Tải bản đầy đủ (.docx) (164 trang)

Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ mới 1932 - 1945 (trên cứ liệu thi nhân việt nam và thơ xuân diệu, nguyễn bính)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.19 KB, 164 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN VĂN NAM

ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ TÌNH YÊUTRONG THƠ MỚI
1932 - 1945
(Trên cứ liệu Thi nhân Việt Nam và thơ Xuân Diệu,
Nguyễn Bính)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


2
2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN VĂN NAM

ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ TÌNH YÊUTRONG THƠ MỚI
1932 - 1945
(Trên cứ liệu Thi nhân Việt Nam và thơ Xuân Diệu,
Nguyễn Bính)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã ngành: 9 22 01 02


LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Lý Toàn Thắng

THÁI NGUYÊN - 2017

2


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2017
Tác giả luận án
Trần Văn Nam

3


4
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho tôi gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo và Ban Chủ nhiệm
khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
cùng quý thầy cô ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt
Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy, động viên, nhiệt tình giúp đỡ
và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TSKH Lý Toàn Thắng,
người thầy đã cho tôi nền tảng tri thức, kinh nghiệm và lòng ham nghiên cứu khoa
học để hoàn thành luận án này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn người thân và bạn bè đã động viên, tiếp sức để tôi
có được kết quả như hôm nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2017
Tác giả luận án
Trần Văn Nam

4


5
MỤC LỤC

5


6
DANH MỤC CÁC BẢNG

6


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các nhà ngôn ngữ học truyền thống quan niệm, ẩn dụ hình thành dựa trên sự

so sánh ngầm. Đây chính là điểm để phân biệt ẩn dụ và so sánh. Như vậy, ẩn dụ chỉ
được nghiên cứu trong lĩnh vực phong cách học hay tu từ học và ẩn dụ chỉ thuộc về
bản thân ngôn ngữ.Nếu ngôn ngữ học cấu trúc chỉ quan tâm trước hết đến bản thân
ngôn ngữ một cách khuôn mẫu thì ngôn ngữ học tri nhận còn quan tâm đến những
quá trình tri nhận/tinh thần (như tri giác, tư duy, kí ức, chú ý...) mà ngôn ngữ vốn
cũng là một thành phần trong những quá trình đó và chịu sự tương tác với chúng.
Các nhà ngôn ngữ học tri nhận chỉ ra rằng, ẩn dụ là một hoạt động thường xuyên
của tư duy. Trong cuốn “Metaphors We Live By” xuất bản năm 1980, Lakoff và
Johnson đã chứng minh ẩn dụ không chỉ đơn giản là dùng sự vật này để gọi tên sự
vật khác. Vì thế, áp dụng lý thuyết tri nhận vào nghiên cứu văn chương đã trở thành
một phong trào có sự lôi cuốn đặc biệt trên toàn thế giới.
Thời gian gần đây ở Việt Nam, tìm hiểu thơ ca theo lý thuyết tri nhận là một
hướng đi có sức thu hút lớn. Một số nhà ngữ học trẻ quan tâm nghiên một số tác giả
riêng lẻ của phong trào Thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Bính... Dễ
thấy, Thơ mới là phong trào đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ nhưng đều xuất
hiện chủ yếu trong các giáo trình văn học hoặc các chuyên khảo mang tính tổng hợp
được nhìn từ góc độ thể loại, thi pháp... Trong các công trình nghiên cứu đó, Thi
nhân Việt Nam là công trình có giá trị, đã tổng hợp và đánh giá tương đối quy mô,
toàn diện đối với phong trào Thơ mới. Đặc biệt, mỗiphần giới thiệu về một nhà
thơ,tác giả Thi nhân Việt Nam làm toát lên nét đặc sắc nhất tạo phong cách riêng
của từng người.
Tình yêu là chủ đề tiêu biểu nhất góp phần làm nổi bật cái Tôi độc đáo trong
Thơ mới. Với công trình của mình, người nghiên cứu giúp độc giả thấy được sự
sáng tạo mới mẻ về từ ngữ, hình ảnh cũng như tư duy của các nhà Thơ mớiqua cách
ý niệm hóa tình yêu. Vì lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề "Ẩn dụ ý niệm về
tình yêu trong Thơ mới 1932 - 1945" làm đề tài nghiên cứu của luận án.
7


8


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Góp phần khẳng định tính đúng đắn của việc áp dụng lý thuyết tri nhận vào
nghiên cứu thi ca. Đồng thời đây cũng là quá trình thực hành để kiểm nghiệm giả
thuyết về mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa và tư duy trong thi ca dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận, từ đó thấy được giá trị của ẩn dụ ý niệm trong thi ca.
- Qua so sánh đối chiếu với hệ thống các ẩn dụ ý niệm về tình yêu ở một số
tác phẩm thơ trung đại tiêu biểu, người viết chỉ ra được sự độc đáo trong cách ý
niệm hóa tình yêu của các nhà Thơ mới gắn với lối tư duy thời đại; đồng thời qua so
sánh các ẩn dụ ý niệm tình yêu của hai nhà thơ Xuân Diệu và Nguyễn Bính để chỉ
ra được sự khác biệt rõ rệt về tư duy ngay trong nội bộ các nhà Thơ mới khi ý niệm
hóa tình yêu. Chính sự khác biệt ấy đã tạo nên cá tính của mỗi nhà thơ.
2.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích trên, chúng tôi đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tập hợp có lựa chọn các cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu của
luận án và tổng hợp một số quan điểm về tình cảm cũng như các vấn đề liên quan
đến đối tượng khảo sát.
- Tổng hợp, phân loại và thiết lập các mô hình ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong
thơ mới, thơ Nguyễn Bính và thơ Xuân Diệu trước năm 1945.
- Phân tích cơ chế chiếu xạ giữa miền nguồn và miền đích dựa trên những
thuộc tính đặc trưng tiêu biểu nhất. Đồng thời, lý giải cũng như phân tích các lược
đồ tri nhận trong thơ mới để thấy được vẻ đẹp con người tinh thần của các nhà thơ
qua hệ thống ý niệm về tình yêu cũng như thấy được mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn hóa - tư duy.
- So sánh đối chiếu các kiểu ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong sáng tác của các
nhà Thơ mới với các kiểu ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ trung đại,đồng thời so
sánh ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ Nguyễn Bính và Xuân Diệu để thấy được
cá tính sáng tạo của các tác giả thơ mới cũng như sự khác biệt rõ rệt ngay trong nội
bộ các nhà Thơ mới.
8



9

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thời kỳ Thơ mới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong Thi nhân Việt Nam có thể có nhiều loại. Tuy
nhiên, với khuôn khổ của Luận án, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu một loại ẩn
dụ ý niệm về tình yêu đó là ẩn dụ cấu trúc. Bởi vì, ẩn dụ cấu trúc là dạng tiêu biểu
và xuất hiện nhiều nhất trong các tác phẩm thơ mới.
4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp miêu tả được dùng để diễn đạt chính
xác các hiện tượng ngôn ngữ (cơ chế ẩn dụ hóa, quy trình chiếu xạ, miền nguồn và
miền đích, sự tương đồng giữa miền nguồn và miền đích ...). Bên cạnh đó, chúng tôi
còn kết hợp giải thích hợp lý các biểu thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ.
- Thủ pháp so sánh: Trong quá trình phân tích các ẩn dụ ý niệm, chúng tôi
tiến hành so sánh cách ý niệm hóa tình yêu của các nhà thơ qua việc sử dụng các
kiểu ẩn dụ ý niệm hoặc việc sử dụng cùng một kiểu ẩn dụ ý niệm, để từ đó chỉ ra
nhãn quan độc đáo của mỗi người trong quá trình ý niệm hóa tình yêu. Đồng thời
chúng tôi cũng chỉ ra sự khác biệt về lối tư duy riêng, độc đáo mang tính thời đại
của các nhà thơ. Với phương pháp này, nét riêng trong cách ý niệm hóa tình yêu của
các nhà Thơ mới được thể hiện một cách đa chiều và bộc lộ rõ nét hơn.
- Thủ pháp thống kê, phân loại:Thủ pháp phân loại được dùng để phân loại
các ẩn dụ theo các tiêu chí cụ thể để quy chúng về các kiểu ẩn dụ ý niệm tiêu biểu.
Còn thủ pháp thống kê được sử dụng để chỉ ra mức độ phổ biến của từng loại ẩn dụ
ý niệm về tình yêu trong Thi nhân Việt Nam, trong thơ Xuân Diệu và thơ Nguyễn
Bính trước năm 1945.
- Thủ pháp phân tích định tính: Thủ pháp này dùng để phân tích các ẩn dụ ý

niệm, các quá trình chiếu xạ trong các lược đồ tri nhận, nhất là các thuộc tính khác
nhau trong lược đồ tri nhận. Phân tích định tính giúp người viết mô tả các ý niệm
kết hợp với số lượng các ẩn dụ nhằm minh họa cụ thể xu hướng, mô hình các ý
niệm ẩn dụ trong sáng tác của các nhà Thơ mới.
- Ngoài ra, một số thủ pháp sau đây của ngôn ngữ học tri nhận cũng được vận
dụng, đó là: thủ pháp nội quan (phán đoán, suy luận), thủ pháp phân tích ý niệm (dựa
9


10

vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa để thấy được những cách ý niệm hóa
riêng của các nhà Thơ mới trong việc biểu đạt tình yêu).
5. Phạm vi tư liệu khảo sát
Với đề tài này, chúng tôi chọn các tư liệu sau để khảo sát:
1/ Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh, Hoài Chân)
2/ Thơ Xuân Diệu (Trước năm 1945)
3/ Thơ Nguyễn Bính (Trước năm 1945)
4/ Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều)
5/ Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm)
6/ Truyện Kiều (Nguyễn Du)
6.Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Góp phần giới thiệu một hướng tiếp cận mới đối với sáng tác của các tác
giả trong phong trào Thơ mới.
- Góp phần củng cố lý thuyết về ngôn ngữ học tri nhận, làm rõ mối quan hệ
giữa lý thuyết và thực tiễn sử dụng ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống
về đề tài tình yêu của các nhà thơ trong thời kỳ Thơ mới 1932 - 1945 dưới ánh sáng

của ngôn ngữ học tri nhận. Qua đó, người viết chỉ ra nét mới mẻ, độc đáo cũng như
cá tính sáng tạo của các tác giả thời kỳ Thơ mới qua cách ý niệm hóa tình yêu.
- Luận án góp phần phục vụ công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy ngôn
ngữ học nói chung cũng như ngôn ngữ học tri nhận nói riêng trong nhà trường.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2: Hệ thống ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong Thơ mới
10


11

Chương 3: Nét riêng về cách ý niệm hóa tình yêu trong Thơ mới

11


12

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm trong thi ca
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Từ những năm 1980 của thế kỷ XX, công trình Metaphors We Live By
(Chúng ta sống bằng ẩn dụ) của Lakoff và Johnson trở thành kiệt tác trí tuệ của
nhân loại với lý thuyết về ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận). Đây là cuốn
sách đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển một xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ
trong mối liên hệ với các ngành khoa học khác. Cũng từ đây, một hướng nghiên cứu

mới của ngôn ngữ học được đặt ra đó là lấy con người làm trung tâm - " dĩ nhân vi
trung ", làm đối tượng để nghiên cứu. Có rất nhiều nhà khoa học cho rằng, ẩn dụ ý
niệm chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thân thể như Lakoff (1987), Kovecses (1986),
Srinivas (1997), Nrayanan (1997)... Tuy nhiên, mỗi một tác giả lại đi sâu nghiên
cứu một lĩnh vực cụ thể trong cấu trúc của ý niệm. Có thể tóm lược lịch sử nghiên
cứu và những cội nguồn lí thuyết về ẩn dụ ý niệm trên thế giới như sau:
- Ngữ nghĩa ‘Khung’ (Frame semantics) của Fillmore (1982), (1985);
Sweettser (1990).
- Lí thuyết về các ‘Miền’ (Domains) ý niệm của Langacker (1986), (1990),
(1991).
- Lí thuyết ‘điển dạng’ (prototype) của E.Rosch, (Rosch 1977)...
Đối với Lakoff, Johnson và M.Turner đồng quan điểm khi chỉ ra rằng ẩn dụ ý
niệm giúp chúng ta hiểu được các khái niệm trừu tượng qua những kinh nghiệm cá
nhân và đánh giá cao vai trò của các quá trình nghiệm thân trong cách chúng ta nhìn
về thế giới (Lakoff, Johnson 1980 ; Lakoff 1987 ; Turner 1996). Gerard Steen
(1999) [74] và Stockwell (2002) [86] đều khẳng định ẩn dụ ý niệm trong thơ là một
cách tiếp nhận mới về văn học. Cách tiếp nhận này có liên quan đến ứng dụng của
ngôn ngữ học tri nhận và tâm lý để lĩnh hội một văn bản văn học. Liza Freedman
Weisberg (2012) [83] cho rằng, ẩn dụ tồn tại đa dạng trong mọi loại hình ngôn ngữ,
trong thơ ca cũng như trong lời nói hằng ngày. Cùng quan điểm trên, Linda
12


13

L.Berger (2013) [82] đưa ra sự so sánh đầy hình tượng để minh chứng sự tồn tại đa
dạng của ẩn dụ đó là ẩn dụ trong pháp luật như trong thơ và mệnh đề ngôn ngữ.
Theo tác giả, ẩn dụ như là một phương tiện để giải thích các mối quan hệ giữa luật
và ngôn ngữ. Một số nhà ngôn ngữ học tri nhận quan niệm, ẩn dụ trong thơ ca có cơ
chế tư duy như trong lời nói thông thường. Vì vậy, khám phá văn bản thơ là một

hướng đi đúng đắn cho quan điểm khảo sát này. Như vậy có thể nói, ẩn dụ tràn lan
trong các lĩnh vực của cuộc sống con người. Và nghiên cứu ẩn dụ ý niệm trong thơ
ca là một con đường còn đang thiếu dấu chân của những người khai phá.
Kovecses (2002) [76, tr.49- 62] dành trọn vẹn chương 4 để nói về ẩn dụ ý
niệm trong văn chương (Metaphor in literature). Trong chương này, tác giả chỉ ra mối
quan hệ giữa ẩn dụ ý niệm thông thường với ẩn dụ ý niệm trong văn chương.
Kovecses khẳng định: ẩn dụ ý niệm trong văn chương bắt nguồn từ ẩn dụ ý niệm nói
chung và các nhà văn, nhà thơ không sáng tạo ra ẩn dụ ý niệm mới mà chỉ vận dụng
sáng tạo ẩn dụ ý niệm trong việc tạo ra các hình ảnh ẩn dụ mới. Ẩn dụ ý niệm trong
thi ca đa nghĩa hơn ẩn dụ ý niệm mà chúng ta sử dụng trong các lĩnh vực khác.
Bên cạnh các tác giả tiêu biểu trên còn một số tác giả khác cũng bàn về ẩn dụ
ý niệm trong thi ca như E.Semino, Gavins, G.Steen, J.Culpeper... Các nhà nghiên
cứu này cũng cho rằng nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm trong thi ca là một hướng
nghiên cứu mới, hấp dẫn và thú vị đối với thi ca.
1.1.1.2.Nghiên cứu ở trong nước
Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam vẫn là một ngành khoa học còn nhiều
miền đất để khai phá. Một số tác giả tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu này tiêu
biểu có Lý Toàn Thắng, Trần Văn Cơ, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Tồn ... Các tác giả này cùng với những thành tựu
nghiên cứu khoa học của mình đã giới thiệu và quảng bá lý thuyết của ngôn ngữ
học tri nhận vào Việt Nam và các lý thuyết ấy trở thành nền tảng cơ sở vững chắc
cho sự phát triển của ngành khoa học tri nhận còn non trẻ này.
Hiện tại, ẩn dụ ý niệm trong thi ca cũng là vấn đề thu hút được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Với Nguyễn Lai, ông gọi ẩn dụ ý niệm là ẩn dụ khái
niệm. Theo ông, ẩn dụ ý niệm trong thơ không chỉ có chức năng bắt các ý niệm trừu
13


14


tượng phải hiện hình mà còn phản ánh tư duy tộc người, phản ánh văn hóa của một
dân tộc, tạo ra sự liên kết các phạm trù bằng cảm xúc, trí tuệ của con người.
Một số tác giả khác đã khám phá sức mạnh của ngôn ngữ học tri nhận thông
qua các sản phẩm văn chương cụ thể tiêu biểu nhất là câu đố, thành ngữ, tục ngữ, ca
dao... Có thể kể đến các tác giả như: Lê Đình Tường (2008), Nguyễn Ngọc Vũ
(2009), Võ Xuân Hào (2009), Trần Bá Tiến (2012). Tác giả Lưu Trọng Tuấn (2009)
[55] có cái nhìn tình yêu trong thi ca qua sự so sánh đối chiếu khái niệm tình yêu
với đặc trưng hướng, chiều của không gian. Theo tác giả, tình yêu cũng giống như
thời gian, nó cũng thiếu vắng các chiều không gian và vì vậy ẩn dụ tình yêu cũng có
thể phân thành ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể. Với Nguyễn Thị Quyết (2012) [37],
trong công trình nghiên cứu của mình tác giả khẳng định ngôn ngữ và con người có
một mối quan hệ vô cùng mật thiết, thơ là công cụ đặc biệt để con người biểu đạt
suy nghĩ, những trải nghiệm trong cuộc sống, cảm giác của cá nhân người viết và
người khác thông qua lớp vỏ ngôn ngữ thâm nhập vào đó để hiểu biết những bình
diện tư duy của người viết. Tác giả Vũ Thị Sao Chi - Phạm Thị Thu Thùy (2013) [7;
8] đã phân tích hai ý niệm tương phản - nền tảng cho ẩn dụ ý niệm trong thơ Chế
Lan Viên (qua hai tập thơ: Điêu tàn và Ánh sáng và phù sa). Các tác giả đã đưa ra
hai luận điểm cơ bản nói đến cơ chế của ẩn dụ ý niệm trong mối quan hệ với tư duy
con người và cấu trúc của ẩn dụ ý niệm là cấu trúc hai không gian.
Ngoài ra, sự xuất hiện của một số luận án, luận văn thạc sĩ và khóa luận tốt
nghiệp nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm trong thơ ca. Nhìn chung, các tác giả đều tập
trung đi sâu nghiên cứu các ẩn dụ ý niệm của một tác giả cụ thể dựa trên lý thuyết
của ngôn ngữ học tri nhận. Ví dụ: Nguyễn Thị Thùy khai thác Ẩn dụ tri nhận trong
thơ Xuân Diệu, Phạm Thị Thuy Thùy khám pháẨn dụ tri nhận trong thơ Chế Lan
Viên, Phạm Minh Châu khám phá Ẩn dụ tri nhận trong thơ Tố Hữu, Phạm Thị
Hương Quỳnh với Ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Quỳnh, hay Nguyễn Thị Bích
Hạnh với Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn...
Như vậy, điểm qua các công trình nghiên cứu, có thể thấy, các nhà Việt ngữ
học đã và đang góp phần khẳng định vị thế của ngôn ngữ học tri nhận. Qua công
trình nghiên cứu của mình, các tác giả không chỉ góp phần làm sáng tỏ lý thuyết tri

nhận mà còn khẳng định ẩn dụ ý niệm tồn tại mọi nơi mọi lúc trong xã hội loài
14


15

người. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ tập trung nghiên cứu một tác giả. Chính vì
vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong Thơ mới 1932 1945 là một việc làm cần thiết khi tìm hiểu về sáng tác của một tập thể tác giả.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thi ca
Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thi ca cũng là một trong những
mảng tiêu biểu khi áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận. Tiêu biểu có thể kể đến
một số nhà nghiên cứu với các công trình tiêu biểu như: Phan Văn Hòa và Hồ Trịnh
Quỳnh Thư [18] đi sâu vào phân tích ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH;
Ngũ Thiện Hùng và Trần Thị Thanh Thảo [19] phân tích bảy ẩn dụ ý niệm về “tình
yêu”:TÌNH YÊU LÀ MỘT VẬT THỂ; TÌNH YÊU LÀ MỘT SINH VẬT; TÌNH
YÊU LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN; TÌNH YÊU LÀ MỘT CUỘC HÀNH
TRÌNH; TÌNH YÊU LÀ CHỐN THIÊN ĐƯỜNG; TÌNH YÊU LÀ MỘT TRÒ
CHƠI; TÌNH YÊU LÀ MỘT CUỘC CHIẾN). Nguyễn Thị Quyết [37] qua cứ liệu
thơ hiện đại của tiếng Anh và tiếng Việt, đã nêu ra sáu ẩn dụ ý niệm về tình yêu :
TÌNH YÊU LÀ VẬT QUÝ GIÁ; TÌNH YÊU LÀ CĂN BỆNH; TÌNH YÊU LÀ
CHỦ THỂ CÓ CẢM GIÁC; TÌNH YÊU LÀ MỘT CHUYẾN ĐI/HÀNH TRÌNH;
TÌNH YÊU LÀ HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN; TÌNH YÊU LÀ VẬT KẾT NỐI; Tác
giả Ly Lan [30, tr.129] đã tổng hợp được 20 ẩn dụ ý niệm phổ biến nhất về tình yêu
được sử dụng ở các nước bản ngữ sử dụng tiếng Anh: TÌNH YÊU LÀ CHẤT DINH
DƯỠNG; TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH; TÌNH YÊU LÀ NHIỆT; TÌNH
YÊU LÀ SỰ HÒA HỢP CỦA HAI NỬA; TÌNH YÊU LÀ CHẤT LỎNG TRONG
BẦU CHỨA; TÌNH YÊU LÀ BẦU CHỨA; TÌNH YÊU LÀ SỰ GẦN GŨI; TÌNH
YÊU LÀ SỰ GẮN KẾT, RÀNG BUỘC; TÌNH YÊU LÀ SỰ TRAO ĐỔI KINH
TẾ; TÌNH YÊU LÀ SỨC MẠNH TỰ NHIÊN; TÌNH YÊU LÀ LỰC VẬT LÝ;
TÌNH YÊU LÀ ĐỐI THỦ; TÌNH YÊU LÀ CON VẬT BỊ NHỐT; TÌNH YÊU LÀ

CUỘC CHINH CHIẾN; TÌNH YÊU LÀ TRÒ CHƠI; TÌNH YÊU LÀ MA LỰC;
TÌNH YÊU LÀ BỆNH TẬT; TÌNH YÊU LÀ SỰ MẤT TRÍ; TÌNH YÊU LÀ CAO
HỨNG; TÌNH YÊU LÀ ĐẤNG BỀ TRÊN. Trong quá thực hiện đề tài Ẩn dụ ý
niệm về tình yêu trong Thơ mới 1932 - 1945, chúng tôi dựa vào kết quả thống kê
15


16

của tác giả Ly Lan làm cơ sở để phân loại các kiểu ẩn dụ ý niệm trong Thi nhân Việt
Nam. Đồng thời, cũng dựa trên cơ sở phân loại ấy, chúng tôi đối chiếu các kiểu ẩn
dụ ý niệm trong sáng tác của các nhà Thơ mới với sáng tác của các nhà thơ trung
đại cũng như đối chiếu trong nội bộ các nhà Thơ mới (Nguyễn Bính và Xuân Diệu)
để thấy được sự mới mẻ, phá cách trong nhận thức mang tính thời đại cũng như sự
độc đáo trong cá tính sáng tác của các nhà Thơ mới.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái quát về ẩn dụ
1.2.1.1. Ẩn dụ theo quan điểm truyền thống
Ẩn dụ được nghiên cứu từ thời cổ đại với nhiều đường hướng khác nhau như
dựa theo thuyết nghĩa đen, theo quan điểm dụng học, quan điểm thay thế... Nhưng
tựu chung lại, ngôn ngữ học truyền thống nghiên cứu ẩn dụ trên hai phương diện đó
là: một phương thức chuyển nghĩa và một biện pháp tu từ. Cách hiểu truyền thống
cho rằng, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi của hai sự vật, hiện tượng dựa vào sự tương
đồng về một đặc điểm nào đó như hình thức, trạng thái, tính chất ...
Aristotle, một trong những người đi đầu nghiên cứu về ẩn dụ cho rằng ẩn dụ
là một phương thức chuyển nghĩa dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có điểm
tương đồng nào đó. Với định nghĩa “Ẩn dụ là phương thức chuyển đổi tên gọi” [11,
tr. 58], Aristotle đã trở thành người khởi nguồn cho một xu hướng nghiên cứu mới
về ẩn dụ.
Cuốn từ điển American Heritage (mục Description of metaphor) định nghĩa

về ẩn dụ như sau :
- Là một biện pháp tu từ mà trong đó một từ hay một ngữ thông thường định
rõ một sự vật thì được dùng để chỉ ra một sự vật khác, nhờ vậy tạo ra được sự so
sánh ngầm.
- Là việc một sự vật diễn đạt như sự tương ứng với một sự vật khác để làm
một biểu tượng [16, tr.10].
Với Y.Xtepanop, ông cho rằng: “Khi một từ tuy vẫn còn liên hệ với biểu vật
cũ nhưng lại có thêm một sự liên hệ mới với cái biểu vật mới, thì hiện tượng ngôn
ngữ đó gọi là ẩn dụ” [dẫn theo 15, tr.32].
16


17

Theo Đại Từ điển Bách khoa Toàn thư Wikipedia: ẩn dụ là ngôn ngữ mà trực
tiếp so sánh các chủ thể dường như chẳng liên quan gì nhau. Trong trường hợp đơn
giản nhất nó có dạng thức: “[Chủ thể thứ nhất] là [Chủ thể thứ hai]” ([The first
subject] is a [second subject]).
Ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học cũng có quan điểm tương tự. Ví dụ như:
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật này bằng tên của
một sự vật khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng” [1, tr.54].
Nguyễn Thiện Giáp trong Từ vựng học tiếng Việt (1985) có quan điểm: Ẩn
dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng
được so sánh với nhau.
Với Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa trong Phong cách học tiếng Việt
các tác giả cho rằng: Ẩn dụ thực chất là sự so sánh ngầm, trong đó vế so sánh giảm
lược đi chỉ còn lại vế được so sánh. Và còn một số nhà nghiên cứu khác tiêu biểu
như Cù Đình Tú, Hữu Đạt, Đào Thản... cũng có cùng quan điểm với các nhà nghiên
cứu trên, có thể cách diễn đạt khác nhau nhưng về bản chất của ẩn dụ theo quan
điểm truyền thống là giống nhau.

Với tác giả Nguyễn Đức Tồn, ông đã nêu lên bản chất của ẩn dụ theo quan
niệm vừa truyền thống vừa tri nhận. Ông gọi câu so sánh hai sự vật làm cơ sở cho
ẩn dụ là câu đẳng nhất hay câu đẳng thức với định nghĩa như sau: “Ẩn dụ là phép
thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này sang
sự vật, hiện tượng thuộc loại khác theo lối loại suy dựa trên cơ sở sự liên tưởng
đồng nhất hóa hóa chúng theo đặc điểm thuộc tính nào đó cùng có ở chúng.
Có thể công thức hoá hiện tượng ẩn dụ thay thế tên gọi này bằng biểu
thức sau:
A
B
––– = –––––
x
y
(A là tên gọi của biểu vật x, còn B là tên gọi của biểu vật y, dấu = là kí hiệu
“sự đồng nhất”)” [ 52, tr.2].
Có thể thấy, các nhà nghiên cứu về ẩn dụ truyền thống trong và ngoài nước
đều có cùng quan điểm: ẩn dụ là phương thức so sánh ngầm giữa hai sự vật, hiện
17


18

tượng có điểm tương đồng. Dù theo quan điểm nào hay theo lập trường nào đi
chăng nữa, tất cả các nhà ngôn ngữ học không thể phủ nhận sức mạnh của ẩn dụ
trong các tác phẩm nghệ thuật, nhất là trong lĩnh vực văn chương. Các nhà ngôn
ngữ học truyền thống mới chỉ thấy sức mạnh của ẩn dụ ở phương thức diễn đạt,
chưa thấy được sức mạnh của ẩn dụ thuộc phạm trù tư duy.
Tóm lại, các nhà ngôn ngữ học truyền thống đều nhận thấy bản chất ẩn dụ
qua cấu trúc tạo nên nó gồm có hai phần: cái được so sánh (the tenor) và cái so
sánh (phương tiện so sánh - vehicle). Cái được so sánh là chủ thể được gán vào nó

những thuộc tính, tính chất của cái so sánh. Còn cái so sánh là chủ thể mà những
thuộc tính, tính chất của nó bị vay mượn. Cũng có nhà nghiên cứu như Austin,
Feare lại sử dụng thuật ngữ khái quát là phần nền (ground) và phần hình (figure)
để minh họa lại cho định nghĩa của Richard về cái được so sánh (tenor) và cái so
sánh (phương tiện so sánh - vehicle). Ví dụ:
All the world’s a stage,
And all the men and women merely players;
They have their exits and their entrances;
(William Shakespeare, As You Like It)
Đoạn trích dẫn nổi tiếng này là một ví dụ điển hình về ẩn dụ. Trong đó, thế
giới (the world) được so sánh với sân khấu (a stage), mục đích là nhằm miêu tả thế
giới qua việc hiểu những thuộc tính của sân khấu mà chúng ta đều biết. Trong
trường hợp này, thế giới chính là cái được so sánh (the tenor) và sân khấu là cái so
sánh (phần phương tiện so sánh - the vehicle).
Đàn ông và phụ nữ (The men and women) là phần đối tượng so sánh thứ hai
(a secondary tenor) và các diễn viên (players) là phương tiện so sánh cho đối tượng
so sánh thứ hai này.
Có thể nói, ẩn dụ được sử dụng giống như một trong những công cụ làm đẹp
bậc nhất trong văn chương.Thông qua ẩn dụ người đọc có thể cảm nhận được cái
hay, cái đẹp của văn chương. Tuy nhiên, người đọc còn thấy được sự mở rộng các
nét nghĩa, sự mở rộng về mặt tư duy, sự giao thoa văn hóa ... khi ẩn dụ được soi
sáng bởi lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận.
18


19

1.2.1.2. Ẩn dụ theo quan điểm tri nhận
Ẩn du tri nhận - Ẩn dụ ý niệm (cognitive metaphor - conceptual metaphor)
được nghiên cứu cách đây một thời gian dài bởi một số học giả như Kant,

Blumenberg và Weinrich. Đến những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với sự kế thừa
và phát triển thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, công trình “Metaphors We
Live By” của Lakoff và Johnson xuất hiện trở thành xương sống cho các nhà ngôn
ngữ học tri nhận, tạo nên một trào lưu tri nhận phát triển rộng khắp trên thế giới. Ẩn
dụ đã được công nhận thuộc phạm trù tư duy, là một thao tác tinh thần giúp con
người nhận thức và hiểu biết về hiện thực khách quan sinh động. Theo Lakoff và
Johnson, bản chất cốt lõi của ẩn dụ chính là hiểu vấn đề này thông qua thuật ngữ
của một loại vấn đề khác bởi các ánh xạ được hình thành kết nối giữa hai vấn đề đó.
Hai tác giả đưa ra một số luận điểm nói về đặc trưng của ẩn dụ ý niệm như sau:
- Ẩn dụ là cơ chế chính mà thông qua đó chúng ta hiểu được những khái
niệm trừu tượng và hiện thực tư duy trừu tượng, nền tảng của ẩn dụ ý niệm là các
ý niệm.
- Nhiều đối tượng kể từ những điều đơn giản nhất, đời thường nhất đến
những lý thuyết khoa học thâm sâu nhất chỉ có thể hiểu được thông qua ẩn dụ.
- Ẩn dụ về bản chất là mang tính ý niệm chứ không mang tính ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ ẩn dụ là sự thể hiện bề mặt của ẩn dụ.
- Phần lớn hệ thống ý niệm của chúng ta mang tính ẩn dụ song cách hiểu ẩn
dụ lại dựa trên cơ sở cách hiểu phi ẩn dụ.
- Ẩn dụ cho phép chúng ta hiểu đối tượng tương đối trừu tượng hoặc đối
tượng phi cấu trúc hóa thông qua đối tượng cụ thể hơn hoặc ít ra thông qua đối
tượng đã được cấu trúc hóa cao hơn.
- Ẩn dụ chiếu xạ qua các miền ý niệm: miền nguồn và miền đích.
- Hệ thống ý niệm chứa hàng nghìn lần chiếu xạ ẩn dụ quy ước làm hình
thành tiểu hệ thống cấu trúc hóa cao của hệ thống ý niệm.
- Hệ thống ẩn dụ ý niệm quy ước chủ yếu là vô thức, tự động và được sử
dụng thoải mái.
- Ẩn dụ ý niệm không dựa trên cơ sở so sánh tương đồng.
19



20

- Ẩn dụ thi ca phần lớn là sự mở rộng hệ thống quy ước thông thường của tư
duy ẩn dụ chúng ta. Các ý niệm có thể vượt qua khỏi phạm vi của các phương thức
tư duy thông thường để bước vào lĩnh vực tư duy và ngôn ngữ tu từ, thơ ca [79].
Với các luận điểm như trên, bản chất của ẩn dụ được nhận thức theo quan
điểm tri nhận có bản chất hoàn toàn khác so với cách thức nhận thức ẩn du theo
quan điểm truyền thống. Và ẩn dụ thường gặp không những trong các tác phẩm văn
học, mà còn trong các ngành khoa học khác như triết học, luật pháp, tâm lý học,
nhân học ... nó rất hiệu quả đối với việc thể hiện tình cảm của con người trong giao
tiếp hằng ngày.
1.2.1.3. Ý niệm và cấu trúc ý niệm
Từ “concept” của tiếng Anh được dịch thông thường ra tiếng Việt là “khái
niệm”. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học tri nhận lại sử dụng từ “concept” với
nghĩa khác rộng hơn từ “khái niệm”, thậm chí còn bao hàm cả khái niệm, đó là “ý
niệm”.“Khái niệm” theo truyền thống được định nghĩa như là một tư tưởng phản
ánh khái quát sự vật và hiện tượng của hiện thực bằng cách cố định những thuộc
tính và quan hệ của chúng. Y.Xtepanov cho rằng “khái niệm” là thuật ngữ của logic
học và triết học, còn “ý niệm” là thuộc về logic toán học và văn hóa học. Ông giải
thích ý niệm như sau: “Ý niệm tựa như một khối kết đông của nền văn hóa trong ý
thức con người; dưới dạng của nó nền văn hóa đi vào thế giới ý thức (tư duy) của
con người, và, mặt khác, ý niệm là cái mà nhờ đó con người- người bình thường,
không phải là “người sáng tạo ra những giá trị văn hóa”- chính con người đó đi
vào văn hóa, và trong một số trường hợp nhất định có tác độngđến văn hóa” [dẫn
theo 15, tr. 33]. Nói như vậy, ý niệm là nơi hội tụ của mọi nền văn hóa, nó được
sinh ra trong ý thức con người căn cứ vào sự tích lũy trong tri thức nền của mỗi cá
nhân. Và cũng từ đó, người tiếp xúc với ý niệm sẽ hiểu được văn hóa trong các mô
hình ý niệm cụ thể. Đó chính là quá trình con người đi vào văn hóa, và trong một số
trường hợp nhất định có tác độngđến văn hóa.
Cũng cùng một quan điểm đó, tác giả Trần Văn Cơ nói rộng ra, ý niệm là

đơn vị tinh thần hoặc tâm lý của ý thức chúng ta, là đơn vị nội dung của bộ nhớ
động, của từ vựng tinh thần và của bộ não, của toàn bộ bức tranh thế giới được phản
20


21

ánh trong tâm lý con người. Trong các quá trình tư duy, con người dựa vào các ý
niệm phản ánh nội dung các kết quả của hoạt động nhận thức thế giới của con người
dưới dạng “những lượng tử” của tri thức. Các ý niệm nảy sinh trong quá trình cấu
trúc hóa thông tin về một sự tình khách quan trong thế giới đó. Các ý niệm quy các
đa dạng của những hiện tượng quan sát được và tưởng tượng về một cái gì đó thống
nhất, đưa chúng vào một hệ thống và cho phép lưu giữ những kiến thức về thế giới.
Người ta cho rằng chính ngôn ngữ bảo đảm cách tiếp cận với sự miêu tả và
xác định bản chất của ý niệm. Giữa ý niệm và các đơn vị ngôn ngữ có mối quan hệ
đặc biệt. Theo một số học giả, những ý niệm đơn giản nhất được biểu hiện bằng một
từ, những ý niệm phức tạp hơn được biểu hiện trong các cụm từ và câu.
Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Cơ, ý niệm có cấu trúc trường - chức năng
được tổ chức theo mô hình trung tâm và ngoại vi. Có thể hình dung trường - chức
năng của ý niệm như một vòng tròn to có chứa vòng tròn nhỏ tại tâm và những vòng
tròn nhỏ khác giao nhau.
Hạt nhân là khái niệm, nằm ở trung tâm của trường - chức năng. Nó mang
tính phổ quát, toàn nhân loại. Nằm ở ngoại vi (trong những vòng tròn nhỏ giao
nhau) là những nét đặc thhù văn hóa - dân tộc, trong đó yếu tố hàng đầu là giá trị,
bởi lẽ nói đến văn hóa là nói đến những giá trị văn hóa (tinh thần và vật chất). Nét
đặc thù văn hóa bao gồm: a) văn hóa toàn dân tộc, b) văn hóa các tộc người, c) văn
hóa vùng, miền, địa phương d) văn hóa riêng của các nhóm xã hội mà con người
tham gia và chịu tác động về nhiều mặt, và cuối cùng đ) là văn hóa cá thể với những
đặc điểm tạo thành nhân cách cá nhân như tình cảm, đạo đức, học vấn, kinh nghiệm
sống và những đặc điểm tâm -sinh lý cá nhân...

Vậy ý niệm là “cái chứa đựng” sự hiểu biết của con người về thế giới được
hình thành trong ý thức của quá trình tri nhận và hiện thân trong ngôn ngữ. Trong ý
niệm có cái phổ quát (khái niệm) và cái đặc thù (văn hóa được thể hiện dưới nhiều
dạng khác nhau). Hay nói cách khác, ý niệm = khái niệm + các đặc thù văn hóa.
1.2.1.4. Cấu trúc của ẩn dụ ý niệm
Theo các nhà ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ là một cơ chế tri nhận nhờ đó
những tri giác liên tục, tương tự đã trải qua quá trình phạm trù hóa được đánh giá lại
21


22

trong những bối cảnh ý niệm mới. Cơ chế tri nhận của ẩn dụ bao gồm hai miền
NGUỒN và ĐÍCH tồn tại tiền giả định trong ý thức của con người, trong đó những
thuộc tính của miền NGUỒN được ánh xạ, phóng chiếu lên miền ĐÍCH, cả hai
miền NGUỒN và ĐÍCH đều là những ý niệm, được cấu trúc hoá theo mô hình
trường – chức năng: trung tâm – ngoại vi, trong đó hạt nhân là khái niệm nằm ở
trung tâm, mang tính phổ quát toàn nhân loại, và ngoại vi là những yếu tố ngôn ngữ,
văn hoá dân tộc, nằm trong một “khung” hay “nền” văn hoá nhất định mang tính
đặc thù.Ví dụ:
Với ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH, miền Nguồn là
CUỘC HÀNH TRÌNH và miền Đích là TÌNH YÊU. Một số thuộc tính được chiếu
xạ từ miền Nguồn đến miền Đích như sau:
Lược đồ chiếu xạ của ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH
Miền nguồn: CUỘC HÀNH
TRÌNH
Du khách
Phương tiện
Cuộc hành trình
Độ dài của cuộc hành trình

Những trở ngại trên hành trình
Lựa chọn hướng đi
Điểm kết thúc cuộc hành trình

Miền đích: TÌNH YÊU
⇒ Những người yêu nhau
⇒ Tình yêu của những người yêu nhau
⇒ Sự kiện trong quan hệ yêu đương
⇒ Thời gian duy trì quan hệ yêu đương
⇒ Những khó khăn, trắc trở trong tình yêu
⇒ Những lựa chọn trong tình yêu
⇒ Đích đến của tình yêu

Như vậy, người đọc có thể hiểu những đặc điểm của miền đích TÌNH YÊU
thông qua miền nguồn là CUỘC HÀNH TRÌNH thông qua các ánh xạ được chiếu
từ miền Nguồn CUỘC HÀNH TRÌNH đến miền Đích TÌNH YÊU.
1.2.1.5. Các loại ẩn dụ ý niệm
Các nhà ngôn ngữ học tri nhận có nhiều cách phân loại ẩn dụ ý niệm theo các
tiêu chí khác nhau. Cho đến nay, ẩn dụ ý niệm có tất cả năm cách phân loại. Theo
Kovecses (2002), có các cách phân loại ẩn dụ ý niệm như sau [76, tr. 29 - 39]:
- Thứ nhất: Ẩn dụ ý niệm có thể được phân loại theo tính quy ước, gồm có
hai loại: ẩn dụ có tính quy ước và ẩn dụ phi quy ước. Tuy vậy, tác giả lại không đưa
ra tiêu chí cụ thể để phân loại mức độ cao thấp cho ẩn dụ quy ước.
- Thứ hai: Phân loại dựa vào cấu trúc kiến thức hay các yếu tố ý niệm của sơ
đồ hình ảnh. Tuy nhiên, một hình ảnh lại có thể trở thành miền nguồn cho rất nhiều
22


23


ẩn dụ khác nhau.
- Thứ ba: Phân loại dựa vào mức độ khái quát, ẩn dụ ý niệm được phân ra
thành ẩn dụ khái quát và ẩn dụ cụ thể. Ẩn dụ khái quát được cho là có cấu trúc
khung đơn giản và dễ dàng để hệ thống hóa cấu trúc ẩn dụ. Trong khi đó, ẩn dụ cụ
thể lại là cấu trúc lược đồ tri nhận được chi tiết hóa trong sự chiếu xạ từ miền
Nguồn đến miền Đích.
- Thứ tư: Phân loại theo chức năng tri nhận có ba loại: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ
bản thể, ẩn dụ định hướng.
- Thứ năm: Grady (1999) phân loại ẩn dụ ý niệm dựa vào tương quan kinh
nghiệm có hai loại: ẩn dụ cơ sở và ẩn dụ ghép. Ẩn dụ cơ sở liên quan đến trải
nghiệm chủ quan cá nhân của con người còn ẩn dụ ghép là ẩn dụ do các ẩn dụ cơ sở
kết hợp.
Căn cứ vào chức năng tri nhận và cơ sở hình thành của ẩn dụ, khi thực hiện
luận án này, chúng tôi lựa chọn quan điểm thứ tư: ẩn dụ ý niệm có thể chia thành ba
loại là ẩn dụ cấu trúc, cấu trúc bản thể và ẩn dụ định hướng. Cách phân loại này
nhấn mạnh vào chức năng tri nhận của con người trong mối quan hệ song hành giữa
con người và thế giới xung quanh trong sự tương quan giữa chủ thể - ngôn ngữ văn hóa - tư duy.
1) Ẩn dụ cấu trúc
Ẩn dụ cấu trúc (structural metaphor) là loại ẩn dụ khi nghĩa (hoặc giá trị)
của một từ (hoặc một biểu thức) này được hiểu (được đánh giá) thông qua cấu trúc
của một từ (hoặc một biểu thức) khác. Ẩn dụ cấu trúc là giúp chúng ta hiểu ý niệm
đích A (thường trừu tượng) qua ý niệm nguồn B (cụ thể hơn) thông qua lược đồ
chiếu xạ các thuộc tính giữa hai miền ý niệm A và B. Ý niệm nguồn và ý niệm đích
tuy thuộc về hai miền tri nhận khác nhau, nhưng về mặt cấu trúc là tương tự hay
tương đồng. Giữa các thành phần cấu thành của hai ý niệm có mối quan hệ đối ứng
mang tính quy luật. Loại ẩn dụ này thường sử dụng kết quả của quá trình biểu trưng
hóa và của sự liên tưởng. Ví dụ : Ở biểu thức ẩn dụ “Tình yêu là cây cỏ” chúng ta
đã coi tình yêu như là một loại cây có mầm, rễ, cành, hoa, lá... cho nên chúng ta nói
mầm tình yêu, tình yêu ra hoa, tình yêu kết trái, tình yêu chín muồi…Trong biểu
23



24

thức này, những thuộc tính điển hình của cây cỏ đã di chuyển sang cho tình yêu.
2) Ẩn dụ bản thể
Ẩn dụ bản thể (ontological) là ẩn dụ trong đó một phạm trù (như hoạt động,
tình cảm, hoặc ý tưởng) được thể hiện như một thực thể cụ thể (một vật thể, vật
chứa, hoặc là con người), thực chất là phạm trù hóa những bản thể trừu tượng bằng
cách vạch ranh giới của chúng trong không gian. Con người thường vay mượn
những sự vật cụ thể, hữu hình hoặc các vật chứa quen thuộc trong cuộc sống hằng
ngày để tri nhận những khái niệm hoặc sự vật trừu tượng.
Lakoff và Johnson (1980) cho rằng, việc hiểu kinh nghiệm của con người
dưới dạng vật thể và chất liệu cho phép chúng ta tách các bộ phận của kinh nghiệm
và xử lý chúng như là các thực thể và chất liệu phân lập của một loại thống nhất.
Khi sự vật không có hình thù và ranh giới rõ ràng, chúng ta cũng có thể dễ dàng
phân loại chúng nhờ ẩn dụ bản thể. Kinh nghiệm của con người về thế giới hiện
thực xung quanh, đặc biệt là cơ thể con người, tạo cơ sở cho rất nhiều ẩn dụ bản thể,
nghĩa là cách nhìn nhận của con người đối với sự kiện, hoạt động, tình cảm giống
như là các thực thể hoặc chất liệu cụ thể. Chẳng hạn như ẩn dụ “Đầu óc con người
là một cỗ máy” với các biểu thức ngôn ngữ như He broke down (anh ấy bị - hỏng
hóc/ suy sụp tinh thần), hoặc trong tiếng Việt như Nát tan cõi lòng (tình cảm được
xem như một vật thể dễ vỡ), nêu ra vấn đề, tình duyên trục trặc...
3) Ẩn dụ định hướng
Ẩn dụ định hướng (Orientational) là loại ẩn dụ không cấu trúc ý niệm này
thông qua một ý niệm khác mà tổ chức cả một hệ thống ý niệm trong mối tương
quan với nhau. Các ẩn dụ định hướng luôn có sự xuất hiện của không gian như lên
-xuống, trong-ngoài, trước-sau, sâu-nông, trung tâm-ngoại vi. Sự tri nhận về
phương vị không gian chính là khả năng tri nhận cơ bản nhất của con người dựa vào
kinh nghiệm thực tế. Chúng ta thường sử dụng những kinh nghiệm quen thuộc này

để lý giải và diễn đạt các khái niệm trừu tượng cũng như mô tả các miền tâm lý tình
cảm của chính chúng ta. Ví dụ như:
Hạnh phúc định hướng lên trên; nỗi buồn định hướng xuống dưới.
(1)

Tôi cảm thấy tinh thần đang lên cao.
24


25

(2)

Bài viết ấy đã nâng tầm suy nghĩ của tôi lên.

(3)

Những ý nghĩ về viễn cảnh tương lai làm tôi phấn khởi lên.

(4)

Tinh thần bị suy sụp.

(5)

Tôi bị xuống tinh thần đi.

(6)

Tôi như đang ở vực sâu của thất vọng.

Cơ sở vật lý: Nỗi buồn chán đè nặng con người và anh ta cúi đầu xuống, còn
những cảm xúc tích cực (dương tính) thì làm cho anh ta thoải mái và ngẩng đầu lên.
Trong tiếng Việt, còn có hai từ ra, đi dùng cho những ẩn dụ định hướng. Ví dụ:
(7) Tinh thần/sức khỏe/trí óc/vóc dáng… suy sụp đi.
(8) Nó khỏe/trẻ/béo/tươi/đẹp… ra [15,tr.47].
1.2.2. Một số nội dung khác của ngôn ngữ học tri nhận
1.2.2.1. Cách thức tạo lập ẩn dụ ý niệm
Văn học chính là tấm gương phản ánh trung thực cuộc sống hằng ngày của
con người. Vì vậy, các nhà ngôn ngữ học tri nhận cũng một lần nữa khẳng định
chính hệ thống ý niệm trong cuộc sống hằng ngày có đóng góp rất lớn trong các
hoạt động sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ và kể cả các nghệ sĩ. Điều này có nghĩa
các tác giả là người sáng tạo nên những ẩn dụ ý niệm điển hình có xuất phát nền từ
cuộc sống và cũng có nghĩa ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận không phải được cấu
tạo độc lập, tách rời và khác biệt với cuộc sống hằng ngày mà chỉ đặc biệt hơn, hay
hơn ở chỗ: sự sáng tạo ẩn dụ trong văn chương, trong thi ca thường đa nghĩa, đưa
đẩy và giàu hình ảnh hơn nên hay hơn chứ không đơn nghĩa như ẩn dụ ý niệm trong
đời sống hay trong các ngành khoa học khác. Cụ thể, trong ví dụ dưới đây:
Miệng nó cười tươi như hoa nở.
Dễ dàng nhận thấy ngay ẩn dụ ý niệm: CON NGƯỜI LÀ THỰC VẬT.
Người nói đã lấy trạng thái nở của hoa (miền nguồn) để nói đến nụ cười của con
người (miền đích). Đây cũng là một cách nói hình ảnh tuy nhiên câu nói này chỉ
mang nét nghĩa có tính chất so sánh như vậy. Nhưng ở trong hai câu thơ của
Nguyễn Bính:
Tình tôi nở giữa mùa thu
25


×