Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.85 KB, 17 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC










TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài:

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARISTOTLE
- NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ




NTH : PHAN THỊ HỒNG
STT : 61 – nhóm 7
LỚP : ĐÊM 5 – K21
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA






TP.HCM 02/2012

PHỤ LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARISTOTLE TRONG CÁC LĨNH
VỰC ……………………………………………………………………… 2
1.1. Thuyết nguyên nhân – Cơ sở siêu hình học: 2
1.2. Nhận thức luận: 2
1.2.1. Thực thể là bản chất sơ đẳng của sự vật: 3
1.2.2. Vật chất và hình thức: 4
1.3. Lôgic học: 4
1.4. Vật lý học: 5
1.5. Nhân bản học: 6
1.6. Học thuyết chính trị - xã hội: 7
1.7. Đạo đức học: 8
1.8. Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Aristotle: 9
Chương 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG CỦA ARISTOTLE 10
2.1. Giá trị: 10
2.2. Hạn chế: 12
KẾT LUẬN 14
SÁCH THAM KHẢO 15













Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU

Từ buổi ban đầu của văn minh lịch sử nhân loại, con người đã khát khao
hiểu biết được vũ trụ và thế giới tự nhiên, luôn đặt ra những câu hỏi nhằm làm rõ
nguyên lý của các sự vật hiện tượng và cố gắng giải thích chúng. Khi con người
bắt đầu nghiên cứu về thế giới và con người với tư cách là một chỉnh thể, với
mong muốn tìm ra những quy luật chung nhất, chi phối sự vận động của chỉnh
thể đó nói chung và của xã hội loài người, và thể hiện nó một cách có hệ thống
dưới dạng duy lí, thì từ đó các tư tưởng triết học đầu tiên được hình thành.
Trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, Aristotle là một trong số những triết
gia lớn nhất, ông đã để lại cho hậu thế một di sản triết học đồ sộ, mà những học
thuyết của Aristotle đã chi phối khoa học Âu châu trong suốt hơn 1000 năm dưới
thời trung đại.
Quá trình tìm hiểu tài liệu và viết đề tài về Aristotle đã đem lại cho người
viết những kiến thức bổ ích và thú vị. Cách sống, học tập và làm việc của
Aristotle thực sự là tấm gương cho những người muốn tìm hiểu, học hỏi nền tri
thức của nhân loại. Bằng những cố gắng tìm hiểu về các tác phẩm của ông, và
những khảo cứu của các tác giả về triết học Aristotle, người viết cố gắng trình
bày một cách ngắn gọn tư tưởng của Aristotle với những giá trị và hạn chế của nó
đối với xã hội thời bấy giờ.
Người viết đã dùng những tài liệu sau để làm tài liệu tham khảo như: Đại
cương về lịch sử triết học của TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên); Triết học và bức
tranh vật lý học về thế giới của TS Bùi Văn Mưa; Những Câu Chuyện Triết Học

của Will Durant do Trí Hải và Bửu Đích biên dịch; Quá trình chuyển biến tư
tưởng Phương Tây của Richard Tarnas.

Trang 2
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARISTOTLE
TRONG CÁC LĨNH VỰC
1.1. Thuyết nguyên nhân – Cơ sở siêu hình học:
Trong thế giới xung quanh, chúng ta thấy các sự vật không ngừng thay
đổi, chúng chuyển động, tăng trưởng, sinh sản, hư hoại và thối rữa.v.v… Một
trong số chúng là tự nhiên, và một số khác là thay đổi do con người tác động. Các
sự vật không ngừng mang những hình thức mới; luôn luôn có những đời sống
mới phát sinh; những bức tượng mới được tạc. Về bất cứ sự vật nào, Aristotle
nói: chúng ta có thể hỏi 4 câu hỏi sau: (1) Nó là gì? (2) Nó được làm bằng gì? (3)
Nó được làm ra bởi cái gì? (4) Nó được làm bởi mục đích gì? Bốn câu trả lời cho
những câu hỏi này được Aristotle mô tả là 4 nguyên nhân. Như vậy 4 nguyên
nhân của ông là một khung rộng lớn để giải thích toàn diện về bất cứ sự vật hay
mọi sự vật.
Tất cả các sự vật trong thế giới này, sự hiện hữu của chúng có được là nhờ
ở bốn nguyên nhân này. Trong bốn nguyên nhân này, căn cứ vào chức năng của
chúng, Aristotle phân chúng thành 2 nhóm. Nhóm 1 là nguyên nhân vật chất và
nhóm 2 gồm có nguyên nhân hình thức, nguyên nhân vận động và nguyên nhân
mục đích. Theo lập luận của Aristotle thì trong nguyên nhân hình thức đã dung
chứa nguyên nhân vận động và nguyên nhân mục đích. Vậy trên thực tế tồn tại
chỉ xuất hiện từ 2 nguyên nhân là nguyên nhân vật chất và nguyên nhân hình
dạng.
Do vậy ý nghĩa của học thuyết 4 nguyên nhân trở nên hạn hẹp và sự lý
giải về tồn tại cũng vẫn chỉ giới hạn ở trong lập trường nhị nguyên luận.
1.2. Nhận thức luận:
Trong tác phẩm nhan đề Siêu hình học của mình, Aristotle khai triển cái
mà ông gọi là triết học đầu tiên. Trong Siêu hình học, ông tập trung khai triển

một loại tri thức mà ông nghĩ có thể gọi một cách chính đáng là minh triết (hay
sự khôn ngoan). Tác phẩm này bắt đầu bằng phát biểu rằng: “Mọi người tự bản
Trang 3
chất đều muốn hiểu biết”. Theo ông tri thức có những cấp bậc khác nhau, và Siêu
hình học nghiên cứu về cấp trừu tượng cao nhất. Đây là tri thức trừu tượng vì nó
nói về cái phổ biến chứ không nói về cái riêng. Trong khi các khoa học khác đi
tìm câu trả lời cho câu hỏi:“Các nguyên lý và nguyên nhân đầu tiên của các sự
vật như thế nào và tại sao? ”thì Siêu hình học của Aristotle lại quan tâm đến vấn
đề “tồn tại nghĩa là gì? ”
Bắt đầu từ trường phái Elée quan niệm về tồn tại đã trở thành vấn đề trung
tâm của triết học cổ đại. Việc thừa nhận tồn tại trở nên đơn giản hơn nhiều so với
những cuộc tranh luận, thậm chí là luận chiến về bản chất của tồn tại. Aristotle đã
tiếp nối các bậc tiền nhân như: Parménide, Démocrite, Socrat và người thầy của
mình, Plato. Theo Aristotle vấn đề chính của Siêu hình học là nghiên cứu cái hiện
hữu cùng các “nguyên lý” và “nguyên nhân” của nó. Theo Aristotle “tồn tại”
luôn luôn có nghĩa là một cái gì đó. Vì vậy, mọi tồn tại đầu là một cá thể và có
một bản chất xác định. Mọi phạm trù mà Aristotle trình bày trong các tác phẩm
lôgic học, các phạm trù như: phẩm chất, tương quan, tư thế, địa điểm, v.v… đều
giả thiết có một chủ thể mà những thuộc tính này có thể gán vào. Chủ thể này
được Aristotle gọi là thực thể (ousia). Do đó, “tồn tại” có nghĩa là một thứ thực
thể cụ thể do kết quả của một quá trình hoạt động. Như thế Siêu hình học gắn liền
với cái hiện hữu (nghĩa là thực thể tồn tại) và các nguyên nhân của nó (nghĩa là
quá trình làm cho các thực thể trở nên tồn tại).
1.2.1. Thực thể là bản chất sơ đẳng của sự vật:
Mối quan tâm trọng yếu của Siêu hình học là nghiên cứu về thực thể, bản
chất cốt yếu của một vật. Thực thể là cái chúng ta biết là cơ bản một vật, từ đó
chúng ta có thể nói các điều khác về nó. Bất cứ khi nào chúng ta xác định cái gì
đó, thì chúng ta đi vào bản chất của nó trước khi có thể nói điều gì về nó. Đương
nhiên cùng một thực thể nhưng vẫn tồn tại những phẩm chất đặc thù riêng biệt
nhất định, và chúng cùng mang một đặc tính phổ quát nào đó giúp chúng ta nhận

dạng chúng.
Trang 4
Một khi đã có những phân biệt này làm tiền đề, Aristotle đã bắt đầu đi tìm
hiểu xem bản chất này hay cái phổ quát, có tương quan thế nào với sự vật riêng
biệt. Hay nói cách khác là ông muốn tìm hiểu xem cái gì làm cho một thực thể là
một thực thể, cái gì làm nền cho nó? vật chất hay hình thức?
1.2.2. Vật chất và hình thức:
Mặc dù Aristotle phân biệt giữa vật chất và hình thức, nhưng ông nói,
trong tự nhiên chúng ta không bao giờ gặp thấy vật chất mà không có hình thức,
hay hình thức mà không có vật chất. Mọi sự vật tồn tại đều là một sự vật cá thể
và cụ thể, và mọi sự vật đều là một thể thống nhất của vật chất và hình thức. Do
đó, thực thể là một sự tổ hợp của vật chất và hình thức.
Theo Aristotle từ khởi đầu trong vũ trụ đã có vật chất, đó là vật chất thuần
tuý chưa bị giới hạn trong bất kỳ một hình thức nào cả. Nó tồn tại trong trạng thái
không tồn tại, nghĩa là nó chưa là cái gì cả nhưng lại tồn tại với tư cách là khả
năng trở thành một cái gì đó. Dạng vật chất này không do ai sinh ra và cũng
không mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn nhưng tồn tại thụ động. Trong mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, Aristotle lại thừa nhận hình thức là bản chất của vật chất
là tính thứ nhất so với vật chất. Như vậy với Aristotle các sự vật hiện tượng của
thế giới này được hình thành từ 2 khởi nguyên (vật chất và ý thức). Ông đã đứng
trên lập trường nhị nguyên để giải quyết vấn đề tồn tại.
1.3. Lôgic học:
Aristotle là người sáng lập ra lôgic học hình thức và là người khám phá ra
các qui luật cơ bản của tư duy lôgic như qui luật đồng nhất, qui luật cấm mâu
thuẫn, qui luật loại trừ cái thứ 3. Ông khẳng đình hình thức của tư duy là sự phản
ánh các hình thức tồn tại của sự vật. Ông đã đưa ra một hệ thống phạm trù gồm
10 phạm trù: bản chất, chất lượng, số lượng, vị trí, thời gian, quan hệ, tình trạng
chiếm hữu, hành động và chịu đựng. Theo Aristotle, những phạm trù này là sự
phân loại các khái niệm được dùng trong nhận thức khoa học. Chúng là những
cách thức biểu hiện chuyên biệt của bất cứ sự vật nào tồn tại. Học thuyết về các

Trang 5
phạm trù của Aristotle đã được nhận xét như sau: “mặc dù còn mang tính trực
quan, cảm tính, số lượng các phạm trù còn hạn chế nhưng đó là những phạm trù
phản ánh những hình thức cơ bản, phỏ biến của tồn tại và có ý nghĩa to lớn trong
việc nghiên cứu những hình thức của tư duy, công cụ của nhận thức. Vì vậy
không thể phủ nhận các phạm trù của Aristotle là sự thống nhất giữa nhận thức
luận, bản thể luận và ngôn ngữ”.
Trong Lôgic học của mình, Aristotle quan niệm rằng để chuyển những suy
tư của chúng ta về sự tồn tại và hoạt động của sự vật thì ngôn từ chính là phương
tiện truyền tải quan trọng nhất. Do đó, ngôn ngữ chính là công cụ để phát biểu
những tư duy khoa học. Vì thế lôgic học là sự phân tích về ngôn ngữ, về tiến
trình suy luận và về cách thức mà ngôn ngữ và suy luận liên quan đến thực tại.
Do rất quan tâm đến sự chặt chẽ của hệ thống lý luận và ‘thích thú với cắt nghĩa
chứng minh’, Aristotle đã khai triển về cách suy luận diễn dịch và hình thành nên
học thuyết Tam đoạn luận.
Mặc dù hệ thống lôgic học của Aristotle chưa thực sự hoàn hảo. Thế
nhưng, chúng ta có thể nói không có một lôgic nào hơn lôgic của ông ở thời cổ
đại. Đây chính là cống hiến to lớn của Aristotle cho sự phát triển của tư duy nhân
loại.
1.4. Vật lý học:
Một trong những vấn đề quan trọng của Triết học phải được xem xét và
giải quyết là vấn đề vận động. Quan niệm vận động được Aristotle đề cập cả
trong Siêu hình học và Vật lý học. Trong Siêu hình học Aristotle đã chia thành 4
dạng vận động cơ bản là: 1) Tăng và giảm; 2) Biến đổi về chất; 3) Xuất hiện và
diệt vong; 4) Chuyển dịch vị trí.
Trong 4 dạng vận động này thì dạng vận động chuyển dịch vị trí trong
không gian được xem là quan trọng nhất vì nó là điều kiện của 3 dạng còn lại.
Tăng hay giảm chỉ là sự dời đổi vị trí không gian. Còn nguyên nhân dẫn
đến sự biến đổi về chất trong vật thể là do kết cấu của vật thể đang biến đổi mà
điều kiện của biến đổi kết cấu là vận động trong không gian. Sự xuất hiện và diệt

Trang 6
vong của sự vật không thể xảy ra cùng một lúc. Vậy cái được gọi là xuất hiện hay
diệt vong chỉ là sự biến đổi từ đặc tính này sang đặc tính khác và điều để xuất
hiện diệt vong là vận động trong không gian.
Theo Aristotle vận động chỉ đơn giản là “sự di chuyển vị trí của các vật thể”.
Aristotle đã đúng khi khẳng định vận động là sự biến đổi nói chung nhưng sự
biến đổi đó không thể chỉ dừng lại ở biến đổi về mặt vị trí trong không gian.

Aristotle đặt con người vào trong tự nhiên theo bậc thang giá trị của hiện
hữu để phân biệt con người với các động vật vô hồn và động vật. Trong vật lý
học, ông nói rằng “Trong số các vật tồn tại, một số tồn tại do bản chất tự nhiên,
một số tồn tại do các nguyên nhân khác. ‘Do bản chất tự nhiên’, các động vật và
các bộ phận của chúng tồn tại”. Ông khẳng định không thể hiểu thế giới tự nhiên
nếu không bắt đầu từ sự vận động, và mọi sự vận động đều mang tính mục đích,
đều được sắp xếp ngay từ ban đầu. Những sự bàn luận về thế giới tự nhiên có vận
động hay không vận động chỉ là những ý tưởng thiếu nghiêm túc. Aristotle cho
rằng nguyên nhân của sự vận động nằm ở bên ngoài sự vật, ban bố cho sự vật
những sinh lực khởi động ban đầu. Ông nói: “Hằng ngày nhìn thấy mặt trời đi
qua bầu trời, còn buổi tối là sự chuyển động hài hoà của các thiên thể khác,
không thể không cho rằng có một Thượng đế tạo ra sự chuyển động và hài hoà
ấy”.
Vũ trụ theo Aristotle là hữu hạn và khép kín về không gian và vĩnh viễn về
thời gian. Ông còn quan niệm có một loại nguyện tử thứ 5 mang đầy chất linh
thiêng được ông gọi là ê-te cùng kết hợp với 4 hành chất: đất, nước, lửa và không
khí cùng cấu tạo nên sự vật. Như vậy, vật lý học của Aristotle cũng chỉ là sự trộn
hòa giữa duy tâm và duy vật.
1.5. Nhân bản học:
Khi nhìn thấy một sự vật đang tồn tại, ta liên tưởng ngay rằng đó chính là
sự kết hợp của vật chất và ý thức. Trong khi đó, khi nhắc đến con người thì
Aristotle lại cho rằng đó là sự gắn kết của linh hồn và thể xác, trong sự kết hợp

này thì linh hồn giữ vai trò chủ đạo “linh hồn là công thức quyết định bản chất
Trang 7
của sự vật”. Theo Aristotle cả hai linh hồn và thể xác không thể tồn tại thiếu
nhau, nhưng chúng không phải đồng nhất là một. Ông nói: “Chúng ta có thể hoàn
toàn bác bỏ câu hỏi: Linh hồn và thể xác có phải là một hay không? Câu hỏi này
cũng vô nghĩa như câu hỏi sáp và hình thù trao cho sáp có phải là một hay
không?”.
Aristotle phân biệt các loại hồn để diễn tả ba cách tổ chức khác nhau của
một cơ thể. Ông gọi là Thảo hồn (linh hồn thực vật), Giác hồn (linh hồn động
vật) và Linh hồn (linh hồn lý tính). Chúng biểu hiện các khả năng hoạt động khác
nhau của một cơ thể: loại thứ nhất chỉ là chức năng sống đơn thuần. Loại thứ hai
là sống bằng cảm giác, nó có khả năng cảm ứng đối với môi trường xung quanh
thông qua các biểu tượng cảm tính, qua nhu cầu và vận động. Loại thứ ba là linh
hồn lý tính, loại này có khả năng nhận thức, làm chủ được các quá trình tư duy
của nó, là dạng linh hồn cao nhất và chỉ có duy nhất ở con người.
1.6. Học thuyết chính trị - xã hội:
Cũng như trong đạo đức học, Aristotle lại một lần nữa nhấn mạnh yếu tố
mục đích. Nhà nước cũng như con người được Aristotle gắn với nhau rất chặt
chẽ. Ông khẳng định: “ai không thể sống trong xã hội, hay không có nhu cầu vì
tự mình đầy đủ cho mình, người ấy là một con vật hay là một vị thần”. Nếu gia
đình tồn tại trước hết là để duy trì sự sống, thì nhà nước là để duy trì sự sống cho
các gia đình và làng xóm. Do nhu cầu lâu dài, gia đình và làng xóm không đáp
ứng được nhu cầu cho chính mình. Vì thế nhà nước không phải là hiện thân của
sự thống trị mà sứ mệnh của nhà nước là đảm bảo hạnh phúc và công lý cho mọi
người, trừ nô lệ.

Theo ông, trong một số trường hợp có thể tổ chức thành ba loại chính
quyền khác nhau: do một, một ít hay nhiều người cai trị. Các hình thức chính
quyền chân chính gồm có: chế độ quân chủ (một), quí tộc (một ít) và tổ chức nhà
nước (nhiều). Các hình thức suy đồi gồm: chế độ chuyên quyền (một), đầu sỏ

(một ít) và dân chủ (nhiều).
Trang 8
Trong các hình thức nhà nước, Aristotle ủng hộ chế độ quân chủ, theo ông
đó là nhà nước ưu việt nhất. Ngược lại ông lên án nhà nước của bạo chúa là nhà
nước trái với bản chất của con người. Với Aristotle, xét đoán một nhà nước
không phải ở hệ thống tổ chức của nó mà ở những phúc lợi mà nó mang lại cho
toàn thể xã hội. Bởi thế, bản thân ông vẫn thích chế độ quý tộc hơn. Trong chế độ
quý tộc, việc cai trị do một nhóm người có trình độ, tài năng và của cải khiến họ
có trách nhiệm và năng lực lãnh đạo hơn.
1.7. Đạo đức học:
Giống như ở Siêu hình học, Aristotle tiếp tục thể hiện sự bất đồng quan
điểm của mình với Platon. Ông nhấn mạnh con người là một sinh vật như mọi sự
vật khác trong thiên nhiên chứ không phải thần thánh, nó có bản năng sống của
nó, có một “mục đích” đặt trưng phải đạt tới hay một chức năng phải hoàn thành,
vì vậy hạnh phúc của nó ở ngay trần gian này chứ không phải ở một thế giới vĩnh
viễn, siêu cảm đầy thần bí như của Platon. Bởi vì con người cần phải có một
“mục đích” đặc trưng, thế nên Đạo đức học của Aristote còn được gọi là mục
đích luận. Ông mở đầu Đạo đức học Nichomachus bằng câu: “Mọi nghệ thuật và
mọi sự tìm tòi, cũng như mọi hành động và mọi sự theo đuổi đều được nghĩ là
nhằm tới một cái thiện nào đó…” Theo Aristotle, để khám phá điều tốt lành mà
con người phải nhắm tới, chúng ta phải khám phá những chức năng đặc trưng của
bản tính con người. Người tốt theo Aristotle là người hoàn thành chức năng của
mình như một con người. Như vậy có nghĩa là mỗi con người cần vượt lên trên
cả sự cảm thông, chia sẻ và tôn trọng để đến với sống thực, sống đúng với chính
mình và sống với cái gì mình đang có chứ không sống với những thứ mà mình
chưa có.
Đạo đức là cái vốn có của con người, trong đó quan trọng nhất là phẩm
hạnh. Phẩm hạnh của mỗi con người được biểu hiện trong quan niệm và thái độ
đối với hạnh phúc cũng như những hành động trong điều kiện không có sự giám
sát của người khác. Aristotle chia phẩm hạnh ra làm hai loại:

Trang 9
1) Phẩm hạnh trí tuệ: là sự khôn ngoan triết học và hiểu biết, chúng phát
sinh và tăng trưởng nhờ dạy dỗ và học tập. Người có phẩm hạnh trí tuệ là người
có tri thức kinh nghiệm, định hướng và làm chủ được trong đời sống của mình.
2) Phẩm hạnh luân lý: Mọi phẩm hạnh luân lý phải được học và thực
hành, chúng trở thành đức hạnh qua hành động. Các phẩm hạnh luân lý cốt yếu
là: can đảm, tiết độ, công bằng, khôn ngoan, cao thượng, hào phóng, bằng hữu và
tự trọng.
Với những quan niệm này chứng tỏ Aristotle đã nhận thấy sự ảnh hưởng
của ngoại cảnh tác động đến việc hình thành đạo đức và nhân cách của con
người. Mặc dù vậy, khi đứng trên lập trường giai cấp Aristotle đã không coi nô lệ
là người và ông khẳng định đạo đức của họ không giống với đạo đức của chủ nô.
Đây chính là điểm bất hợp lý trong quan niệm đạo đức của Aristotle.
1.8. Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của
Aristotle:
Vượt qua những bậc thầy tiền bối của mình về mặt nghiên cứu thế giới
nghệ thuật, ông đã bước qua ngưỡng cửa của thế giới đầy nhạy cảm này và khai
sinh ra một bộ môn khoa học mới, đó là Mỹ học (Aesthetics).
Cơ sở lý luận của Mỹ học Aristotle là quan niệm về sự thống nhất giữa vật
chất và hình dạng. Nghệ thuật không phải là ý niệm mà là toàn bộ hoạt động vật
chất và sản phẩm tạo ra trong quá trình hoạt động đó của con người. Do vậy
nhiệm vụ của nghệ thuật là phản ánh hiện thực thông qua sự mô phỏng, bắt
chước. Ông khẳng định nghệ thuật mô phỏng thiên nhiên và truyền đạt thông tin
về thiên nhiên: “Nghệ thuật trong một số trường hợp hoàn thành những cái mà
giới tự nhiên không thể làm được, trong một số trường hợp khác mô phỏng nó”.
Thế nhưng, mỗi dạng nghệ thuật có cách mô phỏng, bắt chước riêng.
Trang 10
Chương 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG
CỦA ARISTOTLE
2.1. Giá trị:

- Aristotle là người đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học
trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, Ông là người đầu tiên đã xây dựng một hệ
thống các phạm trù. Các phạm trù của Aristotle là kết quả của một sự phân tích
có hệ thống những vấn đề nhận thức luận và bản thể luận của tư tưởng triết học
Hy Lạp cổ đại. Chúng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển tư tưởng triết học
trong các giai đoạn tiếp theo và là một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng
của học thuyết duy vật về các phạm trù.
- Tam đoạn luận đã giữ một vai trò quan trọng trong nền Triết học sau
này do tạo nên các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristotle
đã phân biệt rõ hai thứ là biện chứng và phân tích. Theo Aristotle, biện chứng chỉ
trắc nghiệm các ý kiến xét theo tính nhất quán về lý luận, còn các công trình phân
tích (được suy diễn từ các nguyên tắc dựa trên các kinh nghiệm và quan sát rõ
ràng). Đây là sự khác biệt với lập trường của Hàn Lâm Viện của Platon, nơi cho
rằng biện chứng là phương pháp duy nhất thích hợp với Khoa học và Triết học.
- Aristotle không chỉ nghiên cứu những quy luật lôgích của tư duy con
người, mà còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết học. Như
vậy, hệ thống triết học tự nhiên của Aristote đã đề cập đến nhiều vấn đề thực tế
hơn, dẫn đến nhiều kết luận phù hợp với thực tại xung quanh. Do đó, nó ảnh
hưởng trực tiếp hơn đến khoa học tự nhiên. Aristotle đóng góp rất nhiều không
những cho triết học mà còn với sinh học, những công trình về sinh học chứng tỏ
ông là một nhà thực nghiệm giỏi.
- Ông có nhiều đóng góp về lôgic học. Ông đưa ra các quy luật cơ bản của
lôgic hình thức. Ông được coi là cha đẻ của lôgic hình thức với việc khám phá ra
các quy luật cơ bản của tư duy lôgic như quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu
thuẫn trong tư duy và quy luật loại trừ cái thứ ba. Ngoài ra, ông còn có những tư
Trang 11
tưởng quý báu về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa quy
nạp và diễn dịch…
- Nhiều nhà triết học macxít đã coi Aristotle là người mở đầu lịch sử tư
duy triết học, là người đã giải phóng triệt để tư duy tiền khoa học, là người đầu

tiên đã tổng kết, khái quát lịch sử tri thức nhân loại và đưa triết học phát triền lên
tầm cao mới nhờ việc phê phán học thuyết về “con số" của Pitago, học thuyết về
“ý niệm" của Platon. Có lẽ là như vậy, lịch sử triết học đã ra đời từ đó. Nét đặc
biệt của thời đại Aristotle chính là giai đoạn tổng kết và tích luỹ tri thức mà
người cổ đại đã đạt được là giai đoạn mà sự vận động và tiến bộ xã hội diễn ra rất
nhanh, trên nền tảng ấy triết học phát triển và đã đem lại một cách nhìn mới về
thế giới trong một chỉnh thể thống nhất.
- Aristotle trong các tác phẩm về giáo dục, chính trị học và đạo đức học
đã đưa ra những quan điểm hết sức sâu sắc về vai trò, mục đích của giáo dục, về
hệ thống giáo dục và sư phạm học Theo Aristotle, do bản chất của mình, con
người vốn đã có những năng khiếu đặc biệt, nhưng chỉ có thể bằng giáo dục thì
con người mới học được cách làm người, mới trở thành con người thực thụ, con
người hoàn thiện. Chính thông qua giáo dục mà nền văn hoá của nhân loại được
tạo dựng. Điều mà ông nói về vai trò của giáo dục trong xã hội, về một hệ thống
giáo dục thường xuyên và một nền giáo dục cho hòa bình, về sư phạm học đã
khiến cho những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục hiện thời phải suy
ngẫm.
- Những tư tưởng triết học của Aristotle phác thảo ra đã định hướng cho
sự thống trị tư tưởng phương Tây. Đáng kể nhất là hệ thống bách khoa toàn thư
của Aristotle mà hầu hết hoạt động khoa học của phương Tây cho tới thế kỷ
XVII đựơc thực hiện dựa trên nền những tác phẩm của ông từ thế kỷ IV trước
Công nguyên, và ngay cả khi khoa học đã vượt xa ông, người ta vẫn tiếp tục
theo định hướng ấy và tiếp tục sử dụng công cụ nhận thức của ông.
Trang 12
2.2. Hạn chế:
- Bên cạnh những tri thức khoa học đúng đắn mà Aristotle đem đến cho
loài người ông cũng không thể tránh khỏi những sai lầm do hạn chế của thời đại.
Một số tư tưởng của ông phản lại những tiêu chuẩn đạo đức ngày nay. Ví dụ, ông
tin vào sự kém cỏi tự nhiên của người phụ nữ hay ông ủng hộ chế độ nô lệ. Theo
Aristotle, có hai loại nô lệ: những kẻ sinh ra đã là nô lệ và những kẻ bị buộc làm

nô lệ. Aristotle lập luận như sau: những kẻ nào mà trời sinh ra kém thông minh,
không làm gì được khác hơn là chỉ làm những việc lao động chân tay, thì những
kẻ ấy trời sinh ra làm nô lệ, ngoài ra những kẻ chiến bại là những kẻ bị buộc làm
nô lệ. Aristotle còn cho rằng đối với những người như vậy có được chủ nhân là
điều tốt cho họ. Lập luận của Aristotle về nô lệ dĩ nhiên là không còn hợp với
thời đại chúng ta, nhưng nô lệ là một thành phần không thể thiếu được trong xã
hội Hy Lạp thuở đó. Quan niệm của Aristotle về phụ nữ và vai trò của họ là lo
việc quản trị gia đình. Aristotle quan niệm: "người nam do bản chất tự nhiên,
ngoại trừ trường hợp bị tật bẩm sinh, thích hợp với vai trò chỉ huy hơn là người
nữ”. Dĩ nhiên, những nhận định này cũng tương tự như quan niệm về nô lệ, nay
đã lỗi thời nhưng có lý trong bối cảnh xã hộ đương thời.
- Sự do dự giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm đã đưa Aristotle đến với
chủ nghĩa nhị nguyên khi ông đưa ra thuyết nguyên nhân thay cho thuyết ý niệm.
Khi bàn về các vấn đề siêu hình học, Aristotle chuyển từ lập trường nhị nguyên
sang duy tâm, ông đã rơi vào mục đích luận của Thần học. Tại đây, thay vì phải
tách xa thuyết ý niệm của Platon thì ngược lại thuyết nguyên nhân của Aristotle
lại tiến gần, thậm chí hòa nhập vào thuyết ý niệm của Platon.
- Là một nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô, dưới con mắt của Aristotle,
mọi công dân có đạo đức đều có quyền cai trị. Tuy nhiên, ông quan niệm rằng chỉ
có những pháp quan và những ông vua thông thái, những người có phẩm chất
đạo đức ưu việt, vượt lên trên tất cả những người khác, có trí tuệ và kỹ năng lãnh
đạo mới có thể dẫn dắt đám đông quần chúng. Aristote luôn luôn tìm cách tránh
sự quá khích, ông rất sợ tình trạng hỗn loạn trong xã hội đến nỗi đã lên tiếng
Trang 13
bênh vực chế độ nô lệ. Những người nô lệ không có chỗ đứng trong thể chế
chính trị, họ chỉ được coi là những “công cụ” và dành cho các công việc “hèn
hạ”.
- Ông thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét
khoa học. Những quan điểm về vật lý tự nhiên của Aristotle có nhiều sai lầm
nghiêm trọng như: thuyết địa tâm xem Trái đất là trung tâm của vũ trụ hay phủ

nhận thuyết chân không, quan điểm vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, những sai
lầm này đã ảnh hưởng tới nền khoa học tự nhiên mấy trăm năm sau khi ông mất.
- Chúng ta cũng có thể bất đồng ý kiến với Aristotle về tam đoạn luận, khi
Aristotle cho rằng tam đoạn luận là một lối suy luận thông thường và chính xác
trong khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi rằng tam đoạn luận cũng là
một mánh lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư tưởng con người đi từ
các nguyên đề để tìm ra kết luận trong khi trên thực tế có rất nhiều trường hợp
con người đi tìm kết luận trước rồi mới cố đặt ra những nguyên đề để chứng
minh kết luận của mình.
- Công trình nghiên cứu của Aristotle về đạo đức học bị ảnh hưởng quá
nhiều của luận lý học. Kết quả là đã tạo ra một công trình quá khô khan không
đủ sức ảnh hưởng và thúc đẩy con người tự cải thiện. Lý tưởng của Aristotle quá
đặt trọng vào một cuộc sống bình thản, quá ôn hòa, một đời sống chỉ phù hợp với
giai cấp thượng lưu.









Trang 14
KẾT LUẬN

Tìm hiểu về triết gia Aristotle và nền học thuật của ông khi biết rằng ở thời
đại của ông tri thức sơ khai còn hạn hẹp và tư duy trừu tượng còn chưa phát triển,
thế nhưng đã khiến chúng ta phải thán phục, ngưỡng mộ sự nổi bậc về các nghiên
cứu khoa học sáng tạo và thực tiễn của Aristotle .

Tuy Aristotle có những sai lầm trong quan điểm ở một số lĩnh vực nhưng
điều đó cũng không thể chối bỏ được ông là người không ai có thể thay thế trong
tiến trình phát triển của loài người, bởi chính ông đã lập nên một chuỗi hệ thống
nghiên cứu khoa học đồ sộ gồm nhiều ngành khác nhau. Ông đã có công hệ
thống hóa triết học trong thế giới cổ đại với một sự chính xác đến mức kinh ngạc,
là người đã vạch ra cả cấu trúc lôgic của các quan điểm, các học thuyết triết học
trước đó, đem lại sự tường minh cho các vấn đề phức tạp. Aristotle không chỉ là
người đã có công tổng kết tư tưởng triết học, làm sống lại những tư tưởng của các
bậc tiền bối, mà còn là người tổ chức, định hướng cho công tác nghiên cứu và
phát triển triết học của những người kế tục ông.
Aristotle đã đặt nền móng cho một hệ thống tư tưởng vững chắc và giúp
cho các thế hệ tương lai dựa vào đó để phát triển sự nghiên cứu tiến lên trên con
đường tìm chân lý, và có thể nói những nền văn minh kế tiếp đều mang một món
nợ tinh thần đối với những tư tưởng của Aristotle.









Trang 15
SÁCH THAM KHẢO

1. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần I Đại cương về lịch sử triết
học, Khoa lý luận chính trị tiểu ban triết học Trường ĐHKT TpHCM,
2011
2. Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Thế Giới, Văn Nghệ tái bản tại Hoa Kỳ, 1994.

3. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, Nxb Tổng Hợp
Tp.HCM, 2006.
4. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Thanh - Nguyễn Anh Tuấn, Đại cương Lịch sử
Triết học Phương Tây, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2006.
5. SAMUEL ENOCH STUMPF, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy (dịch), Lịch
Sử Triết Học và Các Luận Đề, Nxb Lao Động, 2006.
6. TED HONDERICH (chủ biên), Hành trình cùng Triết Học, Nxb Văn Hoá
Thông Tin - Hà Nội, 2006.
7. SAMUEL ENOCH STUMPF & DONALD C. ABEL, Lưu Văn Hy (dịch),
Nhập Môn Triết Học Phương Tây, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2006.
8. BRYAN AGEE, Huỳnh Phan Anh-Mai Sơn (dịch), Câu Chuyện Triết
Học, Nxb Thống Kê - Hà Nội, 2003.

×