Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Văn hóa xứ đoài (qua địa danh hai huyện thạch thất và ba vì, hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
_______________________

Nguyễn Phượng Anh

VĂN HÓA XỨ ĐOÀI
(QUA ĐỊA DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)

Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 62 22 01 13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Trần Nho Thìn
2. PGS.TS Trịnh Cẩm Lan
Phản biện 1: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
.............................
Phản biện 2: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
..............................
Phản biện 3 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
..............................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm
luận án tiến sĩ họp tại Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội
vào hồi



giờ

ngày

tháng

năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Xứ Đoài là tên gọi dân gian của vùng đất nằm ở phía tây kinh
đô Thăng Long xưa. Khu vực này vốn là đất bản bộ của người Việt,
sau đó lại được coi là một trong tứ trọng trấn – phên dậu bảo vệ
Thăng Long – Hà Nội. Vì thế, Xứ Đoài hiện đang lưu giữ nhiều giá
trị văn hóa cả về vật chất lẫn tinh thần và được nhắc tới như một
trong những không gian văn hóa đặc trưng của Đồng bằng châu thổ
Sông Hồng.
Ngày 29/5/2008, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 Về việc
điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có
liên quan. Theo Nghị quyết này, Thủ đô Hà Nội được mở rộng bằng
cách hợp nhất toàn bộ diện tích tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh
Vĩnh Phúc) và 4 xã của huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình). Tiếp
theo, Chính phủ cũng công bố dự án Quy hoạch chung xây dựng Thủ

đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Sau khi nghị
quyết trên được thực thi, Xứ Đoài đã trở thành một phần của Thủ đô.
Vấn đề đặt hiện nay không những phải làm cho Xứ Đoài hòa nhập để
trở thành một phần không thể thiếu, phát triển bình đẳng với các khu
vực khác, mà còn phải gìn giữ các giá trị văn hóa cổ truyền đặc thù
để đáp ứng được chiến lược chung về bảo tồn và phát triển bền vững
không gian văn hóa Xứ Đoài trong tông thể không gian văn
hóaThăng Long – Hà Nội mới.
Từ địa danh, địa danh Xứ Đoài là những sản phẩm hiện thực,
kết quả của sự tri nhận về địa lý, đời sống, sản xuất, phong tục tập
quán, cũng như những quan điểm về chính trị - xã hội mà cộng đồng
cư dân sống ở đó đã cùng nhau gây dựng và trải qua.
1


Tuy nhiên, Xứ Đoài không phải địa danh hành chính, không
phải tên gọi chính thống, biên độ không gian mà nó quy chiếu đến
được nhìn nhận khác nhau trong từng thời kì và tùy thuộc vào quan
điểm của các nhà nghiên cứu. Vì vậy, để định vị và làm sáng tỏ đặc
trưng không gian văn hóa Xứ Đoài nhất định phải dựa vào phương
pháp nghiên cứu và cách tiếp cận liên ngành của Khu vực học. Trong
phạm vi luận án, hệ thống địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì
(Hà Nội) được coi là những trường hợp cụ thể để tiếp cận miêu tả,
làm rõ đặc trưng văn hóa Xứ Đoài. Trên đây là những lí do căn bản
để chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận án là Văn hóa Xứ Đoài
(Qua địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội).
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở cứ liệu địa danh huyện Thạch Thất và huyện Ba
Vì (Hà Nội), thông qua các nghiên cứu liên ngành để:
- Xác định phạm vi của không gian văn hóa Xứ Đoài; Phân tích, lí

giải sự hình thành, quá trình phát triển của Xứ Đoài, cũng như những
yếu tố chính trị - xã hội mà nó chịu tác động;
- Miêu tả, phân tích làm sáng tỏ những đặc trưng tiêu biểu của Xứ
Đoài về vị trí, địa lý tự nhiên, đặc điểm cư trú đời sống sản xuất,
phong tục tập quán của cư dân;
- Đánh giá nguồn lực tiềm năng và cơ hội phát triển, đề xuất giải
pháp lưu giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của hệ thống
địa danh xứ Đoài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn hóa xứ Đoài (Qua hệ
thống địa danh huyện Thạch Thất và huyện Ba Vì, Hà Nội).
3.2 Phạm vi nghiên cứu
2


- Mô tả Xứ Đoài về lịch sử hình thành, môi trường tự nhiên,
không gian xã hội và cách thức mà nó được lưu giữ trong địa danh.
- Địa bàn nghiên cứu là hai huyện Thạch Thất và Ba Vì (Hà Nội).
- Phạm vi thời gian: từ thời điểm 1/8/2008 trở về trước.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu định hướng Khu vực học
Xứ Đoài là không gian văn hoá tạo nên bởi tổng thể những mối
quan hệ đặc thù về vị trí, về môi trường tự nhiên, phong tục tập quán,
thiết chế chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo ...do chủ thể văn hoá sáng
tạo ra và chịu tác động. Địa danh là sản phẩm văn hoá phản ánh tri
nhận của chủ thể, ghi lại những sự biến đổi về lịch sử. Các đăc trưng
của nó có thể định hình được bức tranh không gian văn hoá khu vực.
4.2. Phương pháp liên ngành
- Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp: phân tích phức thể

địa danh với cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa đặc trưng.
- Phương pháp so sánh lịch sử và bình luận sử liệu: tìm ra mối
liên hệ lịch đại của lớp địa danh hiện đang được sử dụng.
- Phương pháp miêu tả và phân tích cảnh quan của địa lý học:
phân loại địa lý tự nhiên của một khu vực thành các vùng và tiểu
vùng dựa trên đặc trưng của một thực thể hay một khu vực địa lý.
Khảo sát, đối chiếu các bản đồ địa hình, bản đồ hành chính, bản
đồ - lược đồ cổ một số nhóm địa danh, phát hiện nguyên nhân và
mục đích của sự thay đổi, biến động trong địa danh của khu vực.
4.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case Study)
Địa danh của hai huyện Ba Vì, Thạch Thất thể hiện cảnh quan
đặc trưng, lưu giữ giá trị văn hoá của Xứ Đoài. Đây cũng là những vị
trí năng động, chịu nhiều tác động từ quá trình phát triển kinh tế.
4.4. Phương pháp điền dã
3


Phương pháp điền dã được thực hiện qua các bước sơ thám, khảo
sát theo các lộ trình chi tiết và ghi lại trong nhật kí hành trình
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Tiếp cận văn hóa Xứ Đoài dưới góc độ khu vực học và bằng
phương pháp nghiên cứu liên ngành; định vị và mô tả đặc trưng văn
hóa Xứ Đoài từ góc độ không gian lịch sử, không gian hình thể và
không gian xã hội.
- Sử dụng các cứ liệu địa danh tại hai huyện Thạch Thất và Ba Vì
(Hà Nội) như là trường hợp điển hình lưu giữ những giá trị văn hóa
Xứ Đoài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: chứng minh rằng Xứ Đoài là một không gian
văn hóa và là một không gian phát triể n. Địa danh là một tín hiệu văn

hóa truyền tải được tiến trình lịch sử, năng lực tri nhận cũng như tâm
lý của cộng đồng người sống trong không gian đó.
- Ý nghĩa thực tiễn: nhận diện các giá trị cổ truyền trong các lớp
địa danh của Xứ Đoài. Từ đó, đề xuất các phương pháp bảo tồn, tận
dụng các giá trị đó trong quá trình hội nhập và phát triển.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận
án gồm các chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2: Không gian lịch sử của Xứ Đoài (Qua địa danh hai
huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)
Chương 3: Không gian địa lý của Xứ Đoài (Qua hệ danh hai
huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)
Chương 4: Không gian xã hội của Xứ Đoài (Qua địa danh hai
huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)
4


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1 .1. Các thu thập khảo cứu trước năm 1888
Các vấn đề liên quan đến Xứ Đoài được nhắc tới ngay trong các
thư tịch của Trung Hoa. Ở Việt Nam, các sách lịch sử như Việt sử
lược (khuyết danh), Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Khâm
định Việt sử thông giám cương mục... hay sách địa chí như An Nam
chí lược (Lê Tắc), Dư địa chí (Nguyễn Trãi), Lịch triều hiến chương
loại chí (Lê Trung Hưng), Đồng Khánh địa dư chí, Đại Nam nhất
thống chí, Bắc thành địa dư chí lục, Sơn Tây quận huyện bị khảo,

Sơn Tây tỉnh chí...(triều Nguyễn) và các loại bản đồ cổ, đều cho biết
thông tin về vị trí, địa hình, địa vật, những biến động của vùng đất
phía tây Thăng Long từ cổ đại đến trung đại.
1.1.1.2. Các khảo cứu từ 1888 - 1945
Giai đoạn này, các tài liệu chữ Hán của triều đình vẫn được sửa
chữa, biên soạn, sao chép. Những tài liệu đầu tiên viết bằng chữ quốc
ngữ như Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kì; Địa dư các
tỉnh Bắc Kì; Sơn Tây tỉnh địa chí đã được xuất bản. Đầu thế kỉ XX,
chính quyền bảo hộ tiến hành thu thập thông tin về điền địa, phong
tục ở nhiều địa phương, trong đó có huyện Thạch Thất, Bất Bạt,
Tùng Thiện, Tiên Phong.
1.1.1.3. Các nghiên cứu sau năm 1945
Từ những dấu tích của văn hóa Sơn Vi ở Ba Vì, năm 1972,
Nguyễn Chiều, Trình Năng Trung, Nguyễn Thị Dơn công bố thêm
các di chỉ liên quan đến văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun.
5


Năm 1997, Sở VHTT tỉnh Hà Tây tổ chức hội thảo Sơn Tinh và vùng
văn hóa cổ Ba Vì. Giai đoạn này, nghiên cứu Xứ Đoài nằm chung
trong các nghiên cứu về Hà Tây, Hà Sơn Bình, Hà Nội. Trước năm
2008, Sở VHTT Hà Tây, Trung tâm Bảo tồn và Phát huy nghệ thuật
dân tộc tổ chức hội thảo khoa học Một số vấn đề văn hiến Hà Tây
truyền thống và hiện đại; Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí biên soạn
Địa chí Hà Tây, 2011. Các nghiên cứu gọi chính xác tên Xứ Đoài
cũng được giới thiệu như Xứ Đoài (Kiều Thu Hoạch); Kinh Bắc-nơi
diễn ra sự tiếp xúc Việt Hán Xứ Đoài – nơi bảo lưu cơ tầng văn hóa
lúa nước của thủ đô Thăng Long (Phạm Đức Dương); Giọng nói Xứ
Đoài - đặc điểm và lịch sử (Nguyễn Văn Lợi); Sơn Tây - Xứ Đoài
văn hiến (Trần Quốc Vượng)...

1.1.2. Giới thuyết về địa bàn nghiên cứu
1.1.2.1. Xứ Đoài trong tâm thức chung của người Việt
Xứ Đoài là vùng trung châu, mang nhiều huyền tích về thời kì sơ
sử. Là phiên trấn phía tây, các sự kiện lịch sử ở Xứ Đoài đều liên
quan đến Thăng Long. Xứ Đoài nổi tiếng bởi những công trình kiến
trúc đặc sắc. Người xứ Đoài cho rằng mỗi làng ở đây còn có một thứ
phương ngôn riêng. Tất cả đều làm nên bản sắc của một vùng đất cổ.
1.1.2.2. Xứ Đoài theo quan điểm của các nhà nghiên cứu
Xứ Đoài thường được xác định qua mốc giới hành chính của tỉnh
Sơn Tây (cũ) và dạng địa hình đặc trưng. Trần Quốc Vượng mô tả
Xứ Đoài như một không gian thuộc văn hoá nền móng, nối kết với
Thăng Long. Việc coi “Sơn Tây – Vĩnh Phú là MỘT" cho thấy một
không gian văn rộng lớn, trải sang cả bờ bên kia của sông Hồng, nơi
hiện nay là địa giới của Việt Trì, Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
1.2.2.3. Địa bàn huyện Thạch Thất – điều kiện tự nhiên và xã hội
Phía bắc và đông bắc huyện Thạch Thất giáp huyện Phúc Thọ,
6


nam và đông nam giáp huyện Quốc Oai, nam và tây nam giáp
tỉnh Hòa Bình, tây giáp Thị xã Sơn Tây. Từ khi bắt đầu được thành
lập năm 1469, tên gọi Thạch Thất và vị trí của nó trên bản đồ hành
chính chưa bao giờ thay đổi.
1.1.2.4. Địa bàn huyện Ba Vì - điều kiện tự nhiên và xã hội
Huyện Ba Vì được thành lập vào năm 1965 từ đất của ba huyện
Bất Bạt Quảng Oai, Tùng Thiện, thuộc vào miền “trung tâm sinh tụ
của tổ tiên chúng ta ở thời Hùng Vương”, gắn với nhiều huyền tích
từ thời kì sơ sử.
1.2. Cơ sở lý thuyết cho đề tài Văn hóa Xứ Đoài (Qua địa danh
hai huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)

1.2.1. Một số vấn đề chung về văn hóa
1.2.1.1. Khái niệm văn hóa
Trần Quốc Vượng cho rằng văn hóa là bất cứ thứ gì liên quan đến
cuộc sống; Phan Ngọc cho “văn hóa là một loại quan hệ”, cộng đồng
chọn lựa “biểu tượng” để tạo ra “mối quan hệ”; Trần Ngọc Thêm cho
rằng "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình".
1.2.1.1 Chủ thể và khách thể của văn hóa
Khách thể văn hóa là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
biểu hiện tùy thuộc vào giới tính, lứa tuổi, tầng lớp, hoàn cảnh và
những tình huống đặc thù. Chủ thể của văn hóa là cộng đồng cư dân
tham gia vào quá trình xây dựng, định hình các giá trị văn hóa. Văn
hóa Xứ Đoài là một hệ thống động, với các biểu tượng liên hệ với
nhau bởi các cấu trúc tượng trưng, có thể thay đổi, phụ thuộc vào
hoàn cảnh, tình thế, phụ thuộc vào điểm nhìn. Các đặc trưng của văn
7


hóa Xứ Đoài được phản ánh một cách năng động qua nhận thức của
chủ thể Xứ Đoài.
1.2.1.3. Không gian văn hóa
Khái niệm không gian văn hóa được kế thừa từ các khái niệm về
Không gian và Không gian xã hội như Raum (F.Ratzel), Kulturkreise
(L.Frobenus), Cultrure areas (F.Boas, C.L.Wisler và A.L.Kroeber).
Theo Georges Codominas, không gian xã hội "được xác định bởi tập
hợp các hệ thống quan hệ đặc trưng cho một nhóm người nào
đó"(1978). H.Lefebvre cho rằng mỗi xã hội tạo ra và sở hữu một
không gian riêng, mỗi mô hình sản xuất với các mối quan hệ sản xuất

đặc trưng tạo ra một không gian xã hội riêng biệt (1984). Vũ Minh
Giang xác định không gian văn hóa là “không gian có cùng điều kiện
tự nhiên và môi trường sinh thái, có cư dân sinh sống, do đó có
những đặc trưng chung về văn hóa”. Sakurai Yumio cho rằng tìm
hiểu “cảnh quan khu vực” là quan trọng hơn cả.
Theo Georges Codominas, có 5 mối quan hệ đặc trưng để miêu tả
không gian. Lefebvre đề xuất ba loại không gian là Không gian thực
tiễn, Không gian khái niệm và Không gian biểu tượng. Phạm Đức
Dương đưa ra quan điểm về Thế giới thực tại, Thế giới ý niệm và Thế
giới biểu tượng. Vũ Minh Giang cho rằng không gian văn hóa được
xác định bởi điều kiện tự nhiên – môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội – môi trường nhân tạo, hoàn cảnh lịch sử, mối quan hệ, tác động
qua lại giữa các yếu tố. Sakurai Yumio cho rằng văn hóa là một loại
cảnh quan do môi trường tự nhiên kết hợp với môi trường nhân tạo.
Khu vực học cho rằng không gian văn hoá, hay không gian li ̣ch sử văn hóa cần phải được nhận thức tổ ng quát tiếp cận liên ngành, đồng
thời, cần ứng du ̣ng vào việc giải quyế t các vấ n đề đặt ra trong thực
tiễn nhằm phục vụ mục tiêu phát triể n bề n vững.
8


Xứ Đoài là một không gian thuộc vào vùng đất rìa Tây đồng bằng
sông Hồng, có dạng địa hình chuyển tiếp từ đồng bằng lên trung du,
cư dân sinh sống lâu đời, lưu giữ và thể hiện các đặc trưng văn hóa
chung của vùng châu thổ cũng như các đặc trưng văn hóa của vùng
chuyển tiếp.
1.2.2. Môt số vấn đề về địa danh
1.2.2.1 Khái niệm địa danh
Trong Giáo trình địa danh học cơ sở (1994) ở Trung Quốc, Chử
Á Bình, Doãn Quân Khoa, Tôn Đông Hổ áp dụng phương pháp địa
lý và định nghĩa địa danh là “một loại kí hiệu ngôn ngữ chỉ một khu

vực lớn nhỏ riêng biệt”, phân biệt địa danh để gọi một thực thể địa lý
và địa danh để gọi một khu vực địa lý. Sự hình thành, biến đổi của
địa danh phản ánh các mối quan hệ đặc trưng mà cộng đồng trong
một không gian thực tiễn sở hữu.
1.2.2.2. Chức năng của địa danh
Lê Trung Hoa cho rằng địa danh có chức năng định danh, cá thể
hóa, phản ánh, bảo tồn. Chử Á Bình đưa ra chức năng xã hội và
chức năng lịch sử. Kế thừa tư tưởng của Lê Trung Hoa và Chử Á
Bình, luận án cho rằng địa danh có Chức năng định danh; Chức năng
phản ánh; Chức năng xã hội.
1.2.2.3 Cấu tạo phức thể địa danh
Nguyễn Kiên Trường đưa ra mô hình địa danh gồm thành tố A
biểu thị các đối tượng có cùng thuộc tính và thành tố B biểu thị các
đối tượng cụ thể. Cũng trong giáo trình Cơ sở địa danh học, Chử Á
Bình cho rằng một phức thể địa danh thông thường có 2 thành tố là
Thành tố chỉ loại (thông danh)và Thành tố chỉ xưng (chuyên danh).
1.2.2.4 Phân loại địa danh
AV Superranskaja chia địa danh thành 7 loại, Nguyễn Văn Âu
9


chia thành 02 loại, Nguyễn Kiên Trường chia nhỏ thêm thành Các
đối tượng sơn hệ và các đối tượng thủy hệ (đối tượng tự nhiên); địa
danh cư trú và địa danh chỉ công trình xây dựng (đối tượng nhân
văn). Từ Thu Mai lưỡng phân thành tự nhiên/không tự nhiên và
nguồn gốc ngôn ngữ. Luận án cho rằng, địa danh một khu vực là một
hệ thống nhiều tầng bậc, gồm các mối quan hệ nội tại và ngoại tại và
cần phải được phân loại như sau:
(1) Quần thể địa danh (nhóm địa danh, lớp địa danh và cảnh
quan địa danh): Nhóm địa danh là tập hợp các địa danh cùng gốc;

Lớp địa danh phân loại dựa vào thời kì lịch sử mà nhóm địa danh
xuất hiện, mối quan hệ tôn ti giữa các đơn vị địa danh; Cảnh quan
địa danh chỉ quần thể địa danh có đặc trưng nào đó trong một khu
vực nhất định.
(2) Điểm địa danh: địa danh tiêu chuẩn hóa, địa danh mang tính
mơ hồ, vi địa danh, địa danh số, địa danh có nguồn gốc vay mượn
1.3. Tiểu kết
Từ các ghi chép, nghiên cứu về văn hóa, địa danh Sơn Tây Xứ
Đoài trong các giai đoạn từ khi dựng nước đến hiện nay, bước đầu
cho thấy, Xứ Đoài là một không gian văn hóa cổ.
Từ nội dung của lý thuyết văn hóa, lý thuyết địa danh, quan điểm
về Xứ Đoài tiếp cận Khu vực học, cách thức phân tích nguồn cứ liệu
địa danh để biểu hiện những giá trị văn hoá trong không gian Xứ
Đoài cũng đã được trình bày trong chương thứ nhất.
Chương 2: KHÔNG GIAN LỊCH SỬ CỦA XỨ ĐOÀI
(QUA ĐỊA DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)

2.1 Xứ Đoài - vùng đất bản bộ của người Việt
2.1.1 Đặc điểm cư trú trên đất Xứ Đoài giai đoạn trước Đông Sơn
10


2.1.1.1. Địa bàn tụ cư nguyên thuỷ và lớp cư dân khai phá Xứ Đoài
Sự xuất hiện của người hiện đại gắn liền với sự ra đời của hoá
Sơn Vi. Thuộc nền văn hoá này, Xứ Đoài có ba địa điểm khảo cổ là
Gò Mả Chảy (Nhuận Trạch, Vạn Thắng), Gò "A" - Núi Quang (xóm
Liên, Cổ Đô) và Đồi Cạn (Thái Hoà).
2.1.1.2. Sự mở rộng địa bàn tụ cư trên vùng đất Xứ Đoài
Các di chỉ Đồng Chỗ (Phú Phương), Đồng Mọn (Tây Đằng), Đồi
Cây Gai (Tiên Phong), Đồi Đà (Cam Thượng), Gò Mả Đống (Đường

Lâm) cho thấy, địa bàn tụ cư có xu hướng xuôi về phía đông, đông
nam. Nơi cư trú thường là các gò, đống. Ngoài ra, họ đã có tư duy
phân biệt giữa nơi ở - sinh hoạt với nơi chôn cất người chết.
2.1.2. Đặc điểm cư trú trên đất Xứ Đoài trong giai đoạn văn hoá
Đông Sơn
2.1.2.1. Những nhóm làng đầu tiên trên đất Xứ Đoài
Ở giai đoạn Đông Sơn, công xã thị tộc bắt đầu chuyển thành làng.
Dấu vết của ngôn ngữ Proto Môn - Khơme, Proto Việt Mường trong
tên làng được xác định bởi cấu tạo, ngữ nghĩa và vị trí phân bố của
chúng. Trong cơ sở dữ liệu, có 10 làng (Kẻ Bí, Kẻ Hóc, Kẻ Chàng,
Kẻ Sổ, Kẻ Ngạnh, Kẻ Săn, Kẻ Ghen, Kẻ Lói, Chạ Ngái) có thể đã ra
đời vào cuối thời kì Đông Sơn, khi ngôn ngữ Proto Môn - Khơme
đang chuyển sang Proto Việt Mường. Kết quả phân tích các tên làng
cho thấy, cư dân Đông Sơn đã cư trú trên 3 điểm thuộc Xứ Đoài là
Phong Châu, lưu vực sông Tích, và bậc thềm phù sa cổ phía tây nam.
Các danh sách khảo cổ cũng những kết quả khá đồng nhất.
2.1.2.2. Những sự giao thoa tiếp xúc với người Tày Thái và Nam Đảo
Trong quá trình tiếp xúc với người Tày Thái, Nam Đảo, người
Đông Sơn đã dùng những từ vựng mới để định danh cho những nơi
cư trú và canh tác. Kẻ đã không còn phân bố nhất loạt mà bị làng và
11


các yếu tố phân loại khác như Nủa, Bương, Vồi thay thế. Có thể
phân loại tên làng có thể đã ra đời vào thời kì này thành nhóm "có
nghĩa mờ" và nhóm"nghĩa khả rõ ràng".
2.1.2.3. Những sự giao thoa với người phương Bắc
Cuối giai đoạn Đông Sơn, tiếng Proto Việt Mường có thêm một
diện mạo mới. Đó là do sự xâm nhập của các yếu tố Hán Việt cổ
vào việc đặt tên làng (Kẻ Cũ, Kẻ Mơ, Kẻ U), yếu tố Hán Việt đơn

tiết (Kẻ Hạc, Kẻ Vân, Kẻ Phiêu...), yếu tố Hán Việt được Việt Hoá
(Làng Gượm, Kẻ Cầu, Làng Vồi...). Cuối Bắc thuộc, dân cư đã mở
đất lập làng trên tất cả bề mặt xứ Đoài.
2.2 Định danh định địa trên đất Xứ Đoài trước thời kì độc lập
tự chủ
2.2.1 Các đơn vị hành chính trước giai đoạn An Nam đô hộ phủ
Cho đến hết thời nhà Hán, phía tây bắc Xứ Đoài là nơi cư trú của
bộ lạc Mê Linh, đông nam Xứ Đoài - ven sông Đáy là đất của bộ lạc
Chu Diên. Sự thay đổi nổi bật khi nhà Ngô đặt lại các địa danh hành
chính của nhà Hán, lập 2 quận mới là Tân Hưng và Vũ Bình. Tân
Hưng (cắt từ huyện Mê Linh) gồm các huyện Mê Linh, Gia Hưng,
Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo. Vũ Bình (cắt từ Chu
Diên) gồm các huyện Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ
Định, Phú Yên, Phong Khê.
2.2.1 Các đơn vị hành chính trong giai đoạn An Nam đô hộ phủ
Cho đến hết Bắc thuộc (866), Xứ Đoài thuộc Phong Châu và một
vài huyện phí tây của Giao Châu thuộc An Nam đô hộ phủ.
2.3. Định danh định địa ở Sơn Tây-Xứ Đoài giai đoạn phong
kiến và thuộc địa
2.3.1. Định danh định địa trên đất Xứ Đoài sau khi xây dựng
nền độc lập tự chủ đến giai đoạn Lý Trần
12


Thời Lý, Xứ Đoài nằm trên đất của Châu Quốc Oai, Châu Phong,
Đạo Lâm Tây. Đầu đời Trần, Châu Quốc Oai đổi thành lộ, Lâm Tây
đổi thành đạo Đà Giang, Châu Phong thuộc về lộ Tam Giang. Ba Vì
thuộc châu Đà Giang, lộ Tam Giang và thượng lưu châu Quốc Oai.
Thạch Thất thuộc hạ lưu của châu Quốc Oai. Cho đến hết thời Trần,
Xứ Đoài nằm trên đất các huyện Phù Long, Yên Lãng, Phù Ninh,Yên

Lạc, Lập Thạch, Nguyên Lang thuộc châu Tam Đái thuộc lộ Đông
Đô; Châu Đà Giang (Long Bạt và Cổ Nông) châu Tuyên Giang, châu
Thao Giang thuộc lộ Tam Giang; huyện Ma Lung và Mỹ Lương
thuộc trấn Quảng Oai; huyện Thạch Thất và Đan Phượng thuộc châu
Từ Liêm, lộ Đông Đô.
2.3.2. Sự ra đời của địa danh Sơn Tây và tổ chức hành chính của Sơn
Tây đến trước Cách mạng Tháng Tám
2.3.2.1.Các đơn vị hành chính ở Thừa tuyên/ Trấn Sơn Tây giai
đoạn Lê Trịnh
Năm 1466 -1469, bản đồ Hồng Đức đánh dấu sự ra đời của địa
danh Thừa tuyên Sơn Tây với 6 phủ 24 huyện. Đến giai đoạn Lê
Trung Hưng, địa danh Xứ Đoài xuất hiện, góp phần cố định hoá về
một biểu tượng Sơn Tây - Xứ Đoài trong tâm thức dân gian trong
nhiều thế kỉ.
2.3.2.2. Các đơn vị hành chính ở Trấn/Tỉnh Sơn Tây thời Nguyễn
Sau cải cách Minh Mệnh 1831-1831, Trấn Sơn Tây đổi thành
Tỉnh Sơn Tây, diện tích đã nhỏ hơn so với trước. Huyện Minh Nghĩa,
Phúc Lộc đổi thành huyện Tùng Thiện, huyện Phúc Thọ, huyện Từ
Liêm cắt khỏi Sơn Tây nhập vào Hà Nội, huyện Tam Nông nhập vào
Hưng Hoá, huyện Đương Đạo nhập vào huyện Sơn Dương, phủ Tam
Đới đổi tên thành phủ và phân phủ Vĩnh Tường.
2.3.2.3 Các đơn vị hành chính ở Tỉnh Sơn Tây thời thuộc Pháp
13


Cuối thế kỉ XIX đầu kỉ XX, Pháp cắt đất của Tỉnh Sơn Tây để lập
các tỉnh Hòa Bình (1891), Vĩnh Yên (1899), Phú Thọ (1903), Tuyên
Quang (1888) và mở rộng thành phố Hà Nội. Tư duy “MỘT - Xứ
Đoài” tồn tại suốt hơn năm thế kỉ. Diện tích Tỉnh Sơn Tây nhỏ đi
thêm một phần nữa và trở thành một tỉnh trong sông.

2.4 Những biến đổi về hành chính ở Xứ Đoài sau Cách mạng Tháng
Tám đến 2008
2.4.1 Biến đổi địa danh ở Xứ Đoài sau cách mạng tháng Tám
Sau năm 1948, nhiều xã ở Xứ Đoài được hợp nhất, ghép tên, đặt
số, tổ chức thành hợp tác xã. Năm 1965 -1968, tỉnh Hà Đông và tỉnh
Sơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây, huyện Quảng Oai, Bất Bạt và
Tùng Thiện hợp nhất thành huyện Ba Vì. Phức thể Tỉnh Sơn Tây bị
xoá bỏ. Cuối thập kỉ 60, nhiều tên truyền thống đã được khôi phục
(Lam Sơn đổi thành Dị Nậu; Đồng Lạc đổi thành Lại Thượng; Tân
Dân đổi thành Khánh Chúc; Đồng Tâm đổi tên là Phú Đông). Năm
1991, Xứ Đoài nằm trong tỉnh Hà Tây cho đến năm 2008 thì toàn bộ
Xứ Đoài lại trở thành một phần của Hà Nội.
2.4.2 Hiện trạng địa danh chỉ khu vực nhân văn ở Xứ Đoài đến trước
năm 2008

Địa danh ở Xứ Đoài hiện có các địa danh cổ (Thạch Thất, Đại
Đồng, Tây Đằng…), các địa danh có yếu tố cổ (Đồng Trúc, Thạch
Xá, Chàng Sơn…); các địa danh được đặt bằng cách ghép tên các
thôn xã cũ (Cẩm Yên từ Cẩm Bào và Yên Lỗ; Hạ Bằng từ Lạ Lôi và
Bằng Trù, Tòng Bạt từ Tòng Lệnh và Thái Bạt..); các địa danh mới
(Yên Bình, Tiến Xuân, Minh Quang, Vạn Thắng...) Tương ứng với
mỗi ĐDHC là một nhóm địa danh dân cư cũng đa dạng không kém,
được chuyển hóa từ địa danh phi hành chính, từng là các tên thôn xã
cũ, địa danh số...
14


2.5. Tiểu kết
Chương thứ hai này phân tích quá trình biến đổi lớp địa danh
nhân văn trong quá trình tụ cư và tổ chức các thiết chế hành chính tại

một khu vực “phiên trấn” cho Thăng Long – Hà Nội. Đi từ những
thời đại xa nhất đến những năm gần đây, có thể thấy, địa danh của
Xứ Đoài gắn liền với mọi biến động của lịch sử khu vực đồng bằng
Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Chương 3: KHÔNG GIAN ĐỊA LÝ CỦA XỨ ĐOÀI
(QUA ĐỊA DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)

3.1. Vị trí địa lý của Xứ Đoài
3.1.1. Vị trí của Xứ Đoài qua lớp địa danh chỉ phương hướng
Ở Xứ Đoài hiện nay, lớp địa danh gọi theo vị trí chỉ quy chiếu
đến một không gian nhỏ. Trên địa bàn, chỉ có một vài địa danh mà
yếu tố chỉ phương hướng quy chiếu đến vị trí tổng thể là Thị trấn
Tây Đằng, Thị xã Sơn Tây và Tây Phương cổ tự. Có thể nói, lớp địa
danh có yếu tố chỉ phương vị không phải là hiện tượng thích hợp để
xác định diên cách của không gian Xứ Đoài.
3.1.2. Vị trí Xứ Đoài qua lớp địa danh mượn tên riêng của thực
thể tự nhiên.
Các thực thể tự nhiên thường được cho là biểu tượng của Xứ Đoài
là Núi Ba Vì, sông Hồng, sông Tích, sông Đà, sông Đáy, hệ thống
núi “Thập lục kì sơn”. Loại thực thể này đã trở thành chất liệu vay
mượn để đặt cho địa danh chỉ khu vực nhân văn. Các địa danh nhân
văn loại này thường phân bố xung quanh hoặc gần vị trí của các thực
thể đó. Mối quan hệ giữa chúng tạo ra cảnh quan không gian đặc thù
chỉ có thể thấy ở một khu vực địa lý nhất định.
3.1.3. Vị trí của Xứ Đoài qua đặc trưng lớp địa danh tiêu chuẩn hoá
15


có tính lịch sử
Không gian Xứ Đoài cần được xác định nhờ vào sự cộng gộp, xâu

chuỗi của lớp địa danh cổ gắn liền với vùng đất này khi nó còn là
trấn Sơn Tây, thời điểm mà văn hóa Xứ Đoài được thể hiện tròn vẹn
và địa danh của nó bắt đầu được ghi lại một cách đầy đủ nhất.
3.2. Địa hình và môi trường tự nhiên của Xứ Đoài
3.2.1. Địa hình và môi trường tự nhiên của Xứ Đoài
(1) Kiểu địa hình núi – dạng khối núi thấp, khối tảng: nằm ở cực
tây của Hà Nội. Đại diện của địa hình là khối núi Ba Vì, với 2 đỉnh
tách biệt là Tản Viên (1269) và Viên Nam (1031).
(2) Kiểu địa hình đồi và đồng bằng đồi là bậc chuyển tiếp xuống
đồng bằng, có dạng bát úp hay chóp thoải, nối tiếp nhau.
(3) Địa hình trong đới sụt nằm trong “võng sông Hồng” chia
thành đồng bằng dạng gò và bãi bồi ngoài đê. Đồng bằng dạng gò,
nằm cả ở 2 bên bờ sông Tích, có nguồn gốc sông – đầm lầy, nối liền
từ bắc xuống nam. Bãi bồi ngoài đê là một bộ phận của đồng bằng
sông Hồng chạy từ phía đông của Ba Vì xuống Quốc Oai, gồm bãi
bồi cao ngoài đê của sông Đáy, sông Hồng và một vài cù lao sông.
3.2.2. Đặc điểm địa hình và môi trường tự nhiên của Xứ Đoài
3.2.2.1. Cảnh quan địa danh phía tây bắc
Dãy Ba Vì đại diện cho dạng địa hình Núi thấp – khối tảng. Địa
danh chỉ KVTN - địa hình cao được đặt theo truyền thuyết về Sơn
Tinh (Đỉnh Vua/ Ông, Đỉnh Ngọc Hoa, Chàng Rể). Địa danh chỉ
KVTN - địa hình thấp/dòng chảy được định danh bằng phương thức
mô tả (suối Hương, suối Ninh, suối Mít - Khánh Thượng, Suối Đền,
Suối Cốc, suối Vai - Minh Quang). Lớp ĐDHC mới đặt, gắn liền với
chính sách di dân, nhưng cũng cũng miêu tả tính chất đồi núi của
khu vực này (thôn Yên Sơn, thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì).
16


Địa hình đồi và đồng bằng đồi xung quanh chân núi được biểu

hiện cả ở địa danh chỉ KVTN lẫn KVNV. Các phức thể địa danh chỉ
KVTN thu thập được có 15 thành tố chỉ loại miêu tả địa hình. Trong
các địa danh chỉ KVNV, thành tố chỉ đặc điểm địa hình trở thành
yếu tố cấu thành tố chỉ biệt của phức thể. Sự bố trí của các địa danh
chỉ KVNV cho thấy một Cảnh quan địa danh địa hình núi đồi đồng
bãi ao hồ xen kẹp do ảnh hưởng của đứt gãy võng sông Hồng.
3.2.2.2 Cảnh quan địa danh phía đông
Đây là nơi cư trú lâu đời nên các địa danh chỉ KVTN hầu hết đều
được chuyển hóa địa danh chỉ KVNV. Sự tồn tại của lớp địa danh chỉ
hệ thống núi/đồi thấp, núi sót là điểm khác biệt lớn nhất và cũng là
cảnh quan đặc trưng của hạ lưu Xứ Đoài. Phía đông nam, địa danh
chỉ các KVTN cho thấy một sự thuần nhất tương đối. Địa danh phía
đông bắc Ba Vì biển hiện những đặc trưng của kiểu địa hình bãi bồi
và những cù lao sông do lở bồi dòng chảy. Các địa danh chỉ khu vực
tự nhiên không nhiều và cũng hầu hết được chuyển hóa thành các địa
danh chỉ các khu vực nhân văn.
3.3. Tiểu kết
Vị trí Xứ Đoài được xác định thông qua các địa danh chỉ vị trí,
mượn tên thực thể, thông qua sự nối kết thành chuỗi, thành hệ thống
giữa các địa danh tiêu chuẩn hóa với các vi địa danh. Sự bảo lưu
nguyên vẹn hoặc gần như nguyên vẹn các tên gọi cổ xưa đã góp phần
neo giữ những ý niệm về Xứ Đoài trong tâm thức người Việt.
Cứ liệu địa danh cho thấy, Xứ Đoài là một không gian “bán sơn
địa”. Tỉ lệ chuyển hóa giữa địa danh chỉ khu vực tự nhiên thành khu
vực nhân văn cho thấy xu hướng cư trú của cư dân vẫn là ở đồng
bằng, bãi bồi – nơi dễ canh tác, sản xuất theo tập quán truyền thống
của nông dân đồng bằng châu thổ sông Hồng.
17



Chương 4: KHÔNG GIAN XÃ HỘI CỦA XỨ ĐOÀI
(QUA ĐỊA DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)

4.1. Vị trí địa lý của Xứ Đoài (Qua địa danh hai huyện Thạch
Thất và Ba Vì, Hà Nội)
4.1.1 Không gian thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
4.1.1.1. Đặc điểm canh tác của người Xứ Đoài nhìn từ địa danh
chỉ nơi sản xuất
Ở dải đồng bằng phía đông và ở vùng trung tâm, người Xứ Đoài
canh tác trên các xứ đồng, được phân loại thành rộc, đồng, đìa,
đầm/trầm hoặc mả và mộ. Sự kết hợp các thành tố chỉ loại với thành
tố chỉ biệt là một từ thuần Việt gợi ra những ý niệm về quần thể thực
vật, những yếu tố nhân sinh hoặc đặc trưng cảnh quan Xứ Đoài.
4.1.1.2. Đặc điểm canh tác của Xứ Đoài nhìn từ địa danh chỉ nơi cư trú
Nhiều tên xứ đồng, ao đầm đã được chuyển hoá thành tên thôn,
tên làng, tên xóm và ngược lại. Vì vậy, nhóm địa danh chỉ nơi cư trú
cũng gián tiếp cung cấp các thông tin về không gian sản xuất. Một
nhóm địa danh khác nằm trong dạng phức thể có cấu tạo Sản phẩm +
Địa danh. Cách gắn địa danh với sản phẩm thành những cụm từ cố
định đã góp phần khu biệt hóa sản phẩm đó như một thứ đặc sản,
như một biểu tượng văn hoá như Lượt Bùng/Phùng Xá, Chồi Bùng
vải Kẻ Núc, Nâu kẻ Sải (Thúy Lai), Lúa Hương Ngải…
4.1.2 Không gian không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
4.1.2.1. Khu vực đồi núi phía tây
Khu vực đồi núi phía tây đất canh tác hạn chế, điều kiện tự nhiên
nguy hiểm, không phải nơi cư trú phù hợp cho người Việt châu thổ.
Vì thế, nhóm vi địa danh còn bảo lưu hoàn toàn sự thô sơ và bản địa.
Những địa danh có cấu tạo Hán Việt song âm tiết đều là địa danh
18



mới, bắt nguồn từ tên của các hợp tác xã, xí nghiệp giải thể hoặc
chuyển đổi cơ cấu mà thành. Hiện nay ở khu vực này có một số làng
nghề được công nhận, trong đó địa danh trở thành một phần quan
trọng để cá thể hoá tên gọi làng nghề. Ngoài ra, để tận dụng môi
trường thiên nhiên và sinh thái nhân văn để cho hoạt động du lịch,
những địa danh chỉ KVTN thuần phác được đặt những tên mới bay
bổng, hấp dẫn. Ý niệm về một nơi “ma thiêng nước độc” đã được
thay thế bằng một nơi "non xanh nước biếc", "sơn thuỷ hữu tình".
4.2.2.2. Khu vực gò đồi trung tâm
Khu vực ven sông Tích nơi cư trú lâu đời chũng là khu vực đất
chật người đông vào bậc nhất Xứ Đoài. Vì “đa đinh thiểu điền”,
người nông dân đã phải tìm cách “dĩ nghệ thế điền”. Nhờ đó, Xứ
Đoài mới trở thành “mảnh đất trăm nghề”. 09 làng nghề truyền thống
được công nhận của Xứ Đoài đều nằm ở đây. Giống như những tên
gọi làng nghề ở khu vực đồi núi phía Tây, những tên gọi làng nghề
không còn chỉ lưu truyền dân gian mà đã được nhà nước bảo hộ như
một dạng tên gọi cố định.
4.2 Diện mạo làng xã Xứ Đoài truyền thống (Qua địa danh hai
huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)
4.2.1 Không gian làng qua lớp địa danh chuyển hoá từ công trình
công cộng
Không gian làng được đánh dấu bằng các thực thể nổi bật, dễ
quan sát, dễ định vị, thuộc sở hữu của làng. Chúng cũng xuất
hiện trong các vi địa danh chỉ nơi cư trú. Một số vi địa danh còn
được gia tăng thêm yếu tố tên riêng để nâng cao tính cá thể hóa
theo các mức độ khác nhau, đánh dấu những đặc trưng và “niềm
tự hào” của làng.
4.2.2 Không gian làng qua lớp địa danh chỉ phương hướng
19



Không gian làng còn được định hướng bằng các cặp từ thượng –
hạ, trên – dưới, nội – ngoại hoặc trong - ngoài, đông – nam –
đoài/tây – bắc. Nhờ các cặp từ này, mối quan hệ giữa các làng với
nhau, trong nội làng, giữa đất thổ cư và đất canh tác mở rộng ngoài
làng được người dân nhận thức. Các cặp từ phương vị còn được phối
hợp với các vật quy chiếu nổi bật. Chúng phù hợp với thói quen tri
nhận cụ thể lại hữu dụng, tiện lợi cho việc định hướng cũng như tổ
chức các không gian sinh hoạt và sản xuất chung của dân làng.
4.3. Kết cấu xã hội ở Xứ Đoài
4.3.1. Tên làng Xứ Đoài và các dòng họ
Làng theo họ không phổ biến biến ở Xứ Đoài. Vùng thượng châu
thổ không có làng nào mang tên xá. Vùng hạ châu thổ mà Thạch
Thất làm đại diện hiện chỉ còn Thạch Xá, Phùng Xá. Đầu thế kỉ XX
có thêm Bình Xá (Đặng Xá). Mặc dù không nhiều nhưng những dấu
vết lịch sử để lại có giá trị không nhỏ.
4.3.2 Những dấu vết của sự di dân
Những cuộc di dân ở Xứ Đoài có thể do sự thay đổi nào đó về
điều kiện tự nhiên (đất lở đất bồi), xã hội (đất chật người đông, các
phường nghề) hoặc chính trị (hiến đất, khai hoang, mở đất, trấn
đất..).
4.4. Quan điểm chính trị và nguyện vọng trong địa danh ở Xứ Đoài
4.4.1. Quan điểm chính trị trong quá trình Hán tự hoá địa danh
Quá trình Hán tự hoá cho các địa danh Nôm sau nhiều triều
đại gần như đã hoàn thiện. Đến thế kỉ XIX, chúng lại phải đối
mặt với các lệ kiêng huý. Rất nhiều địa danh đã phải đổi âm đọc,
đổi dạng chữ. Khi hệ chữ Latin được sử dụng thì việc Hán tự hoá
không còn là áp lực. Nhiều vi địa danh không được kê trong các
tài liệu sách vở của giai đoạn trước đã được giữ lại gần như

20


nguyên vẹn. Điều này đã tạo nên một cảnh quan phức hợp của
các lớp địa đanh Xứ Đoài.
4.4.2. Quan điểm chính trị trong quá trình đặt địa danh Xứ Đoài
Lớp địa danh hành chính thường phản ánh lý tưởng chính trị của
chủ thể như: thể hiện lí tưởng trường trị cửu an dùng yên/an, ninh,
thái, hoà, vĩnh, trường, miên dung, quan niệm quyền lực chuyên chế
dùng quảng, oai, chinh, thuận, bình, lênh, pháp, tuyên, hóa, thiên,
thừa, tòng/tùng. Phát triển thêm một bước nữa, nhưng khác biệt về
chất là quan điểm độc lập – tự do – hạnh phúc cũng được thể hiện
trong việc đặt địa danh ở Xứ Đoài sau Cách mạng.
4.4.3. Nguyện vọng về cuộc sống trong việc đặt địa danh Xứ Đoài
Địa danh cũng thể hiện tâm tư nguyện vọng của nhân dân, như
bình an hạnh phúc, như ý cát tường, phúc thọ thông đạt, phú quý
vinh hoa. Số liệu của khảo sát cho thấy, địa danh có xuất hiện từ phú
cao hơn rất nhiều so với các từ chỉ may mắn khác (thịnh, hưng,
vượng phúc, lộc, thọ, cát, cát, tường, thuận, đạt, thông) và tập trung
ở chính khu vực kinh tế khó khăn nhất của Xứ Đoài.
4.5. Tiểu kết
Các lớp địa danh cho thấy, Xứ Đoài là vùng đất vừa thuận lợi
vừa không thuận lợi cho sản xuất. Cũng bằng địa danh, diện mạo
chung của một làng Xứ Đoài được mô tả, với đình, đền, chùa,
quán, chợ, ao, hồ, đầm, bãi... Trong quá trình biến đổi, chịu các tác
động của xã hội và lịch sử, rất nhiều các công trình công cộng, các
giá trị văn hóa phi vật thể và vật thể của làng đã không còn. Nhưng
may mắn là, rất nhiều địa danh đã cùng người làng lưu giữ lại được
bóng dáng của những biểu tượng văn hóa đó.Bên cạnh kết cấu
không gian, kết cấu xã hội của Xứ Đoài được miêu tả qua dấu

vết của những cuộc di dân và những làng theo họ. Chương này
21


cũng phân tích các quan điểm chính trị và nguyện vọng của chủ
thể văn hoá gửi gắm trong việc đặt địa danh.

KẾT LUẬN
Dựa trên lý thuyết Khu vực học và phương pháp liên ngành, luận
án “Văn hóa Xứ Đoài từ địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì
(Hà Nội)” đã tiếp cận Xứ Đoài như một không gian văn hóa. Địa
danh của hai huyện Thạch Thất và Ba Vì là những cứ liệu để xác
thực không gian văn hóa đó.
Xứ Đoài là một không gian thuộc vào vùng đất rìa Tây đồng bằng
sông Hồng, có dạng địa hình chuyển tiếp từ đồng bằng lên trung du,
cư dân sinh sống lâu đời, lưu giữ và thể hiện các đặc trưng văn hóa
chung của vùng châu thổ cũng như các đặc trưng văn hóa của vùng
chuyển tiếp. Ở khu vực thượng châu thổ, mà Ba Vì là đại diện, dung
chứa không gian văn hóa bản địa, bảo lưu những yếu tố Việt Mường.
Ở khu vực hạ châu thổ, mà Thạch Thất làm đại diện, là nơi tiếp biến
và giao lưu văn hóa với vùng Thượng Kinh. Nó khiến cho Xứ Đoài
không chỉ là một vùng đất để bảo lưu mà còn là một vùng đất năng
động, vừa bảo vệ vừa tiếp sức cho Thăng Long – Hà Nội.
Trong mối quan hệ với văn hóa Xứ Đoài, địa danh là một loại tín
hiệu ngôn ngữ truyền tải các thông điệp văn hóa phản ánh tri nhận
của chủ thể văn hóa về mọi mặt của đời sống tự nhiên và xã hội. Vì
vậy, chúng tồn tại không phải như một bảng từ với danh sách các từ
đồng loại ngang cấp với nhau mà là như một hệ thống, với các điểm,
các nhóm và các lớp. Địa danh phản ánh tri nhận của chủ thể văn
hóa về mọi mặt của đời sống tự nhiên và xã hội, tồn tại như một hệ

thống.
22


Từ địa danh, luận án phân tích quá trình khai phá Xứ Đoài từ
những buổi bình nguyên của lịch sử, khi những người Việt cổ thiên
di từ từ vùng núi đồi phía tây bắc xuống đồng bằng châu thổ phía
đông nam. Cho đến hết giai đoạn Bắc thuộc, dân cư đã mở đất lập
làng trên tất cả bề mặt của Xứ Đoài. Mọi biến động của địa danh ở
Xứ Đoài đều gắn liền với biến động của lịch sử khu vực đồng bằng
Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Quá trình biến động đó đã
hình thành nên không gian lịch sử cho Xứ Đoài và nó được ghi dấu
lại bằng địa danh.
Từ địa danh, Xứ Đoài hiện lên như một không gian “bán sơn địa”
với cả tính chất của núi thấp, gò đồi, đồng bằng trong đê và các bãi
bồi ngoài đê. Tỉ lệ chuyển hóa hầu hết các địa danh chỉ khu vực tự
nhiên thành khu vực nhân văn ở phía đông cho thấy người Xứ Đoài
vẫn thiên về cư trú ở các đồng bằng, bãi bồi – nơi dễ canh tác, sản
xuất theo tập quán truyền thống của nông dân châu thổ sông Hồng.
Xứ Đoài vừa thuận lợi vừa đất không thuận lợi cho sản xuất.
Ở nơi thuận lợi, họ khai thác những lợi thế mà thiên nhiên ưu
đãi. Ở nơi không thuận lợi, họ tìm cách thích nghi, biến đồ ăn
thức đựng hàng ngày thành đặc sản, biến thiên nhiên hoang sơ,
khó canh tác thành một nơi nghỉ dưỡng, biến vùng đất nghèo khó
“ám ảnh” trở thành một vùng năng động trên mọi mặt trận ở
châu thổ sông Hồng.
Như các làng Việt khác, làng Xứ Đoài cũng có đình, đền, chùa,
quán, chợ, ao, hồ, đầm, bãi... Nhiều các công trình công cộng, các
giá trị văn hóa phi vật thể và vật thể của làng và bản thân tên làng đã
không còn. Tuy nhiên, những địa danh còn tồn tại đã cùng người

làng lưu giữ lại được những kí ức về một vùng đất nhiều truyền
thống văn hóa và lịch sử.
23


×