Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đánh giá thực trạng hoạt động quản trị dự trữ hàng hóa tiêu dùng DNTM Việt Nam hiện nay. Liên hệ thực tiễn thực trạng hoạt động dự trữ hàng hóa tại một DN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.33 KB, 17 trang )

Bài thảo luận nhóm 8
Đề tài: Đánh giá thực trạng hoạt động quản trị dự trữ hàng hóa tiêu dùng DNTM Việt
Nam hiện nay? Liên hệ thực tiễn thực trạng hoạt động dữ trữ hàng hóa tại một DN

Lời mở đầu
Dự trữ hàng hóa là một trong những hoạt động logistics then chốt. Nhiều khi có thể
nói quản trị Logistics là quản trị dòng dự trữ, bởi một lẽ, các trạng thái của hàng hóa
trong kênh Logistics đều là dự trữ. Trong kinh doanh thương mại, dự trữ cần thiết để đảm
bảo quá trình bán hàng diễn ra liên tục, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng với chi phí
thấp. Đáp ứng những quyết định của dự trữ là hoạt động mua hàng.Vì vậy hôm nay nhóm
8 quyết định lựa chọn đề tài thảo luận:” Đề tài: Đánh giá thực trạng hoạt động quản trị
dự trữ hàng hóa tiêu dùng DNTM Việt Nam hiện nay?”.
A.Cơ sở Lý Luận
I. Khái niệm dự trữ và dự trữ hàng hóa
1. Khái niệm dự trữ
Bản chất và sự hình thành các dự trữ trong nền kinh tế quốc dân cho đến nay vẫn chưa
được thống nhất. Các Mác đã phê phán quan điểm sai lầm của Adam Smith về bản chất
hình thành dự trữ. Adam Smith đã nhầm lẫn giữa bản chất, tính tất yếu của dự trữ với
hình thức dự trữ.Trái với quan điểm của Adam Smith, C.Mác cho rằng dự trữ là tất yếu
trong mọi phương thức sản xuất xã hội.
Tính tất yếu hình thành dự trữ bắt nguồn từ những cơ sở sau đây:
-

-

-

Thứ nhất, phân công lao động xã hội dẫn tới chuyên môn hóa sản xuất. Kết quả
của chuyên môn hóa sản xuất là hình thành các ngành, các doanh nghiệp, các đơn
vị kinh tế tương đối tách biệt nhau. Các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế đóng trên
các vùng lãnh thổ khác nhau, tách biệt về không gian và thời gian. Do đó, từ sản


xuất đến tiêu dùng, sản phẩm phải có quá trình vận động bằng các phương tiện vận
tải. Nó tạo ra sự ngưng đọng tạm thời của sản phẩm xã hội.
Thứ hai, do đặc điểm của sản xuất nên tiến độ và thời gian sản xuất sản phẩm
không ăn khớp và đồng nhất với tiến độ và thời gian tiêu dùng sản phẩm cũng tạo
ra sự ngưng đọng của sản phẩm. Sự không ăn khớp này ngày càng lớn hơn nếu có
tính thời vụ.
Thứ ba, do sự vận động khách quan của tự nhiên và của sản xuất mà nhiều vấn đề
ta không dự báo đượctừ trước như thiên tai, địch họa rủi ro… Để đảm bảo sản xuất


-

trong kinh doanh, trong mọi trường hợp phải có dự trữ cho an toàn , hạn chế rối
loạn cho sản phẩm, đời sống dân cư và an ninh quốc phòng.
Thứ tư, sản phẩm trước khi đi vào lưu thông phải có sự chuẩn bị và hoàn thiện.
Thời gian ngưng đọng này dài ngắn tùy thuộc vào quy trình công nghệ, đặc điểm
sản phẩm và yêu cầu công tác chuẩn bị.

Dự trữ là sự ngưng đọng tạm thời của sản phẩm hàng hóa trong quá trình vận động tư
sản xuất đến tiêu dùng, đượcgiữ lại để bán và tiêu dùng sau này.
Bản chất của dự trữ là sự ngưng đọng tạm thời được nhận thức và nhận biết trước của sản
phẩm xã hội. Do vậy, không phải mọi sự ngưng đọng sản phẩm đều là dự trữ. Chỉ những
sản phẩm ngưng đọng được nhận thức và nhận biết mà sau đó được đưa vào lưu thông và
tiêu dùng (cho sản xuất hoặc tiêu dùng cá nhân ) mới là dự trữ. Dự trữ hình thành là tất
yếu do tác động của các nguyên nhân khách quan song con người hoàn toàn có thể nhận
thức( thông qua công tác định mức ) để điều chỉnh và tối ưu hóa đại lượng dự trữ trong
nền kinh tế quốc dân.
2. Khái niệm dự trữ hàng hóa
Dự trữ hàng hóa là khối lượng hàng hóa đã rời khỏi lĩnh vực sản xuất nhưng chưa đi vào
lĩnh vực tiêu dùng. Nói cách khác, dự trữ hàng hóa là khối lượng hàng hóa đang nằm

trong khâu lưu thông.
+ Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân:
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng mức dự trữ hànghóa là một bộ phận
của sản phẩm vật chất được sản xuất và được nhập khẩu nhưng chưa đi vào tiêu dùng.
Tổng mức dự trữ gồm 3 bộ phận:
- Dự trữ trong các đơn vị sản xuất (dự trữ vật tư)
- Dự trữ trong các đơn vị kinh doanh thương mại (dự trữ hàng hóa)
- Dự trữ trong các kho dự trữ của Nhà nước (dự trữ quốc gia)
+ Xét trong phạm vi ngành thương nghiệp:
Trong phạm vi ngành thương nghiệp, tổng mức dự trữ là bộ phận hàng hóa đã rời khỏi
lĩnh vực sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng, nói cách khác đây là khối lượng
hàng hóa đang nằm trong khâu lưu thông trong một thời gian nhất định để đảm bảo cho
quá trình lưu chuyển hàng hóa được liên tục.
+ Xét trong phạm vi 1 tổng thể thương nghiệp (Tổng công ty, công ty, cửa hàng...):


Trong phạm vi 1 tổng thể thương nghiệp, tổng mức dự trữ là bộ phận hàng hóa thuộc
quyền sở hữu của các đơn vị thương mại.
Tổng mức dự trữ gồm 3 bộ phận:
-

Hàng hóa đang ở trong kho của tổng thể thương nghiệp.
Hàng mua đang đi trên đường.
Hàng hóa đang gửi ở các đơn vị khác

II. Phân loại dự trữ hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại.
Khi nghiên cứu dự trữ các tư liệu vật chất dưới chủ nghĩa tư bản, Các Mác đã chia thành
ba loại: Dự trữ dưới hình thái tư bản sản xuất, dự trữ dưới hình thái tư bản hàng hóa (hay
dự trữ hàng hóa) và dự trữ dưới hinh thái quỹ tiêu dùng cá nhân.
Dự trữ dưới hình thái tư bản sản xuất là dự trữ những tư liệu sản xuất đang nằm trong

quá trình sản xuất hay ít nhất đã ở trong tay người sản xuất nhưng chưa bước vào tiêu
dùng sản xuất trực tiếp. Dự trữ hàng hóa là dự trữ trong lĩnh vực lưu thông. Còn dự trữ
dưới hinh thái quỹ tiêu dùng cá nhân là dự trữ những vật phẩm tiêu dùng cá nhân của
người tiêu dùng
Trong quá trình vận động của mình, vật tư hàng hóa chuyển từ lĩnh vực sản xuất sang
lĩnh vực lưu thông và từ lưu thông lại quay về sản xuất, tạo nên sự tuần hoàn của sản
phẩm hàng hóa. Do vậy, các loại dự trữ có nhiều cách phân loại khác nhau tùy theo góc
độ nghiên cứu và quản lý dự trữ.
1.Xét theo công dụng của các tư liệu vật chất:
 Dự trữ các tư liệu sản xuất: là những vật tư kỹ thuật phục vụ cho tiêu dùng bao

gồm sản xuất,bao gồm nguyên, nhiên, vật liệu và thiết bị máy móc.
 Dự trữ các vật liệu tiêu dùng: là những vật phẩm tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng cá nhân, xã hội ,được dùng trong lĩnh vực phi sản xuất của nền kinh tế
quốc dân .
2.Xét theo đặc điểm và quá trình chu chuyển hàng hóa
 Dự trữ lưu thông: là những sản phẩm hàng hóa nằm trong quá trình sản xuất đến

nơi tiêu dùng, bao gồm:
• Dự trữ các thành phần ở các doanh nghiệp sản xuất .


Dự trữ hàng trên đường đi: là những thành phần hàng hóa
đang trong quá trình vận động.
• Dự trữ hàng hóa ở các doanh nghiệp thương mại: là những sản
phẩm hàng hóa nằm trong mạng lưới kinh doanh, kho hàng,
cửa hàng, bến bãi.
 Dự trữ sản xuất : được hình thành trong lĩnh vực sản xuất và đang nằm chờ để
bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp. Dự trữ sản xuất bao gồm:
• Dự trữ vật tư kĩ thuật ở các doanh nghiệp sản xuất.

• Dự trữ các bán thành phẩm và các chi tiết thành phẩm đang
nằm ở các giai đoạn khác nhau của quá trình gia công và
hoàn thành sản phẩm.
• Dự trữ các bán thành phần và các chi tiết thành phần đang
nằm ở các giai đoạn khác nhau của quá trình gia công và
hoàn chỉnh sản phẩm


3. Xét theo mục đích và cấp độ quản lý dự trữ:
 Dự trữ quốc gia : Đây là một dạng đặc biệt của dự trữ hàng hóa. Dự trữ này bắt

buộc phải có đối với những sản phẩm hàng hóa quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Dự trữ nhà nước được
đỏi mới và bổ sung hàng năm căn cứ vào yêu cầu của nền kinh tế có những biến
đọng lớn xảy ra và khả năng của nền tài chính quốc gia dành cho dự trữ này. Dự
trữ quốc gia được quản lý thống nhất và có hệ thống kho bãi bảo quản riêng từ
trung ương đén địa phương. Trong cơ chế thị trường, chính sách dự trữ quốc gia
của một nước có ý nghĩa to lớn , tác động trực tiếp đén quá trình phát triển kinh tếxã hội.
 Dự trữ ở các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế: Dự trữ này được hình thành theo kế
hoạch của doanh nghiệp, của tổ chức kinh tế. Nó nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong mottj thời gian nhất định. Hàng trăm doanh
nghiệp phải xây dựng kế hoạch dự trữ.
 Dự trữ ở các hộ tiêu dùng cá nhân: Đây là những sản phẩm hàng hóa nằm ngoài
quá trình sản xuất và luwu thông, phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Từ một nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế
hàng hóa với triết lý là “ nên bán cái thị trường cần hơn là cái mình có” đã làm cho cơ
cấu dự trữ hàng hóa có những thay đổi cơ bản. Từ chỗ dự trữ hàng hóa chủ yếu tập trung
ở khâu sản xuất đã chuyển dần sang lĩnh vực lưu thông, hình thành mối tương quan hợp
lý giữ hai loại vốn dự trữ này, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào dự trữ.
Trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo ổn định sản xuất và lưu thông, Nhà nước quy



định các đơn vị kinh doanh trực thuộc kinh tế nhà nước phải đảm bảo dự trữ ở mức độ
nhất định. Trong những trường hợp cần thiết vì lợi ích quóc gia, Nhà nước quy định các
doanh nghiệp phải tạm trữ hoặc mua tạm trữ một khối lượng hàng hóa theo quyết định
của Chính phủ.
III. Sự cần thiết của dự trữ hàng hóa đói với hoạt động lưu chuyển hàng hóa của
doanh nghiệp.
Vai trò của dự trữ hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân là hết sức to lớn. Vai trò chung
của các loại dự trữ thấy rỡ ở hai vấn đề:
-

Dự trữ đảm bảo cho nền kinh tế,cho sản xuất, kinh doanh, an ninh, quốc
phòng diễn ra bình thường theo đúng kế hoạch dự kiến.
Dự trữ đảm bảo cho các hoạt động kính tế- xã hội diễn ra liên tục khi có
những biến co ngẫu nhiên xảy ra ngoài dự kiến

Mặt khác, vai trò của dự trữ hàng hóa trong quá trình sản xuất, kinh doanh còn được xem
xét trên từng giác độ và đối tượng với từng loại dự trữ nhất định. Mỗi loại dự trữ có một
chức năng nhất định và vì vậy nó có vai trò khác nhau. Vai trò của dự trữ hàng hóa được
thể hiện:
-

-

-

Thứ nhất, dự trữ đảm bảo cho quá trình lưu thông và quá trình tái sản
xuất xã hội được tiến hành thường xuyên và liên tục. Trong điều kiện
chuyên môn hóa sản xuất giữa nhu cầu và việc đảm bảo dảm bảo nhu cầu

không phù hợp về thời gian và không gian, dự trữ đã làm cân bằng sự
không phù hợp đó, đảm bảo sản xuất tiến hành với quy mô ngày càng
tăng cả về số lượng và chất lượng hàng hóa.
Thứ hai, sức mạnh kinh tế của Nhà nước trước hết phụ thuộc vào tiềm
lực kinh tế bao gồm cả tiềm lực về dự trữ. Chinh Lênin trước dây đã coi
sản xuất và dự trữ lương thực là “ vận mện của toàn Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Nga” và Người cho rằng “ chỉ khi nào thực sự có một số dự
trữ lương thực đầy đủ thì khi đó Nhà nước công nhân mới đứng vững vè
mặt kinh tế”.
Thứ ba, chỉ có trong tay một lực lượng dự trữ đủ sức và được huy đọng
hợp lý mới có thể ổn định thị trường giá cả . Thực tế, kinh nghiệm của
các cơn sốt giá của một số mặt hàng thời gian như: ximăng, sắt, thép,
xăng dầu... đã cho ta thấy điều đó. Có đơn vị không đủ vốn mua hàng để
dự trữ, có đơn vị có vốn nhưng lại chưa sử dụng một cách hợp lý, đem
vốn đó kinh doanh các mặt hàng có lãi trước mắt, đén khi thị trường xuất
hiện sự mất cân đối cung cầu mới tiến hành mua hàng, gây lên hiện


-

-

tượng lộn xộn giá cả, cung cầu căng thẳng, đơn vị kinh doanh thua lỗ và
người sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, đói với các doanh nghiệp thương mại, duy trì được dự trữ hợp lý
không những sử dụng có hiệu quả đồng vốn kinh doanh, giảm khấu hao,
chi phí bảo quản mà còn đảm bảo đủ hàng bán liên tục, nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
Thứ năm, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường, dự trữ như là
một phương tiện tăng cường uy tín của doanh nghiệp đối với khách

hàng . Cùng với giá cả, chất lượng hàng hóa bán ra và và việc duy trì
hàng hóa đối với doanh nghiệp được coi là phương tiện có hiệu lực để
tăng cường uy tín , tăng cường khả năng cạnh tranh của các đơn vị trên
thị trường. Nêu không có dự trữ hàng hóa để đáp ứng nhu cầu doanh
nghiệp sẽ mất tiền lãi một lần bán hàng và nếu lặp đi lặp lai hiện tượng
này thì doanh nghiệp sẽ mất luôn nguồn lợi do khách hàng mang lại. Bởi
thế trong kinh doanh cần phải tạo cho khách hàng hiểu rằng: với bất kỳ
thời gian nào, khách hàng đến doanh nghiệp sẽ được đáp ứng nhu cầu.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng quan trọng, thông
qua lực lượng dự trữ của mình có thẻ vươn lên nắm giữ vài trò chủ đạo
trên thị trường.

Đối với dự trữ sản xuất, việc quy định đúng đắn mức dự trữ có ý nghĩa rất lớn. Nó cho
phép giảm các chi phí bảo quản hàng hóa , giảm hao hụt, mắt mát, đảm bảo cho các
doanh nghiệp đủ vật tư hàng hoá cần thiết trong sản xuát để thực hiện nhiệm vụ để ra .
Dự trữ sản xuất vừa đủ để cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được liên tục , vừa
hợp lý để nâng cao hiệu quả khâu dự trữ, giảm vốn ngưng đọng do dự trữ và tăng hiệu
quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Dự trữ sản xuất còn nhằm để đề phòng các bất
trắc xảy ra trong sản xuất kinh doanh của daonh nghiệp. Đây là lực lượng dự trữ bảo
hiểm cho sản xuất. Vòng tuần hoàn của quá trình sản xuất ở doanh nghiệp được đảm bảo
khi đại lượng dự trữ xác định đúng đắn. Xét trên khía cạnh kế hoạch tác nghiệp, dự trữ
sản xuất của doanh nghiệp cần thiết để:
-

-

Xác định các loại nhu cầu hàng hóa, lượng đặt hàng và tính toán khối
lượng hàng hóa nhập về trong các kế hoạch kinh doanh. Muốn vậy, trong
quá trình xây dựng kế hoạch kinh doan hphải tính toán hàng hóa dự trữ
cuối kỳ và đầu kỳ cho doanh nghiệp.

Điều chỉnh lượng hàng hóa nhập trong quá trình hoạt động kinh doanh và
kiểm tra thực tế dự trữ hàng hóa ở các kho hàng.
Xác định mức vốn lưu động dầu tự vào dự trữ sản xuất. Để làm việc này
người ta thường quy định mức dự trữ sản xuất bình quân.


-

Tính toán nhu cầu về diện tích kho hàng cần thiết cho các doanh nghiệp để
bảo quản số lượng và chất lượng hàng hóa dự trữ. Việc tính toán diện tích
kho hàng dựa trên cơ sở mức dự trữ sản xuất tối đa
Trong cơ chế thị trường, dự trữ lưu thông và dự trữ quốc gia có một vai trò
rất lớn, với đặc điểm có tính cơ động cao, dự trữ lưu thông đảm bảo cho
quá trình kinh doanh thương mại tiến hành được liên tục và có hiệu quả
đồng thời dự trữ lưu thông còn góp phần vào việc ổn định thị trường hàng
hóa. Cùng với dự trữ quốc gia, dự trữ lưu thông được coi là công cụ quan
trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Như vậy, vai trò của dự trữ không chỉ giới hạn trong phạm vi của một
doanh nghiệp, mà còn là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công, sự
chiến thắng của tất cả các doanh nghiệptrong việc tham gia cạnh tranhvà
vươn lên trong cơ chế thị trường.
Tóm lại, chương I của luân văn đã nêu lên tổng quát về dự trữ hàng hóa
của daonh nghiệp, khái niệm dự trữ và dự trữ hàng hóa, phân loại dự trữ
hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại dựa trên các tiêu chí khác nhau
và sự cần thiết cảu dự trữ hàng hóa đối với hoạt động lưu chuyển hàng hóa
của doanh nghiệp.

IV.Hoạt động quản trị dự trữ hàng hóa DNTM Việt Nam hiện nay
Dự trữ hàng trong tình hình kinh tế hiện nay là một kế hoạc h quan trọng cho các
doanh nghiệp, nó không chỉ chỉ ra kế hoạch đầu tư, kinh doanh đúng đắn, mà còn thể

hiện chính sách hoạch định chiến lược lâu dài cũng như dự trữ hàng hóa cho những lúc
cần thiết.
Chức năng của kinh doanh thương mại là mua bán hàng hóa vào để cung ứng đầy đủ,
kịp thời, đồng bộ, đúng chất lượng, số lượng, ở những nơi thuận tiện cho khách hàng.
Nhờ có hàng hóa dự trữ mà doanh nghiệp thương mại có thể thỏa mãn đầy đủ, kịp thời về
nhu cầu hàng hóa của khách hàng. Nhờ có hệ thống mạng lưới rộng (kho, trạm, cửa hàng,
quầy hàng, siêu thị, đại lý…) mà doanh nghiệp thương mại có thể đảm bảo thuận lợi cho
khách hàng mua những hàng hóa cần thiết, vừa tiết kiệm được thời gian, vừa không phải
đi quá xa.
Để thỏa mãn nhu cầu và khả năng của khách hàng, doanh nghiệp thương mại phải
mua những mặt hàng có chất lượng tốt, đúng yêu cầu của khách hàng, nhưng phải ở nơi
có nguồn hàng phong phú, nhiều, rẻ, sau khi cộng với chi phí lưu thông đưa đến thị
trường bán, khách hàng vẫn có thể chấp nhận được. Điều này, một cách tự nhiên, kinh
doanh thương mại thực hiện việc điều hòa cung cầu từ nơi có hàng hóa nhiều, phong phú,


rẻ đến nơi có hàng hóa ít, khan hiếm, đắt hoặc mua hàng khi thời vụ và bán hàng quanh
năm, cung cầu hàng hóa được điều hòa.
Ví dụ tại một số chợ trên địa bàn Hà Nội, khi có thông tin dự báo bão, sức mua các
mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đã tăng mạnh. Tiểu thương kinh doanh thực phẩm tại chợ
cho biết: Bình thường phải tầm 9 - 10 giờ mặt hàng thịt mới vơi hàng, nhưng hôm nay
mới 7 - 8 giờ, người tiêu dùng đã mua gần hết các loại thịt mông sấn, nạc vai, sườn…
Ngay cả các loại đồ khô như như lạc, vừng, nấm, cá biển khô... được nhiều người tìm
mua; các mặt hàng rau xanh cũng bán chạy hơn hẳn ngày thường.
Mặc dù sức mua tăng nhưng hầu hết các mặt hàng này chưa có biến động tăng giá so
với ngày thường. Cụ thể, giá các loại rau xanh như: Rau muống, rau dền, rau ngót dao
động từ 4.000 - 5.000 đồng/mớ, bí đao và mướp 10.000 đồng/kg. Giá các loại thịt cũng
không có biến động: Thịt lợn thăn, sườn thăn 100.000 đồng/kg, thịt ba chỉ, thịt vai 90.000
đồng/kg, xương cục 60.000 đồng/kg. Theo các tiểu thương, mặc dù người tiêu dùng tăng
cường dự trữ thực phẩm, rau xanh nhưng hiện nguồn cung vẫn dồi dào nên những mặt

hàng này chưa tăng giá. Tuy nhiên, khi bão tan rất có thể cơn bão này sẽ ảnh hưởng đến
nguồn cung nên giá bán rau xanh, thực phẩm có khả năng tăng. Nhằm đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng, qua đó ngăn chặn tình trạng khan hàng, sốt giá, ngành thương mại
Hà Nội đã tiến hành dự trữ hàng hóa. Đại diện Sở Công Thương Hà Nội cho biết: Để
triển khai công tác cứu trợ khẩn cấp khi có mưa bão xảy ra, ngày 26/7 Sở Công Thương
đã gửi công văn tới DN, các quận huyện và các DN bán lẻ, hệ thống chợ truyền thống đề
nghị các đơn vị đẩy mạnh công tác này. Đồng thời, yêu cầu Chi cục Quản lý thị trường
Hà Nội tăng cường kiểm tra, chống đầu cơ găm hàng tăng giá những mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu. Tuy nhiên, khi phóng viên báo Kinh tế & Đô thị gọi điện hỏi lãnh đạo hệ thống
bán lẻ hiện đại như Big C, Fivimart, Hapro… về vấn đề dự trữ hàng hóa trong mùa mưa
bão, đại diện các đơn vị này đều cho biết: Hàng năm DN được UBND TP cho vay vốn
không lãi suất nên dễ dàng dự trữ hàng hóa. Tuy nhiên, năm 2016 UBND TP thực hiện xã
hội hóa nguồn vốn này nên việc dự trữ hàng chỉ theo hướng đáp ứng nhu cầu hàng ngày
của người dân. Trong khi mùa mưa bão đang đến, thực tế trên đang là mối lo ngại cần
sớm có giải pháp khi có những biến động trên thị trường.
Hay như vào dịp Tết, theo đó, dự kiến, số lượng một số mặt hàng chuẩn bị để phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết năm 2018 (tính cho 2 tháng từ 1/1/2018 đến
28/2/2018) gồm: Gạo 193.600 tấn; thịt lợn 50.000 tấn; thịt gà 14.00 tấn; thịt bò 13.800
tấn; trứng gia cầm 200 triệu quả; 220.000 tấn rau củ; thực phẩm chế biến 12.000 tấn; thủy
hải sản 12.000 tấn; nông lâm sản khô khoảng 3.500 tấn; 3.000 tấn bánh mứt kẹo; 200
triệu lít rượu, bia, nước giải khát; 120.000 m3 xăng dầu và các mặt hàng về may mặc,
điện máy.


Ước tính tổng giá trị hàng hóa phục vụ Tết trên địa bàn thành phố khoảng 26 nghìn tỷ
đồng, tăng 10% so với kế hoạch dự trữ hàng hóa Tết năm 2017.
Sở Công Thương sẽ triển khai tổ chức bán hàng phục vụ Tết tại 22 trung tâm thương
mại, 125 siêu thị, 454 chợ, hệ thống trên 600 cửa hàng tiện ích, trên 50 chuỗi kinh doanh
mặt hàng nông sản thực phẩm, các hộ kinh doanh trên địa bàn Thành phố. Tổ chức các
điểm bán hàng Việt, các chuyến bán hàng lưu động phục vụ Tết tại các huyện, các khu

công nghiệp, khu chế xuất, các xã miền núi để phục vụ nhân dân trong dịp Tết Nguyên
đán Mậu Tuất.
Bên cạnh đó, khuyến khích các đơn vị tổ chức sự kiện, tổ chức các hội chợ Tết; tổ
chức các Hội chợ Xuân, các điểm chợ hoa, cây cảnh phục vụ Tết trên địa bàn Thành phố,
tập trung vào các sản phẩm chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng nhân dân như hàng nông
sản thực phẩm, quần áo, may mặc, thời trang, hàng gia dụng, hoa cây cảnh, sản phẩm
truyền thống phục vụ Tết Nguyên đán. Sở cũng kết nối cung cầu hàng hóa giữa thành phố
Hà Nội với các tỉnh, thành phố bình ổn thị trường, phục vụ Tết Dương lịch và Tết Mậu
Tuất năm 2018.
Ngoài ra, cũng triển khai Đề án thí điểm quản lý các cửa hàng kinh doanh trái cây trên
địa bàn các quận nội thành, qua đó hình thành hệ thống điểm bán trái cây an toàn phục vụ
nhân dân trong dịp Tết. Đồng thời kết nối giữa ngân hàng và doanh nghiệp để hỗ trợ
doanh nghiệp trong công tác tìm hiểu, tiếp cận với các nguồn vốn vay lãi suất ưu đãi từ
các tổ chức tín dụng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
B.Liên hệ Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk.
I.Sơ lược công ty sữa Việt Nam Vinamilk
Thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1976, đến nay Vinamilk đã trở thành công ty hàng đầu
Việt Nam về chế biến và cung cấp các sản phẩm về sữa, được xếp trong Top 10 thương
hiệu mạnh Việt Nam. Vinamilk không những chiếm lĩnh 75% thị phần sữa trong nước mà
còn xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Pháp,
Canada,…
Hoạt động hơn 10 năm trong cơ chế bao cấp, cũng như nhiều DN khác chỉ sản xuất
theo kế hoạch, nhưng khi bước vào kinh tế thị trường, Vinamilk đã nhanh chóng nắm bắt
cơ hội, không ngừng đổi mới công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa sản phẩm để
chuẩn bị cho một hành trình mới. Từ 3 nhà máy chuyên sản xuất sữa là Thống Nhất,
Trường Thọ, Dielac, Vinamilk đã không ngừng xây dựng hệ thống phân phối tạo tiền đề
cho sự phát triển. Với định hướng phát triển đúng, các nhà máy sữa: Hà Nội, liên doanh


Bình Định, Cần Thơ, Sài Gòn, Nghệ An lần lượt ra đời, chế biến, phân phối sữa và sản

phẩm từ sữa phủ kín thị trường trong nước.
Không ngừng mở rộng sản xuất, xây dựng thêm nhiều nhà máy trên khắp cả nước
(hiện nay thêm 5 nhà máy đang tiếp tục được xây dựng), Vinamilk đạt doanh thu hơn
6.000 tỷ đồng/năm, nộp ngân sách nhà nước mỗi năm trên 500 tỉ đồng. Cty Vinamilk hiện
có trên 200 mặt hàng sữa và sản phẩm từ sữa như: sữa đặc, sữa bột cho trẻ em và người
lớn, bột dinh dưỡng, sữa tươi, sữa chua uống, sữa đậu nành, kem, phô-mai, nước ép trái
cây, bánh biscuits, nước tinh khiết, cà phê, trà… Sản phẩm đều phải đạt chất lượng theo
tiêu chuẩn quốc tế.
Vinamilk cũng đã thiết lập được hệ thống phân phối sâu và rộng, xem đó là xương
sống cho chiến lược kinh doanh dài hạn. Hiện nay, Cty có trên 180 nhà phân phối, hơn
80.000 điểm bán lẻ phủ rộng khắp toàn quốc. Giá cả cạnh tranh cũng là thế mạnh của
Vinamilk bởi các sản phẩm cùng loại trên thị trường đều có giá cao hơn của Vinamilk. Vì
thế, trong bối cảnh có trên 40 DN đang hoạt động, hàng trăm nhãn hiệu sữa các loại,
trong đó có nhiều tập đoàn đa quốc gia, cạnh tranh quyết liệt, Vinamilk vẫn đứng vững và
khẳng định vị trí dẫn đầu trên thị trường sữa Việt Nam.
Trong kế hoạch phát triển, Vinamilk đã đặt mục tiêu phát triển vùng nguyên liệu sữa
tươi thay thế dần nguồn nguyên liệu ngoại nhập bằng cách hỗ trợ nông dân, bao tiêu sản
phẩm, không ngừng phát triển đại lý thu mua sữa. Nếu năm 2001, Cty có 70 đại lý trung
chuyển sữa tươi thì đến nay đã có 82 đại lý trên cả nước, với lượng sữa thu mua khoảng
230 tấn/ngày. Các đại lý trung chuyển này được tổ chức có hệ thống, rộng khắp và phân
bố hợp lý giúp nông dân giao sữa một cách thuận tiện, trong thời gian nhanh nhất. Cty
Vinamilk cũng đã đầu tư 11 tỷ đồng xây dựng 60 bồn sữa và xưởng sơ chế có thiết bị bảo
quản sữa tươi. Lực lượng cán bộ kỹ thuật của Vinamilk thường xuyên đến các nông trại,
hộ gia đình kiểm tra, tư vấn hướng dẫn kỹ thuật nuôi bò sữa cho năng suất và chất lượng
cao. Số tiền thưởng và giúp đỡ những hộ gia đình nghèo nuôi bò sữa lên đến hàng tỷ
đồng. Nhờ các biện pháp hỗ trợ, chính sách khuyến khích, ưu đãi hợp lý, Vinamilk đã
giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động nông thôn, giúp nông dân gắn bó với Cty và
với nghề nuôi bò sữa, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống; nâng
tổng số đàn bò sữa từ 31.000 con lên 105.000 con. Cam kết Chất lượng quốc tế, chất
lượng Vinamilk đã khẳng định mục tiêu chinh phục mọi người không phân biệt biên giới

quốc gia của thương hiệu Vinamilk. Chủ động hội nhập, Vinamilk đã chuẩn bị sẵn sàng
từ nhân lực đến cơ sở vật chất, khả năng kinh doanh để bước vào thị trường các nước
WTO một cách vững vàng với một dấu ấn mang Thương hiệu Việt Nam.
II.Hoạt động dự trữ của Vinamilk


1.Thực trạng
h
Vinamilk luôn phải dự trữ để hàng hóa được sản xuất liên tục đảm bảo số lượng để
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp, không làm
cho quá trình sản xuất, quá trình bán ra bị gián đoạn, tránh ứ đọng hoặc thiếu hàng hóa vì
một số nguyên nhân như không cung ứng đủ nguyên vật liệu, sữa bò không đạt chất
lượng, nhu cầu sữa đột nhiên tăng lên hoặc giảm đi. Dự trữ giúp Vinamilk tăng lượng sữa
bán ra cho thị trường lúc cầu lớn hơn cung và giảm đi lúc cung lớn hơn cầu. Góp phần
bình ổn giá trên thị trường sữa, không để xảy ra tình trạng giá sữa tăng quá cao do thiếu
sữa bán hoặc giảm giá quá thấp do nguồn cung lớn hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Do mở rộng sản xuất, mở thêm các nhà máy hiện đại hơn nên sản lượng sữa sản
xuất ra của Vinamilk ngày càng tăng, sản lượng dự trữ và hàng tồn kho của công ty cũng
tăng lên.
(Đv: tỷ đồng)
Năm
Tổng tài sản

2012
3.476

2013
3.227

2014

3.633

2015
3.810

2016
4.538

2017
3.266

. Từ năm 2012 đến quý 3 năm 2017 thì hàng tồn kho của Vinamilk được thể hiện
như sau:
(Đv: tỷ đồng)

Hàng mua đang đi đường
Nguyên vật liệu
Công cụ và dụng cụ
Sản phẩm dở dang
Thành phẩm
Hàng hóa
Hàng gửi đi bán
• Dự trữ nguyên liệu, đảm bảo cho quá trình sản xuất.

Tổng tài sản
410
2.049
0,035
22
768

13
1


Nguyên liệu là thứ không thể thiếu, nên trong kho của Vinamilk luôn có dự trữ.
Nhu cầu sữa nguyên liệu của Vinamilk không ngừng tăng nhanh trong nhiều năm qua.
Phục vụ nhu cầu này, một mặt, công ty đã chủ động đầu tư các trang trại quy mô công
nghiệp, mặt khác không ngừng tăng cường công tác thu mua và phát triển vùng nguyên
sữa tươi từ các hộ dân, ngoài ra, Vinamilk còn nhập khẩu nguồn nguyên liệu từ nước
ngoài. Có những năm, giá nguyên liệu sữa thế giới liên tục tăng, các nhà sản xuất, kinh
doanh sữa trong và ngoài nước đã phải điều chỉnh giá bán sản phẩm. Nhưng riêng
Vinamilk, do có kế hoạch dự trữ nguyên liệu tốt, đã không tăng giá bán, kể cả những mặt
hàng không tham gia chương trình bình ổn.
Ngành sữa Việt Nam đang trong tình trạng thiếu cung. Việt Nam là quốc gia nằm
trong top 20 quốc gia nhập khẩu sữa nguyên liệu nhiều nhất thế giới, do sự thiếu hụt
nguồn cung từ đàn bò sữa trong nước. Nguồn nguyên liệu trong nước chỉ mới đáp ứng
30% nhu cầu sản xuất, còn lại 70% phải nhập khẩu từ New Zealand, Mỹ, EU và Úc.
Vinamilk cũng đang dẫn đầu trong các công ty sữa tại Việt Nam về năng suất cho sữa của
đàn bò do quy trình nuôi khép kín công nghệ cao. Vinamilk hiện đang có 10 trang trại
trong đó có 7 trang trại theo chuẩn Global G.A.P trang bị công nghệ cao, khép kín từ
đồng cỏ đến trang trại và 3 trang trại khác đang được công ty xây dựng.
Tổng đàn bò từ 3.000 con (năm 1991) tăng lên 120.000 con hiện nay (tổng đàn bò
cung cấp sữa cho công ty bao gồm các trang trại của Vinamilk và bà con nông dân có ký
kết hợp đồng bán sữa cho Vinamilk), mỗi ngày cung cấp khoảng 750 tấn sữa tươi nguyên
liệu. Với kế hoạch phát triển trang trại mới, công ty sẽ đưa tổng số đàn bò của Vinamilk
từ các trang trại và của các nông hộ lên khoảng 140.000 con vào năm 2017 và khoảng
160.000 - 180.000 con vào năm 2020. Sản lượng nguyên liệu sữa dự kiến đến năm 2020
sẽ tăng lên gấp đôi, 1.000 - 1.200 tấn/ngày đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu sữa
phục vụ nhu cầu trong nước và cả xuất khẩu. Với chiến lược này, nguồn cung sữa nguyên
liệu trong nước sẽ tăng trong 5 năm tới và góp phần làm giảm tỷ lệ phụ thuộc nguồn

nguyên liệu nhập khẩu.


Sữa bò được thu mua từ nông dân Việt Nam, qua nhiều khâu kiểm tra tại các trạm thu
mua, trung chuyển. Có đội ngũ chuyên viên hỗ trợ bà con nông dân về kỹ thuật nuôi bò,
thức ăn, vệ sinh chuồng trại, cách vắt sữa, cách bảo quản và thu mua sữa…Từ khâu thu
mua nguyên liệu sữa đến khâu chuyển về trung tâm là một quá trình đòi hỏi phải đảm bảo
chất lượng nguyên liệu trong quá trình vận chuyển cũng như bảo quản. Vì sữa tươi chỉ
giữ được ở nhiệt độ bình thường trong 2h, nên đội ngũ vận chuyển phải hết sức lưu ý
trong khâu bảo quản, dự trữ. Sữa tươi nguyên liệu sau khi được thu mua và trữ lạnh trong
các xe bồn, khi đến nhà máy lại được kiểm tra nhiều lần trước khi đưa vào sản xuất, tuyệt
đối không chấp nhận sữa có chất lượng kém, chứa kháng sinh.


Kho chứa và dự trữ hàng hóa
Trong các kho dự trữ của Vinamilk, nguyên vật liệu trong kho được phân loại và bố trí nơi dự

trữ hàng phù hợp. Thiết bị sử dụng trong kho là các pallet, giá, kệ, bao tải, các thùng chứa chuyên dụng
để chứa sữa bò… Các nguyên vật liệu chính trong kho: sữa bò nguyên chất, sữa bột, đường tinh luyện,
whey bột, các hương liệu và chất tổng hợp.
Tiêu chuẩn quản lý trong kho:
+ Các nguyên vật liệu nhập kho phải đạt chất lượng tiêu chuẩn trước khi nhập kho.
+ Hàng hóa loại A được bố trí nơi tốt nhất, dễ quản lý; hàng hóa loại B, C được sắp xếp sau đó.
+ Các nguyên vật liệu như sữa tươi được bảo quản với nhiệt độ phù hợp để tránh bị biến chất…
Hàng hóa trong kho được quản lý với phương pháp định kỳ thường xuyên với chu kỳ bảo quản
là 1 tháng/1 lần cho những nguyên vật liệu được sử dụng lâu dài và 1 tuần/1 lần cho các loại hàng hóa
quan trọng. Người đảm nhận quản lý cho kho là chủ kho và tổ trưởng sản xuất.


Trong quản lý kho hàng, Vinamilk sử dụng “kho thông minh” do Cty Schafer của Đức xây

dựng. Vinamilk là một trong những khách hàng đầu tiên ứng dụng công nghệ này.
Kho chứa palet có công suất 27.168 lô chứa hàng, có khả năng chịu động đất; 8 hệ
thống kho chứa và máy bốc dỡ Exyz công nghệ mới và tiên tiến nhất hiện nay. Hệ thống
này nhanh hơn, nhẹ hơn, tiết kiệm năng lượng hơn bất kỳ thế hệ máy cùng tính năng nào
trước đây.
Ở đây hệ thống xếp dỡ và vận chuyển palet theo ray định hướng (RGV) với 370
mét đường ray và 15 khay tải động, mỗi khay có khả năng mang 2 palet. Ông David
Gross - Giám đốc dự án của Cty Schafer cho biết, đây là lần đầu tiên Schafer ứng dụng
cơ cấu khay tải động mang 2 palet cùng lúc. Hệ kho chứa palet tự động tối ưu hóa không
gian, trong đó có các băng tải hỗ trợ hoạt động bốc xếp của người công nhân, tự động sắp


xếp thứ tự các palet và có khả năng truy xuất palet bất kỳ. Tại khu vực xuất hàng, hệ
thống phân loại palet tự động phân chia thành 16 làn theo nguyên lý băng tải con lăn
trọng lực. Toàn bộ hệ thống được kiểm soát và quản lý bằng một phần mềm lõi của SSI
Schaefer có tên gọi Hệ thống quản lý kho hàng Wamas.
Việc ứng dụng công nghệ tự động và tích hợp trên giải pháp tự động hóa Tetra
Plant Master, và hệ thống quản lý kho hàng Wamas đã đưa nhà máy sữa Việt Nam trở
thành nhà máy hiện đại bậc nhất thế giới, ghi dấu ấn Việt Nam trên bản đồ ngành công
nghiệp sữa thế giới.
• Hệ thống kho vận
Để hàng hóa đến tay khách hàng nhanh chóng và tiện lợi trong việc quản lý hàng
hóa, Vinamilk có thành lập riêng xí nghiệp kho vận phụ trách việc vận chuyển hàng hóa.
Hiện nay Vinamilk có 2 đơn vị vận chuyển chủ yếu cho riêng công ty là:
- Xí nghiệp kho vận Tp Hồ Chí Minh: 32 Đặng Văn Bi, Phường Trường thọ, Quận Thủ Đức,
Tp HCM.
Xí nghiệp kho vận Hà Nội: Km 10/Quốc lộ 5, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Hai đơn vị này chuyên vận chuyển cả sản phẩm hang hóa bao gồm cả nguyên vật liệu và thành
-


phẩm đến các đơn vị chức năng như các nhà máy, các đại lý bán buôn, các cửa hàng giới thiệu sản
phẩm..
Ngoài ra, Vinamilk cũng tiến hành dung đa dạng các loại hình vận chuyển khác như hàng
không, đường thủy, đường sắt, đường bộ của các đơn vị cung ứng trong và ngoài nước.
Hàng hóa từ Vinamilk thông qua xí ngiệp kho vận, đến các của hàng đại lý nhỏ sau đó đến tay
khách hàng cuối cùng.
2.Ưu điểm,hạn chế và giải pháp của hoạt động dự trữ hang hóa của công ty vinamilk
Ưu điểm:
Dự trữ giúp vinamilk tăng lượng số bán cho thị trường lúc cầu lớn hơn cung và giảm
lượng cung lúc cung lớn hơn cầu
Góp phần bình ổn giá trên thị trường sữa,không để xảy ra tình trạng giá sữa tăng quá cao
do thiếu sữa hoặc giảm giá quá thấp do nguồn cung lớn hơn nhu cầu của người tiêu
dung.gây dựng được lòng tin của khách hàng cho doanh nghiệp.


Nhờ vào lực lượng hàng hóa dự trữ đầy đủ mà công ty vinamilk có thể giữ vững vai trò
chủ đạo trong việc chiếm lĩnh và làm chủ thị trường.do ảnh hưởng của nền kinh tế vĩ mô
đến quan hệ cung cầu nên luôn cần phải có công tác dự trữ đề phòng bất trắc,có cầu thì
lập tức sẽ có cung để đáp ứng kịp thời thị trường tránh hiện tượng mất lòng khách hàng
dẫn đến mất lợi thế cạnh tranh..
Dự trữ hàng hóa giúp vinamilk điều hòa được biến động của thị trường.đảm bảo hàng hóa
được sản xuất liên tục đảm bảo số lượng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Dự trữ giúp vinamilk giảm đươc những chi phí trong qua trình sản xuất và phân phối.sữa
là mặt hàng luôn được sản xuất lien tục và được lưu thông rộng rãi trên thị trường nên
nếu dự trữ được duy trì hợp lí thì vinamilk có thể tăng nhanh vòng quay hang hóa,sử
dụng vốn kinh doanh hiệu quả hơn,tiết kiệm chi phí khấu hao,chi phí bảo vệ và duy trì
hàng hóa tăng hiệu quả kinh doanh,
Hạn chế.
Xảy ra thiên tai làm ảnh hưởng đến quá trình vận chuyển hàng hóa dẫn đến việc ứ đọng
hàng không tiêu thụ được làm thiệt hại nhiều cho công ty

Dự báo nhu cầu tiêu dùng sản phẩm có độ chênh lệch cao dẫn đến thừa hoặc thiếu sản
phẩm không đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng
Giải pháp
Cần phải tìm nguồn cung cấp sữa từ nguồn thức ăn ,nước uống cho đếnkhâu thu hoạch
sữa từ nông trai vận chuyển đến nơi chế biến doanh nghiệp đầu tư kinh phí cho việc hỗ
trợ người nông dân nuôi bò đểthu sản phẩm chất lượng cao
Thường xuyên kiểm tra máy móc thiết bị bảo quản mặt hàng kho nhằm phát giải kịp thời
nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa
Tăng tốc độ trình sản xuất trình kinh doanh tăng tốc độ chu chuyển dự trữ nhờ giảm thời
gian dự trữ giảm chi phí dự trữ
Xây dựng chế đô dãi ngộ thích đáng trình độ kĩ thuật nghiệp vụ tinh thần trách nhiệm đội
ngũ nhân lực tham gia vào công tác quản trị dự trữ hàng hóa mà phải đặc biệt quan tâm
đến bộ phận kho trưởng kho.
Xây dựng kế hoạch bảo trì sửa chữa nhằm giảm dự trữ vật tư đáp ứng cho yêu cầu.
Kết luận


Số lượng hàng tồn kho càng lớn thì rủi ro phát sinh càng cao. Hàng hóa xuất ra thị trường
đúng lúc với số lượng vừa đủ là mục tiêu mà hầu hết các doanh nghiệp nhắm tới, trong đó
có công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, kí kết hợp đồng thương mại tự do với nhiều quốc gia trên thế
giới và xóa bỏ hàng rào thuế quan với 95% mặt hàng của các nước thành viên ASEAN,
nguồn cung cấp sữa trên thị trường vô cùng dồi dào với mức giá cạnh tranh. Đứng trước
thách thức ày, công ty chỉ có 2 lựa chọn: chấp nhận bị đào thải hoặc cải tiến dây chuyền
công nghệ, tối ưu hóa hoạt động quản lí doanh nghiệp để tối thiểu hóa chi phí phát sinh,
nhằm đưa ra mức giá cạnh tranh cao. Đây chính là yêu cầu cấp thiết khiến doanh nghiệp
trong nước nói chung và công ty Vinamilk nói riêng cần chú trọng tới hoạt động tồn kho
của mình.




×