. Thứ ba, quan niệm về con đường để trở về bản thể thông qua việc tu
tập thân tâm, loại trừ phiền não, thông qua tuệ giác không nên coi là con đường duy
nhất. Đây dường như chỉ là phép tu luyện tinh thần, thực hành đạo đức của con người
trong lộ trình sâu thẳm tìm về cõi tâm linh bí ẩn trong chính bản thân mình. Nó là điều
cần thiết nhưng chưa đủ để giải thoát triệt để con người khỏi những nỗi khổ của cuộc
đời.
Như vậy, Phật giáo, để thực sự là một tôn giáo - triết học không thể thiếu cho
đời sống tâm linh của con người và xã hội rất cần có sự phản tỉnh chính mình, tự điều
chỉnh cả trong tư tưởng và giáo lý để có thể hoà nhập và thực hiện trọn vẹn khát vọng
giải thoát của mình trong thế giới.

19



×