Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.04 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
LỚP CAO HỌC CH26P
-------o0o-------

BÀI TIỂU
LUẬN
Đề tài: Triết học và vai trò của triết học đối với
sự phát triển kinh tế thị trường
Môn học

: Triết học

Giáo viên hướng dẫn

: GV. Lê Ngọc Thông

Sinh viên thực hiện

: Bùi Nữ Linh Trang

Năm 2017
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện

MỤC LỤC
: GV. Lê Ngọc Thông......................................................................1
: Bùi Nữ Linh Trang.................................................................1


CHƯƠNG I........................................................................................................................... 1
TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG..............................1


1. Triết học:........................................................................................................................ 1
1.1 Triết học là gì?:........................................................................................................1
1.2. Nguồn gốc của triết học:.........................................................................................1
1.2.1.Nguồn gốc nhận thức:...........................................................................................1
1.2.2.Nguồn gốc xã hội:..................................................................................................2
1.3. Đối tượng của Triết học, sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch
sử:.................................................................................................................................... 2
1.4. Vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm triết học:
......................................................................................................................................... 3
1.4.1.Vấn đề cơ bản của triết học:................................................................................3
1.4.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong triết học:................................................................................................4
1.4.2.1. Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản:...................................................4
1.4.2.2. Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản:.................................................4
1.5. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội:...........................................................5
1.5.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận.......................................................5
1.5.1.1. Vai trò thế giới quan của triết học...................................................................5
1.5.1.2. Vai trò phương pháp luận của triết học..........................................................6
1.5.2. Vai trò của triết học Mác - Lê nin.......................................................................6
2. Nền kinh tế thị trường:.................................................................................................8
CHƯƠNG II....................................................................................................................... 10
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 10
1. Vai trò của triết học về việc phát triển kinh tế là một quá trình lịch sử - tự nhiên 10
1.1. Quá trình lịch sử - tự nhiên như thế đã thể hiện rõ trong lịch sử phát triển của
phương Tây..................................................................................................................10
1.2. Vai trò của triết học với bản chất của quá trình phát triển kinh tế thị trường 11
1.2.1. Mối quan hệ giữa con người với con người hình thành và phát triển trong
quá trình lao động và sản xuất được xã hội hoá........................................................11
1.2.2. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.........................................................11
1.3. Vai trò của triết học với hình thái kinh tế - xã hội của quá trình phát triển kinh

tế thị trường.................................................................................................................12
2. Những giới hạn của chủ nghĩa tư bản và xu thế thời đại hiện nay..........................15
2.1. Về giới hạn của chủ nghĩa tư bản........................................................................15


2.2. Xu thế thời đại kinh tế mới của quá trình lịch sử - tự nhiên.............................16
2.2.1. Về kinh tế: .........................................................................................................16
2.2.2. Về văn hoá - xã hội: ..........................................................................................17
2.2.3. Về chính trị:........................................................................................................17
3. Quy luật phát triển rút ngắn - một đặc điểm mới của quá trình lịch sử - tự nhiên
phát triển kinh tế thị trường hiện đại............................................................................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................................21


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Triết học:
1.1 Triết học là gì?:
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ III trước công nguyên.
- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và
nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao.
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng
mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với
lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia
-nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định
hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao nhất của

tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm
sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là:
triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối
sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc
sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó.
1.2. Nguồn gốc của triết học:
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống,
song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng
sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.
1.2.1.Nguồn gốc nhận thức:
+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con
người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ
đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân
theo quy luật nào không, trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
1


+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó,
triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ
thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
1.2.2.Nguồn gốc xã hội:
Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động
chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai
cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học
xuất hiện đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp,
những lực lượng xã hội nhất định.
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính

chất tương đối.
1.3. Đối tượng của Triết học, sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử:
- Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao hàm trong nó
tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy
sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học.
- Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực
đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ
lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị
thay thế bởi nền Triết học kinh viện.
- Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn
khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các
khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học - Khoa học hậu vật lý. Đối
tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật,
hiện tượng “vật thể” có thể thực nghiệm được.
+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh
chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen
Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...
+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà đỉnh cao
là Triết học Hêghen.
+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng
bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa
học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết
học của mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng
biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào Triết học.
- Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính chất từ
khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học đoạn tuyệt
2


triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác - Triết học duy vật biện

chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của
mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một
hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ
lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa
học của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những vấn đề
chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói
chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
1.4. Vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm triết học:
1.4.1.Vấn đề cơ bản của triết học:

Triết học cũng như các khoa học khác phải giải quyết rất nhiều những vấn đề có liên
quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng và là điểm xuất phát để giải
quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết
học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không?
- Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại
bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng
ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.
+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và
phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó,

cụ thể:
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà
triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
3


- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết
khả tri hay bất khả tri.
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
1.4.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
trong triết học:

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai
trường phái lớn:
+ Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của
chủ nghĩa duy vật.
+ Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên;
học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
1.4.2.1. Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản:
Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay luôn gắn với lịch sử
phát triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác
nhau, nhưng đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý thức,
đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại:
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây
thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng. Trường phái
này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng
đế.

+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII - XVIII.
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát triển
rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm vị trí
thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa
những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm
của chủ nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập
ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin
mang tính chất cách mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản ánh hiện thực
đúng như bản thân nó mà còn là công cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó.
1.4.2.2. Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản:
4


+ Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của
hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
+ Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh thần
khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này
thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới...
Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo,
với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau đó là,
chủ nghĩa duy tâm tôn giáo thì lòng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn chủ
nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm:
+Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét
phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận
thức mang tính biện chứng của con người.
+Về phương diện xã hội, sự tách rời giữa lao động trí óc với lao động chân tay, và địa vị
thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan

niệm về vai trò quyết định của các nhân tố tinh thần. Mặt khác, các giai cấp thống trị và lực
lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những
quan điểm chính trị-xã hội của mình.
1.5. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội:
1.5.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận

1.5.1.1. Vai trò thế giới quan của triết học
- Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng
phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin
vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.
- Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới
quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa
chọn cách thức đạt mục đích đó.
- Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá
nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.
- Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan
phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức
do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối
lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối
lập.
5


Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng
cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập
nhau.
Do vậy:
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người
sáng tạo trong hoạt động.

+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. +
Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
1.5.1.2. Vai trò phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ
đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
- Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất
+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế
giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là
lý luận về phương pháp.
Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động
sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.
1.5.2. Vai trò của triết học Mác - Lê nin

Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy
triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một
cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng
như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
- Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật triết học
hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của
một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
+ Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ
nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy
vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả
năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan đúng
đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự

6


xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa
thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
- Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các khoa
học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết
cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những công cụ
phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ
này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự hợp
tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học khác là hết
sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân
triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc biệt
quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu hiện mới.
Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát
triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược
lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì
đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận
sai lầm về triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải quyết
các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời
giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những
tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách
trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không
những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm
mang tính giáo điều.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực

sai lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ
thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và
sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy
móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình
hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ
nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực
tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.
7


Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được Triết học là
hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con
người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ vai trò
định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng người trong lịch sử.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành các trường
phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương pháp nghiên cứu đối
lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng, giúp chúng ta
xây dựng được phương pháp biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ đắc lực trong
hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã
hội tiến bộ.
2. Nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường hình thành từ quá trình sản xuất hàng hoá.Sản xuất hàng hoá là
một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra là để bán trên thị trường.Trong
kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất_phân phối_trao đổi_tiêu dùng , sản xuất
như thế nàovà cho ai đều thông việc mua bán,thông qua hệ thống thị trường và do thị trường

quyết định.
Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá và phân công lao
động xã hội và về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hoá thì
người sản xuất trở thành người sản xuất hàng hoá,lao động của người sản xuất hàng hoá vừa
có tính chất tư nhân , cá biệt , lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất
giữa hai mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất tư nhân, cá biệt lao động của sản xuất
hàng hoá. Đối với mỗi hàng hoá mâu thuẫn đó được giải quyết trên thị trường.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài . Đầu tiên là
sản xuất hàng hoá giản đơn . Sản xuất hàng hoá giản đơn là sản xuất hàng hoá nông dân ,
thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân họ.
Đây là một kiểu sản xuất nhỏ , dựa trên kĩ thuật thủ công và lạc hậu khi lực lượng
sản xuất phát triển cao hơn ,sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất quy mô lớn .
Quá trình chuyển biến này diễn ra trong một thời kì quá độ từ xã hội phong kiến sang chế độ
tư bản.
Trong một nền kinh tế sản xuất hàng hoá chiếm địa vị thống trị thì đó là nền kinh tế
hàng hoá , khi nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường thì nền kinh tế này là
nền kinh tế thị trường
8


Như vậy nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường thì nền kinh tế này là nền kinh tế thị trường.Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân
tố, quan hệ ,môi trường , động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường . Trong
cơ chế thị trường động lực hoạt động của các thành viên là lợi nhuận , lợi nhuận có tác dụng
lôi kéo các doanh nghiệp sản xuất mà xã hội cần. Cơ chế thị trường dùng lỗ, lãi để quyết
định các vấn đề kinh tế cơ bản. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tự vận động tuân
theo những quy luật vốn của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông
tiền tệ, các quy luật vị trí, vai trò độc lập, song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau, và tạo ra những nguyên tắc vận động của thị trường.


9


CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Vai trò của triết học về việc phát triển kinh tế là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Nhìn vào lịch sử phát triển kinh tế của loài người có thể nhận thấy: một phương thức
sản xuất đã hình thành và khi phát triển đến giới hạn thì sẽ có một phương thức sản xuất tiến
bộ hơn phát sinh từ trong lòng phương thức sản xuất cũ thay thế. Đi đôi với chuyển biến về
kinh tế thì sớm hay muộn cũng kéo theo sự thay đổi về xã hội, văn hoá và chính trị. Đặc biệt
lưu ý là những tiến bộ trong phương thức sản xuất, trong xã hội và chính trị được tích hợp
lại trong nền văn hoá mới.
1.1. Quá trình lịch sử - tự nhiên như thế đã thể hiện rõ trong lịch sử phát triển của
phương Tây.
Từ thế kỷ XIII bắt đầu có sự phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hoá với các tuyến
thương mại đường dài.
Về mặt xã hội đã ra đời các phường hội, các nhóm xã hội, từ đó hình thành khu vực
đô thị của những người tiểu tư sản. Về văn hoá, sự ra đời kiểu kiến trúc mới - kiến trúc
Gôtích, sự hình thành các trường học lớn ở đô thị thay thế cho các tu viện ở thôn quê cùng
sự chuyển đổi từ ngôn ngữ Latinh sang ngôn ngữ bản xứ.
Bước chuyển vào cuối thế kỷ XV sang thế kỷ XVI, với những phát minh về công
nghệ in và phong trào cải cách tôn giáo của Martin Luther hình thành giáo hội Tin lành năm
1517. Sự phát hiện ra châu Mỹ đã thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế hàng hoá và việc sử dụng rộng
rãi chữ số Ả rập ở phương Tây.
Bước chuyển vào thế kỷ XVIII với những sự kiện lớn của một bước ngoặt: phát
minh ra động cơ hơi nước (của James Watt); sự ra đời của cuốn "Của cải của các dân tộc"
của Ađam Smith; năm 1809 trường đại học hiện đại đầu tiên ra đời (Đại học Berlin) cùng
với nền giáo dục phổ thông... Tất cả những tiến bộ ấy đã thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật

và cách mạng công nghiệp, hình thành nền kinh tế thị trường hiện đại của chủ nghĩa tư bản
cùng với xã hội công nghiệp và nền văn minh mới của châu Âu.
Vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, theo chu kỳ khoảng 200 năm, đã diễn ra cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ ba tạo ra bước chuyển từ kinh tế công nghiệp
lên kinh tế tri thức. Chỉ với những chuyển biến ban đầu trong hai thập kỷ vừa qua đã cho
thấy đây là một bước ngoặt trong đời sống của loài người trên phạm vi cả hành tinh. Tuy
nhiên, lịch sử chuyển biến về kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị có tính hệ thống, với
nhiều mâu thuẫn và nghịch lý đang diễn ra gay gắt giữa quá khứ với tương lai, giữa phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tới giới hạn với phương thức sản xuất mới đang phát sinh
10


mà chỉ có phương pháp biện chứng mới nhận thức được xu thế thời đại mới đằng sau những
nghịch lý ấy.
1.2. Vai trò của triết học với bản chất của quá trình phát triển kinh tế thị trường
Bản chất kinh tế thị trường là mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con
người với tự nhiên không ngừng phát triển theo các nấc thang của quá trình xã hội hoá lao
động sản xuất vật chất và tinh thần tạo ra sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội.
Để đi sâu vào bản chất kinh tế thị trường, cần phải phân tích mối quan hệ kép ấy.
1.2.1. Mối quan hệ giữa con người với con người hình thành và phát triển trong quá
trình lao động và sản xuất được xã hội hoá
Dưới hình thức hợp tác, phân công tạo thành cơ cấu kinh tế - xã hội có tính hệ thống
từ sản xuất đến tiêu dùng của xã hội. Quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất được tổ
chức bởi các chủ sở hữu xí nghiệp và thương mại, dịch vụ. Kết quả lớn nhất mang ý nghĩa
lịch sử của quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất là tạo ra giá trị thặng dư - nhân tố chủ
yếu phản ánh trình độ phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ giữa
con người với con người trong giới hạn của phương thức sản xuất. Quá trình phát triển giá
trị thặng dư bằng năng suất lao động đã tạo ra khả năng rút ngắn ngày lao động, cải thiện
dần về mặt xã hội và đời sống văn hoá của người lao động là những điều kiện cần để có tiến
bộ xã hội và cá nhân.

Thông qua các giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa con người
với con người phát triển theo tiến trình mở rộng thị trường từ địa phương đến quốc gia và
phạm vi toàn cầu, dưới nhiều hình thức đa dạng về kinh tế, xã hội, văn hoá, tôn giáo, chính
trị. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ kinh tế tri thức đang nâng cao chất lượng các hình thức
ấy.
Tuy vậy, sự phát triển mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và cộng
đồng đều chịu tác động của những mâu thuẫn phát sinh từ sự khác nhau về lợi ích kinh tế và
văn hoá tạo ra những cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, các cuộc chiến tranh đầy máu và
nước mắt của nhiều thế hệ. Suy cho cùng, sự khác nhau về lợi ích kinh tế đều xoay quanh
vấn đề sở hữu, còn sự khác nhau về văn hoá lại phát sinh từ sự khác nhau về hệ tư tưởng.
1.2.2. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Thông qua hoạt động kinh tế và sinh sống của con người. Suốt chiều dài lịch sử phát
triển kinh tế thị trường cho đến nay, hoạt động kinh tế vẫn dựa vào khai thác tài nguyên
thiên nhiên làm nguyên vật liệu chế tạo sản phẩm. Quy mô sản xuất càng lớn thì tài nguyên
bị khai thác càng tăng. Hình thức hợp tác đầu tư quốc tế càng thúc đẩy quá trình ấy, nhất là
ở các nước lạc hậu càng bị khai thác cạn kiệt.
Hậu quả là xuất hiện tình trạng sa mạc hoá, nguồn nước khan hiếm dần, nạn ô nhiễm
môi trường sống và môi trường tự nhiên (sông ngòi, nguồn nước...) ngày càng tăng, mức độ
biến đổi khí hậu đưa đến hậu quả nước biển dâng cao đang thu hẹp dần diện tích canh tác,
11


cùng với những thay đổi về thời tiết ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người và điều kiện
sinh sống của họ.
Sự phá vỡ dần môi trường tự nhiên còn gây ra nhiều vấn đề xã hội chưa lường hết
được. Từ cuối thế kỷ XX bước vào thế kỷ XXI, quá trình lịch sử - tự nhiên đã phát đi tín
hiệu về một bước ngoặt thách thức sống còn của loài người do mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên xấu đi. Liệu có thể dự báo rằng vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên ngày càng
có ý nghĩa quyết định hơn đối với sự phát triển con người và xã hội, nó đặt ra thách thức
sống còn đối với các thể chế chính trị trên thế giới.

Phân tích bản chất của quá trình phát triển kinh tế như một quá trình lịch sử - tự
nhiên của sự vận động, phát triển mối quan hệ kép nói trên có thể nhận thức vấn đề gì cho
cuộc sống hôm nay.
- Quá trình phát triển dưới các hình thức cách mạng, cải cách, đổi mới, dù tự giác hay tự
phát, suy cho cùng đều do đòi hỏi của sự phát triển mối quan hệ kép của con người và chịu
sự chi phối của mối quan hệ ấy.
- Sự phát triển tự do của mỗi người về nhân cách, năng lực là xu thế tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế thị trường. Sự phát triển tự do của mỗi người là kết quả của quá trình lịch
sử phát triển mối quan hệ con người với con người và con người với tự nhiên. Vì vậy, sự
phát triển của cá nhân luôn gắn liền với sự phát triển cộng đồng và môi trường tự nhiên.
Khẳng định vai trò của sự phát triển cá nhân cùng mối quan hệ cá nhân và cộng đồng là
nhận thức đúng bản chất kinh tế thị trường, bản chất quá trình lịch sử - tự nhiên. Đúng như
nhận thức của nhà khoa học vĩ đại A.Einsteni ở thế kỷ XX.
Người nhận ra sớm hơn xu thế tất yếu của sự phát triển tự do của mỗi người là Các
Mác khi nghiên cứu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế kỷ XIX. Mác đưa ra luận điểm
về xã hội tương lai là xã hội mà "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của mọi người".
Ph.Ăngghen coi luận điểm ấy là sự khái quát đầy đủ nhất về tư tưởng của chủ nghĩa xã hội
nhân đạo.
Điều mới mẻ nhất đối với người Việt Nam là tầm nhìn xa này đã được ghi trong bản
Tuyên ngôn Độc lập của nước ta ngày 2/9/1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ bản
Tuyên ngôn Độc lập Mỹ những lời nói về xu thế của thời đại: "Tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Đó là định hướng cho chiến lược các giai đoạn phát triển của Việt Nam theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Vai trò của triết học với hình thái kinh tế - xã hội của quá trình phát triển kinh tế
thị trường
Từ nhận thức bản chất kinh tế thị trường phải đi tới nhận thức về hình thái xã hội kinh tế của nó thì mới nhận thức đầy đủ quá trình lịch sử - tự nhiên mà trong đó mối quan
hệ kép vận động và phát triển.

12


Cho đến nay, hình thái xã hội - kinh tế in đậm nét vào lịch sử là hình thái chủ nghĩa tư
bản đã trải qua 500 năm, trong đó chủ nghĩa tư bản phát triển trên cơ sở của chính nó là nền
kinh tế thị trường hiện đại chỉ 300 năm. Kinh tế thị trường ra đời và phát triển dưới hình thái
tư bản chủ nghĩa như một tất yếu lịch sử. Vì quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất bao
gồm hai mặt tính chất xã hội và tính chất tư nhân. Tính chất xã hội thể hiện ở mọi nguồn lực
xã hội (lao động, tài nguyên, vốn) được huy động vào quá trình phát triển kinh tế. Tính chất
xã hội còn mang lại quan hệ xã hội có tính chất dân chủ. Tính chất tư nhân thể hiện ở những
người có vai trò và năng lực huy động, tổ chức, sử dụng nguồn lực xã hội ấy. Đó là những
người có nguồn lực, có kiến thức tổ chức và năng lực kinh doanh. Họ là chủ xí nghiệp và
theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. C.Mác cho rằng: "Tư bản là một quan hệ xã hội", còn
nhà tư bản làm chủ xí nghiệp là "nhạc trưởng của dàn nhạc" xã hội hoá ấy. Vì vậy "nhà tư
bản là nhân cách hoá của tư bản". Quan niệm và thái độ của C.Mác đối với tư bản và nhà tư
bản khác hẳn quan niệm ấu trĩ tả khuynh của một số người cộng sản thể hiện ở chính sách
"cải tạo xã hội chủ nghĩa" để xoá bỏ tất cả, chia đều của cải mà hệ quả là trở lại tổ chức kinh
tế kiểu bầy đàn và suy thoái dần.
Sự phân tích ở trên cho thấy chủ nghĩa tư bản là một mâu thuẫn giữa hai mặt thống
nhất và đối lập, giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, tạo nên sự vận động không ngừng
từ thấp lên cao theo hướng: tính chất xã hội trong kinh tế thị trường ngày càng tăng, tính
chất tư nhân bị thu hẹp dần theo các nấc thang phát triển lực lượng sản xuất.
Theo Mác, đó là quá trình phủ định đối với chủ nghĩa tư bản. Quá trình đó lại thể hiện
qua các hệ thống thay thế nhau từ chủ nghĩa tư bản tư nhân đến chủ nghĩa tư bản độc quyền
và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là một quá trình phát triển biện chứng giữa bản
chất kinh tế thị trường với hình thái lịch sử của nó, tạo ra những tiền đề về cơ sở kỹ thuật, về
cơ cấu xã hội, về văn hoá, khoa học của xã hội tương lai ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Lênin đánh giá rất cao những tiền đề này khi Người thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP)
vào những năm 1921 - 1924. Theo Lênin, những tiền đề này thuộc về chủ nghĩa xã hội.
Người dùng hình ảnh:

"Chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta qua khung cửa của chủ nghĩa tư bản hiện đại".
Vì sao chủ nghĩa tư bản lại tạo ra những yếu tố phủ định mình như vậy ?
Câu trả lời phải từ nguồn gốc phát sinh và phát triển chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, vốn là hai mặt thống nhất và đối lập trong vận
động. Tính thống nhất giữa hai mặt đó là tạo ra giá trị gia tăng ngày càng nhiều từ các
nguồn lực xã hội. Tính đối lập giữa hai mặt đó là sự phân phối giá trị gia tăng ấy. Các sáng
kiến tổ chức kinh doanh của chủ đều do mục đích giá trị gia tăng, cũng như các cuộc bãi
công của người lao động đều do phân phối giá trị gia tăng ấy. Cả hai mặt đều phát sinh từ
mâu thuẫn ấy, cho đến khi xuất hiện hình thức công ty cổ phần thì người quản lý và thợ đều
là cổ đông.
13


Xét về xu hướng phát triển, trong công ty cổ phần sẽ không còn nhà tư bản và người
lao động làm thuê. Họ đều là những cổ đông, hợp tác cùng nhau trong sản xuất và phân phối
lợi ích kinh doanh. Ngày nay, công ty cổ phần là hình thức phổ biến ở các nước tư bản phát
triển, cổ đông không chỉ là những người trong xí nghiệp, tập đoàn mà cả người dân bên
ngoài xã hội, hiện nay các công ty cổ phần vẫn còn bị chi phối bởi các tập đoàn tư bản.
Từ giữa thế kỷ XX trở đi, tính chất xã hội trong kinh tế thị trường có bước phát
triển mới với sự ra đời ngày càng nhiều các tổ chức của xã hội dân sự - các tổ chức ngoài
nhà nước (NGO), có vai trò ngày càng tăng trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là
phát triển dân chủ trong hoạt động tư vấn, phản biện các chính sách của nhà nước.
Nên lưu ý rằng, tính chất xã hội của quá trình phát triển kinh tế thị trường hoàn toàn
khác với tính chất nhà nước hoá trong nền kinh tế thời bao cấp của nước ta trước đây. Nếu
tính chất xã hội của phát triển kinh tế thị trường đánh thức mỗi người nhìn rõ năng lực, vai
trò, trách nhiệm cá nhân với cộng đồng, thì tính chất nhà nước hoá trong kinh tế bao cấp lại
đưa con người vào mối quan hệ ban ơn và chịu ơn của bề trên đi đôi với đặc quyền đặc lợi
của một số cán bộ cầm quyền. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất nhà nước hoá đã
cản trở quá trình phát triển kinh tế, xã hội và chính trị nhân văn, cản trở việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân thực hiện một "xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

Để giải quyết tốt mâu thuẫn ấy, còn phải nhận thức đúng vai trò và giới hạn của tính chất tư
nhân trong quá trình lịch sử - tự nhiên phát triển kinh tế thị trường.
Theo các công trình đã nghiên cứu thì loài người mới bắt đầu phát triển vào khoảng 5 - 6
ngàn năm nhờ mức độ thức tỉnh dần của con người đối với bản thân, với quyền tư hữu.
Ý thức về lợi ích riêng của cá nhân phát triển thành ý thức tư hữu đã trở thành nhân
tố kích thích sự phát triển của những người khác bắt đầu là thủ lĩnh bộ lạc, vua chúa cho đến
nhà tư bản thời hiện đại. Nét mới là sự kích thích về lợi ích riêng về vật chất và tinh thần
trong kinh tế thị trường dần dần trở thành có tính xã hội đối với những ai có nhận thức mới
(những người lao động có sáng kiến, các nhà khoa học và công nghệ, nhà kinh doanh...)
khác hẳn tính chất bầy đàn trước đó.
Ngoài ra, khi xem xét vấn đề ý thức tư hữu của con người cũng nên lưu ý ở phương
Tây khác phương Đông. Ở phương Tây ngay từ thời cổ đại đã có sở hữu tư nhân về ruộng
đất - loại tư liệu sản xuất quan trọng nhất, nên đã thúc đẩy cải tiến công cụ, tăng năng suất
và phát triển thương mại. Kinh tế hàng hoá hình thành, tạo ra sự phân công lao động và
phân chia xã hội thành giai cấp. Đó là cơ sở ra đời chế độ tư hữu tư bản. Còn ở phương
Đông duy trì chế độ công hữu về ruộng đất (thực chất là của nhà nước) rất dài cho đến thế
kỷ XIX, nên rơi vào tình trạng trì trệ, kinh tế kém phát triển hơn phương Tây nhiều, mặc dù
trước đó đã có những phát minh sáng chế vượt trội so với phương Tây.
Khác với sở hữu tư nhân trước đó, sở hữu tư bản biết khai thác mọi nguồn lực của
xã hội và của tự nhiên (với mọi giá) để phát triển lực lượng sản xuất xã hội đồ sộ. Mác đã
đánh giá rằng "Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử".Ý
nghĩa lịch sử của phát triển lực lượng sản xuất là đã tạo ra giá trị thặng dư, hơn nữa đã đi
đến "năng suất lao động thặng dư" là điều kiện để chuyển sở hữu tư bản đến sở hữu cổ phần.
14


Trong hình thức công ty cổ phần của những người lao động đang có sự chuyển biến
về chất: sự phát triển của công ty cổ phần sẽ hình thành hai loại hình sở hữu mới: sở hữu xã
hội (như quỹ không chia) và sở hữu cá nhân của các cổ đông. Đó là cơ sở kinh tế cho sự
xuất hiện xu thế "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của

mọi người". Đó là nhân tố mới chuẩn bị chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang hậu tư bản.
2. Những giới hạn của chủ nghĩa tư bản và xu thế thời đại hiện nay
2.1. Về giới hạn của chủ nghĩa tư bản
Không phải ngẫu nhiên, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên
cứu, trong đó có P.F.Drucker đã nhận thấy một chiều hướng là "Các nước phát triển đang
chuyển ra khỏi bất kỳ những gì mà có thể gọi là chủ nghĩa tư bản". Ngoài ra còn nhiều công
trình nghiên cứu sự thay đổi từng lĩnh vực trong xã hội tư bản. Tất cả đều chỉ rõ một vấn
đề: Sự phát triển của hình thái tư bản đã tới giới hạn của nó,thể hiện trên hai mặt chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất,bản chất kinh tế thị trường thúc đẩy mối quan hệ giữa con người với con
người, nhưng hình thái tư bản vừa thúc đẩy mối quan hệ ấy, lại vừa hướng mối quan hệ ấy
vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tự do ích kỷ. Hậu quả là xảy ra khủng hoảng kinh tế và
xã hội, phân hoá giàu nghèo quá lớn, lối sống theo kiểu xã hội tiêu thụ, phát sinh nhiều tai
hoạ (bắn giết nhau, tình trạng tự tử tập thể...). Đó là hai mặt của nền văn minh phương Tây.
Các nhà nước tư bản luôn đứng trước hai sức ép nặng nề từ phía xã hội và từ phía các tập
đoàn tư bản. Khi nhà nước quan tâm đến yêu cầu xã hội thì sức ép tập đoàn tư bản lớn nhất
(trong lịch sử Hoa Kỳ, nước phát triển nhất của chủ nghĩa tư bản có 7 tổng thống đã bị ám
sát và đầu độc, có người bị đầu độc ngay sau khi đọc diễn văn nhậm chức như W.H.Harrison
(1841), có người bị bắn chết khi còn là ứng cử viên sáng giá chức tổng thống như Robert
Kennedy (1968). Còn khi nhà nước nghiêng về lợi ích các tập đoàn tư bản thì sớm muộn
cũng xảy ra khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Thứ hai, bất lực của chủ nghĩa tư bản trong mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Có thể cho rằng nếu trong mối quan hệ giữa con người với con người, giai đoạn phát
triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã giải quyết được một nửa, đã tạo cơ sở cần thiết
để hoàn thiện mối quan hệ ấy, thì trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên lại gây ra
những hậu quả hiểm nghèo cho cả nhân loại. Đằng sau mô hình tăng trưởng kinh tế của các
nước là sự tàn phá môi trường tự nhiên ngày càng nghiêm trọng. Hậu quả của tàn phá môi
trường tự nhiên đã vượt lên trên những khó khăn do sự khác nhau về văn hoá, về hệ tư
tưởng. Chỉ cần tính cả những thiệt hại về môi trường vào GDP thì có lẽ không có nước nào
trên thế giới có tỷ lệ tăng trưởng dương.

Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xấu đi, lại đang tác động tiêu cực đến
mối quan hệ giữa con người với con người, ngày càng xuất hiện những nghịch lý có tính
toàn cầu về kinh tế, văn hoá, chính trị và quan hệ quốc tế.
Phân tích thực trạng phát triển mối quan hệ kép của con người trong cuối thế kỷ XX cho
thấy: Hình thái xã hội - kinh tế tư bản chủ nghĩa đã tới giới hạn cuối cùng của nó. Quá trình
15


xã hội hoá lao động và sản xuất sẽ vượt qua hình thái đó và phát triển với hình thái mới. Đó
là xu thế tất yếu của thời đại hiện nay.
2.2. Xu thế thời đại kinh tế mới của quá trình lịch sử - tự nhiên
Bước vào thế kỷ XXI, tuy mới ở thập kỷ đầu, nhưng sự vận động phát triển của nó lại
thể hiện một quan niệm biện chứng của Mác: "Khi lịch sử đặt ra vấn đề gì thì nó cũng chuẩn
bị khả năng để giải quyết vấn đề ấy".
Đúng như vậy, khả năng để giải quyết các vấn đề nói trên đã hình thành ở giai đoạn
cuối của chủ nghĩa tư bản. Đó là lực lượng sản xuất mới dựa trên khoa học và nền kinh tế tri
thức. Đây là thành tựu lớn nhất của quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất mấy trăm
năm, dựa trên động lực chạy theo giá trị gia tang của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đây cũng
là nhân tố phủ định đối với chủ nghĩa tư bản theo mỗi bước trưởng thành của nền kinh tế tri
thức. Theo C.Mác, thì đó là sự phủ định của phủ định đối với sở hữu tư nhân trong lịch sử
nhân loại.
Như vậy, quá trình hình thành mối quan hệ kép của con người thực sự đã diễn ra
theo một quá trình lịch sử - tự nhiên: Sự phát triển sở hữu tư nhân dựa trên lao động bản
thân trong nền sản xuất nhỏ thủ công đã hình thành sở hữu tư bản; quá trình xã hội hoá
trong chế độ sở hữu tư bản lại phủ định sở hữu tư nhân dựa trên lao động bản thân và hình
thành sở hữu tư bản dựa trên lao động làm thuê; sự phát triển của sở hữu tư bản mấy trăm
năm, cuối cùng lại tạo ra sở hữu cổ đông của người lao động một cách phổ biến - cơ sở và
điều kiện của phát triển cá nhân.
Nhìn tổng quát, khâu trung tâm của quá trình lịch sử chuyển biến như thế là sự phát
triển tự do và toàn diện của con người với tư cách mỗi cá nhân theo từng nấc thang của xã

hội hoá lao động và sản xuất. Ngoài ra, còn cần chú ý một khía cạnh khác là sự phát triển cá
nhân trong quá trình xã hội hoá luôn luôn là điều kiện cho sự phát triển cộng đồng. Mặt
khác, sự phát triển của cộng đồng lại là môi trường cần thiết của sự phát triển cá nhân. Kinh
tế tri thức là hình thái kinh tế duy nhất đem lại khả năng thực tế cho sự phát triển đồng thời
của cá nhân và cộng đồng một cách hài hoà, khi nó hình thành và tất yếu hình thành hình
thái xã hội - kinh tế mới thay thế cho hình thái xã hội - kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Theo những nghiên cứu đáng tin cậy trong hai thập kỷ (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI) đã dự báo một số biến đổi theo hướng nói trên sau đây:
2.2.1. Về kinh tế: Để tồn tại, các tập đoàn kinh tế sẽ tự tổ chức thành một liên minh các
công ty nhỏ độc lập, do tác động của khuynh hướng "Nền kinh tế thế giới càng lớn, thì
những phần tử nhỏ nhất trong nó sẽ càng mạnh hơn" (J.Naisbitt).
Thế giới mới sẽ là một sự đan quyện giữa cạnh tranh và liên kết, giống như âm với dương
để tìm sự cân bằng và luôn thay đổi.
2.2.2. Về văn hoá - xã hội: Những thay đổi quan trọng nhất được dự báo là:
16


- Xu hướng thâm nhập vào nhau giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội mà kết
quả là hình thành khoa học về con người. Xu hướng này đã được Mác dự báo và trong thế
kỷ XX đã thể hiện ở một số nhà khoa học lớn như A.Einstein, J.Quyri.
- Về giáo dục hướng tới mục đích "Học để làm người" đúng như tư tưởng Hồ Chí
Minh, bằng cách giáo dục thức tỉnh các tài năng, bồi dưỡng, phát hiện tài năng và phẩm chất
ở con người.
- Cùng với bước tiến của kinh tế tri thức, thì lao động tri thức ngày càng chiếm đa số
trong lực lượng lao động xã hội. Trong cơ cấu xã hội hình thành tầng lớp trung lưu ngày
càng tăng. Đó là cơ sở hình thành xã hội mới dân chủ, công bằng, văn minh (A.Toffler hy
vọng đó là nền văn minh thứ ba).
Những thay đổi trong kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường là những tiềm lực mới tạo thành
định hướng. Phát triển bền vững về kinh tế và xã hội, lấy sự phát triển tự do và toàn diện
của con người làm mục tiêu.

2.2.3. Về chính trị:
Từ những thay đổi về chất trong kinh tế, văn hoá xã hội nói trên, đã có dự báo về sự
kết thúc của nền dân chủ đại diện, để người dân có thể trực tiếp tham gia và kiểm soát
những biến đổi trong đời sống của họ. Như vậy, những thay đổi về chất trong cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội chắc chắn sẽ đòi hỏi một nền chính trị nhân văn. Đồng thời, những thay đổi
ấy là báo hiệu sự kết thúc của các thể chế chính trị lỗi thời như chủ nghĩa dân tộc bá quyền,
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, các thẻ chế độc quyền (của một nhóm hay gia đình trị), các lực
lượng chống lại con người.
Niềm tin ở xu thế thời đại mới là có căn cứ và sẽ như lời của Victor Hugo: "Không có gì, kể
cả quân đội trên toàn thế giới, có thể ngăn cản được một ý tưởng khi thời đại của nó đã tới".
3. Quy luật phát triển rút ngắn - một đặc điểm mới của quá trình lịch sử - tự nhiên
phát triển kinh tế thị trường hiện đại
Kinh tế thị trường vốn mang trong mình nó tiềm năng xã hội hoá ngày càng lớn, nên
nó không dừng lại ở phạm vi dân tộc, quốc gia mà lan toả ra toàn cầu. Trong quá trình mở
rộng ấy, do những điều kiện cần và đủ cho quá trình công nghiệp hoá ở các nước không
giống nhau, nên sự phát triển kinh tế thị trường không đều ở các nước, thời gian hoàn thành
công nghiệp hoá và hiện đại hoá cũng khác nhau. Nước Anh thực hiện công nghiệp hoá đầu
tiên mất 120 năm, còn mấy "con Rồng châu Á" chỉ cần khoảng 30 năm với mức độ hiện đại
hoá cao hơn.
Đây là thực tiễn mang tính quy luật, nhưng các nước phát triển sau có nắm bắt được
cơ hội phát triển rút ngắn không còn phụ thuộc vào điều kiện chủ quan, trong đó sự lãnh đạo
chính trị có tính quyết định.
Trong lịch sử hơn 300 năm của kinh tế thị trường hiện đại, đã từng có nhiều nước
phát triển theo chủ nghĩa tư bản nắm bắt được cơ hội ấy, nhưng cũng có một số nước thất
bại trong công nghiệp hoá gây ra biến động xã hội và chính trị mà nguyên nhân chủ yếu đều
17


do lạc hậu về chính trị. Trong thế kỷ XX, đã có sự kiện phát triển rút ngắn theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước Nga do Lênin khởi xướng và chỉ đạo thành công, nhưng sau khi

Lênin mất thì nền kinh tế nước Nga chuyển sang hướng khác và cuối cùng sụp đổ.
Từ thực tiễn thế giới nói trên, có thể rút ra những nội dung của quy luật phát triển rút
ngắn sau đây:
Thứ nhất, khả năng phát triển rút ngắn chỉ xuất hiện khi trình độ phát triển kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những tiền đề về khoa học kỹ thuật, về tài chính, về tổ
chức quản lý tiên tiến. Nhờ đó, khi tiếp thu được, thì các nước đi sau mới có điều kiện rút
ngắn quá trình phát triển kinh tế thị trường.
Thứ hai, trình độ và chất lượng của những tiền đề ấy trong giai đoạn kinh tế công
nghiệp đầu thế kỷ XX thấp hơn nhiều giai đoạn kinh tế tri thức. Chính trình độ và chất
lượng ấy quy định một cách khách quan về định hướng phát triển kinh tế thị trường. Ở giai
đoạn kinh tế công nghiệp, định hướng tư bản chủ nghĩa lấy lợi nhuận làm động lực và mục
tiêu là tất yếu. Còn các tiền đề phát sinh ở giai đoạn kinh tế tri thức lại đòi hỏi định hướng
phát triển bền vững, trong đó vấn đề xã hội và môi trường được đồng thời giải quyết trong
tăng trưởng kinh tế. Định hướng chính trị hiện nay chỉ là và phải là biểu hiện nhu cầu ấy của
phát triển kinh tế, khác với định hướng chủ quan duy ý chí. Đúng như quan điểm của Lênin
"chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Trên cơ sở ấy, chính trị mới có "địa vị hàng
đầu so với kinh tế" trong thời kỳ thực hiện NEP thành công.
Thứ ba, nhận thức và lựa chọn đúng mô hình kinh tế phù hợp với thời đại kinh tế.
Lịch sử đã cho thấy: nắm bắt được các tiền đề phát triển rút ngắn của thời đại phải được thể
hiện ở mô hình kinh tế phù hợp. Đây là một nội dung quyết định của quy luật phát triển rút
ngắn, do đó nó quyết định thành bại của công cuộc cải cách, mở cửa. Vào cuối thế kỷ XX,
đầu thế kỷ XXI, khi kinh tế tri thức ra đời và phát triển mạnh, nhưng nhiều nước phát triển
sau vẫn lựa chọn mô hình công nghiệp hoá truyền thống theo định hướng tư bản chủ nghĩa
đã thất bại, còn mấy nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì sau thời gian ngắn tăng
trưởng nhanh, đang rơi vào nhiều mâu thuẫn nan giải về xã hội và môi trường, mà Trung
Quốc là điển hình.
Hãy lướt qua một số nghiên cứu ở trong và ngoài Trung Quốc. Tờ Minh Báo, Hồng
Công, rút ra năm vấn đề nan giải bên cạnh những thành công trong 30 năm cải cách, mở
cửa: Cải cách chính trị chậm, không theo kịp cải cách kinh tế; tình trạng tham ô hủ hoá
trong bộ máy dẫn đến nhiều xung đột xã hội; khoảng cách phát triển thành thị với nông

thôn, miền Đông với miền Tây, giữa các giai tầng xã hội làm phát sinh hàng loạt mâu thuẫn;
đạo đức xã hội xuống cấp, nhiều tệ nạn xã hội như lừa đảo, nghiện hút ma tuý, trộm cắp, sữa
có độc tố, thuốc giả, rượu giả, phát triển kinh tế phải trả giá đắt về môi trường, 300 triệu
người không được sử dụng nước sạch, tai nạn hầm mỏ liên miên, môi trường ô nhiễm gây ra
bão cát ở Bắc Kinh, thuỷ triều đỏ ở vùng duyên hải, nạn tảo xanh ở Thái Hồ, Điền Trì.
Nguyên nhân chính là sự lỗi thời của mô hình kinh tế do bệnh "sùng bái GDP”.
Ở bên ngoài, ông Wenran Jiang - Chủ tịch Viện Nghiên cứu Trung Quốc ở Đại học
Alberta, Canada nhận xét: "Những thành tựu Trung Quốc đạt được sau 1979 chính là
18


nhờ mô hình hiện đại hoá truyền thống, mọi sự phát triển đất nước này thực hiện trong suốt
30 năm qua đã lặp lại chính những gì mà các nước công nghiệp hoá đã làm từ 300 năm
trước".
Rút ra vấn đề mô hình công nghiệp hoá truyền thống không phải là nền tảng của định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó, hãy suy nghĩ về mô hình kinh tế Việt Nam hiện nay?
Thứ tư, nhận thức điểm xuất phát của dân tộc về kinh tế, văn hoá, xã hội khi bước
vào quá trình phát triển rút ngắn. Từ đó nhận rõ khoảng cách chênh lệnh giữa đất nước với
quốc tế, nhận rõ tiềm năng và hạn chế của nội lực, nhất là về lực lượng lao động, khoa học
và giáo dục, phẩm chất tư duy và phương pháp của đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Nhận thức
đúng như thế mới có khả năng khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí của người cầm quyền và
bệnh tự phát tiểu tư hữu của xã hội lạc hậu vẫn còn nặng nề.
Thứ năm, sớm có chiến lược xây dựng lực lượng lao động tri thức phù hợp với yêu
cầu của mô hình kinh tế phát triển bền vững trong tất cả các lĩnh vực, ưu tiên thực hiện
trong mấy lĩnh vực cốt yếu nhất: kinh tế, khoa học và giáo dục, lãnh đạo và quản lý. Chính
sách đối ngoại phải coi chiến lược này ở vị trí hàng đầu cùng với chiến lược kinh tế. Bởi vì
lực lượng lao động này như "chiếc cầu dẫn" tiếp nhận những thành tựu tiên tiến của thế giới.
Không có lực lượng ấy, chỉ nặng nề kêu gọi đầu tư kinh tế thì hậu quả sẽ khôn lường, sẽ
chuyển từ khả năng phát triển rút ngắn sang nguy cơ thất bại sẽ làm cho đất nước trở thành

bãi rác của thế giới.
Thứ sáu, những nội dung trên có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc
vào chất lượng của thể chế chính trị. Đây là thử thách mà không phải nước nào, đảng nào
cũng vượt qua được. Thử thách này, trước hết thể hiện trong những khâu then chốt của định
hướng phát triển: Thực chất Nhà nước pháp quyền của ai thể hiện trong hoạt động thực tiễn
chứ không phải trong lời nói; vai trò, ý thức của người dân trong lao động, trong kiểm tra
kiểm soát quá trình phát triển về kinh tế, văn hoá, chính trị; mức độ phát triển văn hoá chính
trị của bộ máy cầm quyền.
Tính thực tiễn phát triển rút ngắn của đất nước nằm trong trình độ phát triển các khâu then
chốt ấy của thể chế chính trị.
Từ nhận thức quy luật phát triển rút ngắn liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam thì thấy
rõ:
- Nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp
với xu thế thời đại và nhu cầu của xã hội Việt Nam. Cơ hội và điều kiện cho phát triển rút
ngắn rất lớn và đang mở rộng.
- Tuy vậy, mô hình phát triển nước ta vẫn chưa ra khỏi mô hình hiện đại hoá truyền
thống, nên nảy sinh nhiều vấn nạn xã hội và môi trường. Những hạn chế và cản trở sự phát
triển, chủ yếu do chưa nhận thức rõ điểm xuất phát, những giá trị và những nhược điểm của
nó, cũng như nhận thức đầy đủ xu thế thời đại hiện nay.
19


- Tiếp tục đổi mới thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển rút ngắn phải
trở thành động lực cho phát triển giai đoạn tới một cách bền vững. Việc cần là nâng cao chất
lượng nghiên cứu lý luận và tổ chức dựa trên Phương pháp luận nhận thức quy luật phát
triển rút ngắn ở Việt Nam như một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Muốn vậy, ngoài kế thừa những giá trị Mác và Lênin còn phù hợp thời đại hiện nay,
cần tập trung vào khái quát về mặt lý luận những giá trị Hồ Chí Minh đã thể hiện trên nhiều
lĩnh vực của quy luật phát triển từ một nước nông nghiệp lạc hậu vốn là thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân đi tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.


KẾT LUẬN
Triết học có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị trường, chi phối sự
vận động của nền kinh tế thị trường. Sự tác động của triết học một mặt thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, mặt khác gây ra các hệ quả tiêu cực,… Đối với nền kinh tế thị trường
20


định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay, triết học đóng một vai trò quan
trọng. Tuy nhiên có phát huy được các mặ tích cực, đẩy lùi mặt tiêu cực còn là một vấn đề
phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước và ý thức, nhận thức của mỗi công
dân Việt Nam./.

21



×