Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

So sánh án lệ việt nam và án lệ các nước thuộc hệ thống common law

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.36 KB, 5 trang )

So sánh án lệ Việt Nam và án lệ các nước
thuộc hệ thống Common law
>>> So sánh hệ thống pháp luật Common law và Civil law
>>> Quyết định 220/QĐ-CA công bố 6 án lệ
Hiện nay, trên thế giới, có 02 hệ thống pháp luật là hệ thống Common law (hệ thống pháp luật Anh
Mỹ) và hệ thống Civil law (hệ thống pháp luật Pháp Đức).
Trong đó, hệ thống Common law chủ yếu sử dụng nguồn luật là án lệ trong xét xử, trái lại, Civil law
lại dùng luật thành văn làm nguồn luật trong quá trình xét xử.
Và Việt Nam có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc điểm của hệ thống Civil law. Tuy nhiên, Việt
Nam ta không thừa nhận mình thuộc trường phái Common law hay Civil law một cách cụ thể.
Mới đây, Luật Tòa án nhân dân 2014 có hiệu lực từ ngày 01/6/2015 thừa nhận vai trò của án lệ
trong hệ thống pháp luật nước nhà và Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTPđã kịp thời được ban hành quy
định về trình tự, công bố và áp dụng án lệ.

Dưới đây là bảng so sánh án lệ của Việt Nam mình và án lệ của các nước thuộc hệ thống Common


law.
Việt Nam

Các nước thuộc hệ thống
common law

Nguồn luật
chủ yếu

Luật thành văn.
Án lệ.
(Luật được hình thành từ các chế (Luật được hình thành từ các
định cụ thể)
vụ việc)



Vai trò của
án lệ

Án lệ không được xem là nguồn
luật cơ bản, bởi lẽ án lệ được
đưa ra nhằm làm rõ các quy định
pháp luật có cách hiểu khác
nhau.
=> Tòa án có trách nhiệm lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ,
còn việc làm luật thuộc về trách
nhiệm của Quốc hội.

Án lệ được xem là nguồn luật
cơ bản và bắt buộc áp dụng
trong xét xử.

=> Tòa án, đặc biệt là Thẩm
phán có vai trò quan trọng
trong việc làm luật và hoạch
định chính sách.

Tính bắt
buộc áp
dụng

Không bắt buộc áp dụng trong
Bắt buộc áp dụng trong mọi vụ
mọi vụ án xét xử.

án xét xử.
Chỉ những vụ án có các tình tiết
chưa được quy định cụ thể trong
văn bản quy phạm pháp luật hoặc
đã có quy định nhưng quy định
này được hiểu theo nhiều cách
khác nhau mới phải áp dụng.

Tiêu chí
lựa chọn
án lệ

Để được lựa chọn là án lệ, Tòa
án cần phải cân nhắc các bản án
đã được xét xử đáp ứng đủ các
tiêu chí sau:
- Chứa đựng lập luận làm rõ quy
định pháp luật có cách hiểu khác
nhau, phân tích, giải thích các
vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra
nguyên tắc, đường lối xử lý, quy
phạm pháp luật cần áp dụng
trong vụ việc cụ thể.
- Có tính chuẩn mực.
- Có giá trị hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử,
bảo đảm những vụ việc có tình
tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì
phải được giải quyết như nhau.


Không phải khi tòa án xét xử
bất kỳ vụ việc nào cũng đều
tạo ra án lệ.
Vụ việc xét xử được xem là án
lệ khi đáp ứng đủ các tiêu chí
sau:
- Tính mới. Nghĩa là trước đó,
chưa có một án lệ nào quy
định về vấn đề này.
Thông thường, trong một vụ
việc sẽ có 02 vấn đề là vấn đề
sự kiện và vấn đề pháp lý.
Trong đó, vấn đề pháp lý nếu
chưa có quy định từ trước thì
vụ việc này được xét xử và
sau đó được công nhận là án
lệ.


- Chứa đựng các nội dung về
tình tiết của vụ việc, lý lẽ và
lập luận và đáp ứng nguyên
tắc tiền lệ.
Các nội
dung án lệ
bắt buộc
phải có

- Tên của vụ việc được Toà án
giải quyết.

- Số bản án, quyết định của Toà
án có chứa đựng án lệ.
- Từ khoá về những vấn đề pháp
lý được giải quyết trong án lệ.
- Các tình tiết trong vụ án và phán
quyết của Toà án có liên quan
đến án lệ.
- Vấn đề pháp lý có giá trị hướng
dẫn xét xử được giải quyết trong
án lệ.

- Tên của vụ án.
- Năm Tòa án ra phán quyết
đối với vụ án.
- Số tập văn bản của văn bản
ghi chép án lệ.
- Tên viết tắt của văn bản ghi
chép.
- Số thứ tự trang đầu tiên của
văn bản ghi chép.
- Các tình tiết của vụ việc.
- Lý lẽ hay lập luận.
- Quyết định của Tòa án.
Ví dụ: Án lệ Sharif v Azad
[1967] 1QB. 605 (CA)
Là vụ án án mạng tên Sharif
kiện Azad, quyết định đưa ra
và xuất bản vào năm 1967, tập
1 do Tòa phúc thẩm quyết định
sau khi xem xét kháng cáo từ

tòa cấp dưới – Tòa nữ hoàng
(QB) và được ghi chép vào tập
văn bản, bắt đầu từ trang 605.

Quy trình
Bước 1: Rà soát, phát hiện bản
lựa chọn
án, quyết định để đề xuất phát
và công bố triển thành án lệ.
Bước 2: Lấy ý kiến đối với bản
án, quyết định được đề xuất lựa
chọn, phát triển thành án lệ.
Thời gian lấy ý kiến: 02 tháng.
Trong 01 tháng kể từ ngày hết
thời hạn lấy ý kiến, Vụ Pháp chế
và Quản lý khoa học Tòa án nhân
dân tối cao chủ trì phối hợp với
các đơn vị chức năng tập hợp
các ý kiến góp ý, nghiên cứu
đánh giá và báo cáo Chánh án
xem xét quyết định việc lấy ý kiến

Bước 1: Tòa án có thẩm
quyền ban hành án lệ xem xét
các bản án của tòa án cấp
dưới, đáp ứng các tiêu chí lựa
chọn làm án lệ.
Bước 2: Công bố rộng rãi án lệ
trong phương tiện thông tin đại
chúng.

Bước 3: Ghi chép án lệ vào
tập văn bản


của Hội đồng tư vấn án lệ.
Bước 3: Hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận hồ sơ đề nghị tư vấn, Chủ
tịch Hội đồng phải cho ý kiến
quyết định đề xuất lựa chọn án lệ
gửi đến Chánh án Tòa án nhân
dân.
Bước 4: Biểu quyết thông qua án
lệ.
Công bố án Án lệ được đăng trên Tạp chí Toà
lệ
án nhân dân, Cổng thông tin điện
tử Tòa án nhân dân tối cao; được
gửi cho các Toà án và được đưa
vào Tuyển tập án lệ xuất bản theo
định kỳ 12 tháng.

Áp dụng thường xuyên, liên
tục và rộng rãi bằng nhiều
phương tiện thông tin đại
chúng.

Hiệu lực áp Sau 45 ngày kể từ ngày công bố
dụng
hoặc được ghi trong quyết định
công bố án lệ của Chánh án Toà

án nhân dân tối cao.

Có hiệu lực ngay khi được
công bố.

Nguyên tắc
áp dụng án
lệ trong xét
xử

- Tôn trọng nguyên tắc tối cao
của Tòa án.
- Án lệ phải linh hoạt, mềm
dẻo…

- Giải quyết các vụ việc có tình
tiết, sự kiện pháp lý tương tự
nhau, đảm bảo các vụ việc có
tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự
nhau phải được giải quyết như
nhau.
- Trường hợp áp dụng án lệ, phải
viện dẫn số bản án, quyết định
được công nhận án lệ.
- Nếu có sự thay đổi Luật, Nghị
quyết của Quốc hội, Pháp lệnh,
Nghị quyết của UBTVQH, Nghị
định của Chính phủ mà án lệ
không còn phù hợp thì Thẩm
phán, Hội thẩm không áp dụng án

lệ.
- Nếu do chuyển biến tình hình
mà án lệ không phù hợp thì
không áp dụng án lệ mà phải kiến
nghị với Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao để xem
xét, hủy bỏ.

=> Án lệ được ban hành càng
lâu thì càng có giá trị áp dụng
cao.


=> Án lệ càng mới thì giá trị áp
dụng càng cao.
Hủy bỏ,
Có 02 trường hợp hủy bỏ, thay
thay thế án thế án lệ:
lệ
- Khi có sự thay đổi về Luật, Nghị
quyết, Pháp lệnh, Nghị định.
- Do chuyển biến tình hình mà án
lệ không còn phù hợp.

Các trường hợp hủy bỏ, thay
thế án lệ:
- Bảo vệ công lý hoặc phán
quyết sai.
- Trong một số trường hợp đặc
biệt…


Qua quá trình nghiên cứu, đề xuất và cuối cùng là thừa nhận án lệ là một nguồn luật trong thực tiễn
xét xử, thì việc áp dụng án lệ cũng không tránh khỏi những nhược điểm nhất định. Dẫn chứng một
số nhược điểm bên cạnh những ưu điểm:
Nhược điểm:
- Cần nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các Thẩm phán. Các Thẩm phán cần phải nâng
cao trình độ của mình, đảm bảo yếu tố tranh luận và đa dạng về lý lẽ khi đưa ra lập luận, mở rộng
nguồn tài liệu là cơ sở đưa các lập luận hay lý lẽ để thực hiện các quyết định, cuối cùng là các lập
luận này cần phải được đưa vào cộng đồng pháp lý cũng như thực tiễn pháp lý để kiểm nghiệm và
bổ sung hoàn chỉnh – điều này đòi hỏi các Thẩm phán cần phải biết lắng nghe, loại bỏ tư tưởng bảo
thủ.
- Án lệ được xem là hình mẫu trong thực tiễn xét xử, nhưng nếu hình mẫu đưa ra không đúng thì
liệu việc áp dụng án lệ cho những lần sau có xảy ra oan sai?
- Trong tương lai, khi án lệ được sử dụng một cách có hiệu quả, thì việc làm đầu tiên của các cơ
quan nhà nước là thiết lập một cách có hệ thống việc công bố các bản án. Đã dự liệu được việc này
từ trước, nên việc tra cứu bản án online hiện nay đã được tích hợp tại Dân Luật.
Để tra cứu bản án online, các bạn có thể vào đây để tìm và tải về.
Ưu điểm:
- Nhằm giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra trên thực tế nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp
luật quy định cụ thể hoặc có quy định nhưng lại có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Việc lựa chọn tốt các án lệ, sẽ là tiền đề cho các vụ việc sau này khi xét xử, tránh được tình trạng
oan sai.
- Tạo ra sự bình đẳng, minh bạch, công khai trong hoạt động xét xử.
- Việc thừa nhận án lệ cũng là một điểm lợi cho các Thẩm phán khi xét xử, chỉ cần xem xét đối chiếu
để đưa ra phán quyết, tráng trường hợp mỗi người nhìn nhận, đánh giá vấn đề một kiểu dẫn đến
trong dự luận xã hội cho rằng việc xét xử này không bình đẳng.




×