Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư mạo hiểm tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.79 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN NGHIÊM THÁI MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2004


-1-

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Lời mở đầu ..................................................................................................Trang 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VỐN MẠO HIỂM, QUỸ ĐẦU TƯ
MẠO HIỂM............................................................................................................. 1
1.1.TỔNG QUAN VỀ VỐN MẠO HIỂM, QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ............. 1
1.1.1.Thử đi tìm lời giải cho bài toán nhu cầu tài chính của doanh nghiệp .......... 1
1.1.2.Vốn mạo hiểm .............................................................................................. 2
1.1.2.1.Đònh nghóa vốn mạo hiểm ................................................................. 2
1.1.2.2.Các chủ thể tham gia vào quá trình vận hành của vốn mạo hiểm .... 3
1.1.2.3.Các hình thức cấp vốn mạo hiểm ...................................................... 4
1.1.2.4.Nguyên tắc hoạt động đầu tư mạo hiểm ........................................... 4
1.1.2.5.Quy trình tài trợ của vốn mạo hiểm .................................................. 5


1.1.2.6.Đặc điểm vận hành của vốn mạo hiểm ............................................ 8
1.1.2.7.Những ưu thế của vốn mạo hiểm so với các nguồn vốn khác ........ 10
1.1.3.Quỹ đầu tư mạo hiểm ................................................................................. 12
1.1.3.1.Quỹ đầu tư ....................................................................................... 12
1.1.3.2.Quỹ đầu tư mạo hiểm ...................................................................... 14
1.1.3.3.Cơ cấu tổ chức quỹ đầu tư mạo hiểm .............................................. 14
1.2.THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM ........................................................................... 16


-2-

Chương 2. THỰC TRẠNG VẬN HÀNH CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ MẠO
HIỂM Ở VIỆT NAM ........................................................................................... 20
2.1.SƠ LƯC QUÁ TRÌNH VẬN HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUỸ ĐẦU
TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM ............................................................................. 20
2.1.1.Làn sóng thứ nhất – những năm đầu thập niên 90 đến 1998: hy vọng và
thất bại ................................................................................................................. 20
2.1.2.Làn sóng thứ hai-những năm cuối thế kỷ 20 trở lại đây: triển vọng và đầy
tiềm năng ............................................................................................................. 26
2.2.ĐÁNH GIÁ – BÀN LUẬN ........................................................................... 30
2.2.1.Những kết quả đạt được ............................................................................. 30
2.2.1.1.Các yếu tố điều kiện ....................................................................... 30
2.2.1.2.Đánh giá các chủ thể ....................................................................... 36
2.2.2.Những mặt tồn tại ....................................................................................... 41
2.2.2.1. Các yếu tố điều kiện ...................................................................... 41
2.2.2.2. Đánh giá các chủ thể ...................................................................... 44
Chương 3. HỆ THỐNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM ............................................................................ 49

3.1.THAM KHẢO KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA CHÂU Á

TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN QUỸ ĐTMH VÀ LOẠI HÌNH ĐTMH 49
3.1.1.Vốn mạo hiểm tại một số nước Châu Á ..................................................... 49
3.1.2.Những bài học kinh nghiệm ....................................................................... 51
3.2.HỆ THỐNG CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH ĐẦU TƯ MẠO
HIỂM TẠI VIỆT NAM .......................................................................................... 52
3.2.1.Cải thiện môi trường hoạt động của VMH và vai trò của Chính phủ ......... 52


-3-

3.2.1.1.Biện pháp trực tiếp .......................................................................... 52
3.2.1.2.Biện pháp gián tiếp ......................................................................... 53
3.2.2.Sự vận động của chính các DN trong tiếp cận hiệu quả VMH .................. 63
3.2.2.1.Lập dự án: Trình bày những gì nhà đầu tư cần ............................... 63
3.2.2.2.Tập trung phát triển nhân lực đội ngũ quản lý-một trong những
tiêu chí quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư .................................................. 66
3.2.3.Nhóm giải pháp tăng “cung” vốn mạo hiểm ............................................. 66
3.2.3.1.Hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm nội đòa-quỹ ĐTMH của VN ....... 66
3.2.3.2.Chuyển đổi mô hình hoạt động của quỹ HTPT thành quỹ ĐTMH . 70
.
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


-4-

Lời mở đầu
Lý do chọn đề tài
Với mục tiêu phát triển kinh tế cùng sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất

nước, xã hội cần nhiều hơn về vốn. Ở nước ta, vài trò chính trong việc cung ứng
vốn cho nền kinh tế là ngân hàng. Vốn dó khá bảo thủ, hẳn nhiên mức cầu về vốn
đã không thể được đáp ứng một cách thỏa đáng. Đặc biệt đối với những DN trẻ,
những doanh nhân khởi sự đang trên đường tìm nguồn tài trợ cho việc thực hiện ý
tưởng sáng tạo tiềm năng, thì khả năng tiếp nhận vốn có thể khẳng đònh là bằng
không. Một phần là hạn chế về điều kiện thế chấp, mặt khác dự án không được
thẩm đònh một cách thỏa đáng vì hiện tại chúng ta chưa có hệ thống dòch vụ tư
vấn chuyên nghiệp để đảm bảo cho công tác thẩm đònh.
Thành phần KTTN đã được Nhà nước ta khẳng đònh vò trí, vai trò quan trọng
trong nền kinh tế. Đáp ứng nhu cầu về vốn cho đối tượng này là nhiệm vụ cơ bản
của thò trường vốn. Để lấp đầy những “lỗ hổng” về kênh dẫn vốn- như đã phân
tích ở trên, VMH là một giải pháp. Với cơ chế của một quỹ đầu tư, quỹ ĐTMH là
một kênh dẫn vốn đặc biệt cho nền kinh tế. Ở các nước phát triển và những nền
kinh tế năng động, VMH đóng vai trò quan trọng cho mục tiêu tăng trưởng. Tại
Việt Nam, một số quỹ ĐTMH đã có mặt và hoạt động trong vài năm gần đây.
Hoạt động của họ đã đóng góp nhất đònh vào sự phát triển nền kinh tế nói chung
thông qua việc đầu tư vào các công ty, DN và tác động tích cực đến sự phát triển
của TTCK. Tuy nhiên hoạt động của các quỹ cũng như loại hình đầu tư mới này
hiện vẫn còn nhiều hạn chế.
Có thể thấy rằng việc phát triển các quỹ ĐTMH có tác dụng khơi thông một kênh
dẫn vốn mới cho kinh tế Việt Nam, góp phần hoàn thiện thò trường tài chính nước


-5-

ta trong thời đại mới. Nhằm nâng cao hơn nữa về số lượng, chất lượng của hoạt
động ĐTMH, các quỹ ĐTMH và năng lực hấp thu vốn đầu tư gián tiếp, tác giả
chọn đề tài “GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI
VIỆT NAM”để làm luận văn Thạc Só Kinh tế chuyên ngành Tài Chính Doanh
Nghiệp, Lưu Thông Tiền Tệ và Tín Dụng, mã số 5.02.09.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Khai thác tốt hơn một kênh dẫn vốn quan trọng và khá
đặc biệt cho nền kinh tế. Đồng thời góp phần hoàn thiện thò trường tài chính.
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động đầu tư mạo hiểm được thực hiện bởi các quỹ
đầu tư mạo hiểm trên lãnh thổ nước Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích đánh giá những điều kiện
hiện tại để đònh hướng phát triển và đề xuất giải pháp phát triển loại hình đầu tư
mạo hiểm.
Những nghiên cứu đề cập đến hình thức tài trợ vốn mạo hiểm của các quỹ đầu tư
– một trong số 4 hình thức tài trợ vốn mạo hiểm- tại Việt Nam trong khoảng thời
gian từ năm 1994 đến nay.
Ý nghóa khoa học và thực tiễn:
Các nghiên cứu mang tính lý luận của luận văn đóng góp kiến thức về loại hình
đầu tư còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Từ những nhận thức đúng đắn về vai trò ý
nghóa của kênh dẫn vốn quan trọng này để xác lập đònh hướng phát triển phù
hợp với điều kiện nước ta.
Những giải pháp được đề xuất đóng góp nhất đònh cho việc thực hiện mục
tiêu hoàn thiện và phát triển thò trường tài chính thông qua sự phát triển
của thò trường vốn.


-6-

Chương 1.

TỔNG QUAN VỀ VỐN MẠO HIỂM,
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM

1.1.TỔNG QUAN VỀ VỐN MẠO HIỂM, QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
1.1.1. Thử đi tìm lời giải cho bài toán nhu cầu tài chính cho doanh nghiệp

Tài chính là bài toán mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt và đi tìm
lời giải thỏa đáng. Bài toán này phát sinh từ quá trình tìm kiếm, phát triển một ý
tưởng khoa học, công nghệ trở thành một phát minh, một sản phẩm mới và
thương mại hóa sản phẩm. Thường thì nó đòi hỏi một nguồn tài chính khá lớn.
Do đó, các doanh nghiệp bằng mọi cách phải đáp ứng mà không thể làm khác
hơn bởi lẽ đó là nội dung thiết yếu trong kinh doanh. Điều này đối với công ty
lớn thì không quá khó khăn bởi họ thường dành một khoản đáng kể cho công tác
R&D, nhưng quả là nan giải khi những phát minh, ý tưởng mới đầy tiềm năng lại
xuất hiện ở những người mới khởi nghiệp hoặc các công ty còn non trẻ.
Các công ty lớn trong trường hợp tài trợ nội bộ bò hạn chế thì họ có thể tiếp cận
thò trường tài chính truyền thống một cách dễ dàng. Họ có thừa những điều kiện
cần thiết để có thể nhận khoản vay từ ngân hàng hay phát hành cổ phiếu để huy
động vốn từ thò trường chứng khoán như tài sản thế chấp, uy tín, những mối quan
hệ cùng thu nhập triển vọng trong tương lai. Đó là những yếu tố mà các công ty
trẻ khó sánh kòp, thậm chí là không thể. Những đặc trưng của giai đoạn khởi
nghiệp tạo nên nhận thức thông thường về mức độ rủi ro cao đến mức không thể
chấp được nơi các đònh chế tài chính. Và kết quả là họ, những người khởi
nghiệp, không thể tiếp cận những kênh cung cấp vốn thông thường.


-7-

Động lực tìm kiếm lợi nhuận cùng những chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của Chính phủ đã dần hình thành nên một kênh dẫn vốn đặc biệt, tài trợ cho
những trường hợp như thế. Đó là thò trường vốn mạo hiểm.
1.1.2. Vốn mạo hiểm
1.1.2.1. Đònh nghóa vốn mạo hiểm
Thò trường vốn mạo hiểm được xem là chiếc nôi cho các ý tưởng khoa học và
phát minh công nghệ, mang lại nguồn lợi nhuận thật ấn tượng và tạo ra những
người khổng lồ trong nền kinh tế tri thức, đặc trưng bởi các lónh vực công nghệ

cao. Do tính chất mới mẻ của loại hình vốn này mà nó chưa có một đònh nghóa
thống nhất.
Có một đònh nghóa về vốn mạo hiểm được chấp nhận rộng rãi:
Vốn mạo hiểm là khoản đầu tư do những tổ chức chuyên môn hoá thực hiện
tới những hãng tăng trưởng cao, rủi ro cao và thường là có công nghệ cao đang
cần vốn cổ phần để tài trợ cho phát triển sản phẩm hoặc tăng trưởng.
Như vậy vốn mạo hiểm có thể hiểu theo 2 nghóa: nghóa rộng và nghóa hẹp.
Theo nghóa rộng thì vốn mạo hiểm là nguồn tài chính cung cấp cho các
công ty tư nhân dưới hình thức vốn cổ phần hoặc các khoản đầu tư gần giống
như vốn cổ phần có thời hạn từ 3 đến 5 năm.
Theo nghóa hẹp, vốn mạo hiểm là các khoản đầu tư vốn cổ phần trung hạn
vào các công ty nhận vốn chưa trưởng thành.
Theo hai nghóa rộng và hẹp thì vốn mạo hiểm được hiểu tùy vào mức độ trưởng
thành của các công ty nhận vốn. Với đònh nghóa rộng, thuật ngữ “vốn mạo hiểm”
còn có thể được thay thế bằng “cổ phần tư nhân”. Nó được hiểu như là việc đầu
tư vào các công ty mới thành lập hoặc trong những giai đoạn tăng trưởng đầu


-8-

tiên. Phần thu hẹp của đònh nghóa rộng giới hạn phạm vi xác đònh vốn mạo hiểm
là việc đầu tư vào các công ty chưa trưởng thành – công ty đang trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển. Mặc dù vậy nhưng thật sự thì không có một quy tắc
nào để phân biệt rõ ràng hai loại công ty này.
Mục tiêu đầu tư mạo hiểm là tìm kiếm khoản thu nhập cao hơn mức thông
thường có thể đo lường và phần nào xác đònh cụ thể khi ta đầu tư vào loại hình
nào đó, gửi tiết kiệm chẳng hạn. Điều này xuất phát từ mức độ rủi ro có xu
hướng cao hơn từ việc đầu tư vào các công ty thuộc loại này - đầu tư mạo hiểm.
Khoản thu này trở thành hiện thực khi khoản đầu tư được bán lại cho nhà đầu tư
khác hoặc phát hành chứng khoán ra công chúng.

Mức độ tham gia đầu tư cũng rất linh hoạt, hoặc là với một lượng nhỏ vốn cổ
phần, hoặc đóng vai trò chủ đạo trong công ty nhận vốn đầu tư bằng cách nắm
giữ đa số cổ phần và nắm giữ một vò trí chủ chốt trong Hội Đồng quản trò, Chủ
tòch chẳng hạn.
1.1.2.2.Các chủ thể tham gia vào quá trình vận hành của vốn mạo hiểm
Tham gia trực tiếp vào quá trình vận hành vốn mạo hiểm có 3 đối tượng chủ
yếu: nhà đầu tư, nhà tư bản mạo hiểm và các đối tượng nhận đầu tư
- Nhà đầu tư có thể là cá nhân, một nhóm, một tổ chức hay những đònh chế tài
chính và phi tài chính lớn như ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tập đoàn kinh
tế. Họ có lượng tiền vốn sẵn sàng đầu tư và chấp nhận rủi ro cao với mong muốn
đạt được mức lợi nhuận to lớn.
- Các nhà tư bản mạo hiểm là những người hành nghề đầu tư mạo hiểm chuyên
nghiệp. Họ phải là người có tri thức, kinh nghiệm và tài năng quản trò để có thể


-9-

thực hiện tốt chức năng của mình là huy động vốn, quản lý và đầu tư theo những
chiến lược nhất đònh.
- Các đối tượng nhận đầu tư có thể là những doanh nhân khởi nghiệp – nghóa
hẹp của vốn mạo hiểm hoặc các công ty tư nhân đang cần tài trợ bằng vốn cổ
phần cho các giai đoạn phát triển – nghóa rộng của vốn mạo hiểm. Doanh nhân
khởi nghiệp có thể là những kỹ sư, nhà khoa học thậm chí là một anh sinh viên,
đang muốn biến ý tưởng công nghệ đầy tiềm năng thành sản phẩm và thương
mại hóa thành công trên thò trường. Họ phải thực hiện những cam kết về phân
chia lợi nhuận và quyền lực với các nhà tư bản mạo hiểm.
1.1.2.3.Các hình thức cấp vốn mạo hiểm
Vốn mạo hiểm là một phần quan trọng của thò trường vốn cổ phần. Có 4 hình
thức cấp VMH:
- Thứ nhất, những gia đình giàu có, có thế lực cung cấp vốn vốn khởi nghiệp cho

các doanh nghiệp tiềm năng.
- Thứ hai, một số đối tác tư nhân và công ty được hình thành để cung cấp nguồn
vốn đầu tư.
- Thứ ba, những công ty tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn thành lập những
nguồn vốn mạo hiểm chung lẫn nhau. Hình thức này tồn tại rất hạn chế.
- Thứ tư, những “thiên thần”- thuật ngữ dùng để chỉ những cá nhân cung cấp
nguồn tài trợ vốn. Nó thuộc về thò trường vốn mạo hiểm không chính thức, mới
được thừa nhận gần đây. Những nhà đầu tư này không thuộc bất kỳ một tập đoàn
nào và được đánh giá là có khả năng chòu đựng rủi ro ở mức cao.
1.1.2.4.Nguyên tắc hoạt động vốn mạo hiểm


- 10 -

VMH hoạt động theo nguyên tắc “tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro”. Vì độ
rủi ro cao của giai đoạn khởi nghiệp do đó nhà đầu tư mạo hiểm đòi hỏi một tỷ
suất sinh lợi cao. Khi doanh nghiệp đã dần chuyển sang các giai đoạn tăng
trưởng kế tiếp - khi rủi ro giảm – cũng có nghóa là tỷ suất sinh lợi giảm đi. Đó là
lúc nhà đầu tư bắt đầu cho “cuộc phiêu lưu” mới bởi họ không “dừng chân” tại
mức lợi nhuận thông thường. Như vậy, tương ứng với lợi nhuận cao mong muốn
thì rủi ro là điều buộc phải chấp nhận. Với một mức độ rủi ro có thể chấp nhận
được xác đònh trước, vai trò của công ty QLQ là phải xây dựng một danh mục
đầu tư sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
1.1.2.5.Quy trình tài trợ của vốn mạo hiểm: bao gồm các giai đoạn như sau:
a- Giai đoạn đầu tư: vào giai đoạn này, các nhà tư bản mạo hiểm phải làm việc
với hiệu năng rất cao nếu muốn đầu tư hết số vốn của quỹ với chất lượng đầu tư
cao. Quá trình này diễn ra liên tục trong khoảng từ 2 – 3 năm. Trong giai đoạn
này, có thể có những đợt gọi thêm vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Bao gồm các
công đoạn sau:
(1) Tìm kiếm đối tượng đầu tư

Các nhà tư bản mạo hiểm tiến hành chọn lọc, thẩm đònh dự án, thực hiện quá
trình thương thuyết để xác đònh đối tượng nhận đầu tư và phương thức tài trợ phù
hợp: mua cổ phần, góp vốn hay một hình thức nào đó. Ai sẽ là người được nhận
vốn đầu tư mạo hiểm? Đó là những công ty trẻ (chứ không là công ty nhỏ), công
ty cổ phần đang ở những giai đoạn tăng trưởng đầu tiên hoặc đơn giản hơn: chỉ
là những doanh nhân khởi nghiệp chỉ bằng số vốn ít ỏi và ý tưởng kinh doanh
một loại sản phẩm nào đó. Đối tượng được tài trợ phải thỏa mãn một số điều
kiện cơ bản như sau:


- 11 -

- Có tiềm năng tăng trưởng to lớn. Những doanh nghiệp hoạt động trong
ngành công nghệ cao sẽ có nhiều ưu thế. Và trên thực tế, đa số nguồn tài trợ
mạo hiểm đều tập trung vào phát triển ý tưởng và thương mại các loại sản
phẩm công nghệ.
- Chấp nhận chia sẻ quyền lực vì quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ yêu cầu ít nhất 1 vò
trí trong Hội Đồng quản trò công ty.
- Chấp nhận những yêu cầu kiểm soát về quản trò, chẳng hạn đảm bảo như
tính minh bạch: hệ thống báo cáo tài chính phải được kiểm toán, quyền lợi
của cổ đông phải được đảm bảo tốt, chấp nhận thay đổi cách điều hành – đặc
biệt khi công ty do nhà kinh doanh trẻ lãnh đạo…
(2) Cấp vốn
Việc tài trợ được thực hiện theo từng giai đoạn. Đó cũng là một đặc trưng của
ĐTMH, mục đích là nhằm tự bảo vệ mình trước những rủi ro. Các giai đoạn tài
trợ vốn mạo hiểm gồm:
- Giai đoạn vốn hạt giống: vào giai đoạn này, doanh nghiệp cần một lượng
tiền đủ để chứng minh một ý tưởng khoa học, một phát minh hay việc phát
triển sản phẩm; yếu tố thò trường chưa được tính đến.
- Giai đoạn khởi sự : nguốn vốn được tài trợ sẽ trang trải cho các khoản chi

phí về nghiên cứu thò trường và phát triển sản phẩm.
- Tài trợ vòng 1: sau khi khoản tài trợ cho giai đoạn khởi sự đã được sử dụng
hết đúng mục đích, một khoản tiền kế tiếp được tài trợ để bắt đầu cho việc
bán hàng và sản xuất.
- Tài trợ vòng 2: nguồn vốn này tài trợ cho giai đoạn công ty đã và đang bán
hàng nhưng vẫn còn thiếu tiền: bổ sung nguồn vốn lưu động.


- 12 -

- Tài trợ vòng 3: còn gọi là vốn lưng chừng (mezzanine financing) là khoản
tài trợ cho công ty ít nhất đang ở giai đoạn hoà vốn và có tiềm năng mở rộng.
Khoản tài trợ giai đoạn này có đặc trưng như nợ vay bởi lúc này, công ty nhìn
chung đã tạo được dòng tiền đủ khả năng trả lãi cho nhà đầu tư.
- Tài trợ vòng 4: còn gọi là tài trợ bắc cầu (bridge financing)– đó là khoản
tiền tài trợ cho công ty có thời điểm IPO là trong vòng nửa năm nữa.
Có rất nhiều vấn đề mà một doanh nghiệp khởi sự phải đối mặt. Nhưng đặc
trưng tài trợ mạo hiểm–thể hiện qua các giai đoạn như trên–hàm ý rằng DN
phải bằng mọi cách đạt được thành công. Nếu sự tài trợ ở giai đoạn trước thất
bại thì khó mà tìm được tài trợ bước kế tiếp. Điều này càng gây bất lợi cho
doanh nghiệp vì khả năng tìm một nhà đầu tư khác là rất khó khăn. Những nhà
đầu tư khác thừa hiểu rằng họ có ít hiểu biết về DN hơn so với “người đi trước”.
Do vậy sự ra đi sẽ là một dấu hiệu xấu ngăn cản các nguồn đầu tư sau đó.
b- Giai đoạn tăng cao giá trò:
Ngoài việc cung cấp vốn, các nhà tư bản mạo hiểm còn giám sát chặt chẽ hoạt
động của công ty. Thêm vào đó, các thành viên thường trực tiếp tục xây dựng bộ
máy quản trò quỹ và đặt thêm các mối quan hệ với các tổ chức tài chính để thao
tác tăng thêm giá trò vốn quỹ. Phần lớn các quỹ muốn thu hoạch lợi nhuận sau 5
năm đầu tư, do đó thời gian hoạt động tích cực của một quỹ là 4-5 năm.
c-Thoát vốn

Đây là giai đoạn cuối cùng, kết thúc một chu kỳ. Đây là lúc các nhà tư bản mạo
hiểm tiến hành thanh lý các khoản đầu tư, thu hồi vốn và lãi (nếu có) để phân
phối cho các nhà đầu tư. Hoạt động đầu tư mạo hiểm mang tính chu kỳ do vậy
khi kết thúc một chu kỳ cũng có thể một chu kỳ mới được bắt đầu: vốn được


- 13 -

xoay vòng. Thoát vốn vì vậy được xem là khâu quan trọng vì nó thỏa mãn lợi ích
các bên đồng thời nâng cao hiệu quả đóng góp tài chính và phi tài chính của các
nhà tư bản mạo hiểm. Thời gian thu hoạch thường kéo dài 2-3 năm.
Việc thoát vốn được thực hiện qua các kênh sau đây:
+ Bán thương mại: công ty trẻ được bán lại hoặc sáp nhập với một công ty
lớn hơn. Đây là hình thức khá phổ biến và chiếm được sự ủng hộ từ phía các nhà
đầu tư cũng như nhà tư bản mạo hiểm bởi bán thương mại được xem là phương
thức thoát vốn nhanh và rẻ hơn. Các công ty lớn hơn thường quan tâm đến việc
mua các công ty trẻ hoặc doanh nghiệp khởi sự bởi họ nhận thấy tiềm năng to
lớn từ các công ty này. Điều đó thực sự hiệu quả hơn nhiều so với việc xây dựng
một doanh nghiệp mới từ những bước đi đầu tiên.
+ Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO): vốn đầu tư được
thu hồi thông qua việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng. Thường
thì các nhà tư bản mạo hiểm dự đoán rất chính xác thời điểm IPO – lúc giá trò
doanh nghiệp ở mức cao nhất. Sự tài trợ và giám sát công ty khởi nghiệp nhằm
nâng giá trò cho nó và đó là khoản lợi to lớn cho một IPO thành công.
1.1.2.6.Đặc điểm vận hành của vốn mạo hiểm
- Vốn mạo hiểm đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn sau của chu kỳ sống của
phát minh hay vòng đời của một sản phẩm mới, thời kỳ khi mà công ty bắt đầu
thương mại hoá sản phẩm của mình. Thực chất các quỹ đầu tư mạo hiểm tập
trung vào giai đoạn giữa của đường cong phát triển ngành có dạng chữ S cổ
điển. Họ tránh né những giai đoạn đầu, khi công nghệ còn chưa chắc chắn và

nhu cầu thò trường chưa được biết rõ, và những giai đoạn sau, khi sự thúc ép


- 14 -

mang tính chất cạnh tranh và sự hợp nhất là không thể tránh khỏi và các mức
tăng trưởng chậm đi rõ rệt.
- Quỹ ĐTMH góp một phần vốn vào ý tưởng của một nhà kinh doanh, nuôi
dưỡng nó trong một thời gian ngắn rồi rút lui với sự giúp đỡ của một ngân hàng
đầu tư. Tiền mạo hiểm không phải là tiền dài hạn. Quan niệm của họ là đầu tư
vào cân đối tài sản và cơ sở hạ tầng của một công ty cho đến khi công ty đạt quy
mô và độ tín nhiệm đủ để có thể bán cho một tập đoàn hay để cho các thò trường
chứng khoán có tổ chức có thể nhập cuộc và cấp vốn thanh khoản.
- Hoạt động chuyên môn đặc thù của vốn mạo hiểm tồn tại được là do cơ cấu và
các nguyên tắc của thò trường vốn. Khởi sự cái mới thường gắn liền với rủi ro
cao và vì vậy, thường đòi hỏi mức lãi suất cao hơn. Ngân hàng cũng chỉ cho DN
mới vay trong một chừng mực có những tài sản cụ thể đảm bảo. Nhưng trong
nền kinh tế mới hiện nay, các doanh nghiệp khởi sự tài sản của họ thậm chí chỉ
là ý tưởng và ý tưởng. Như vậy, một người có một ý tưởng mới hay công nghệ
mới thường không có một đònh chế tài chính nào khác ngoài quỹ ĐTMH để
hướng tới.
- Ngay cả khi với sự chuẩn bò chu đáo nhất, người ta cũng nhận đònh rằng nhà
đầu tư mạo hiểm chuẩn bò cho sự thua lỗ. Có một quy tắc chung, đó là: cứ mỗi
10 dự án đầu tư sẽ có: 1 mất tất cả, 1 thu lợi khổng lồ và 8 còn lại không có ấn
tượng mạnh – hoặc lỗ hoặc thu lợi chút ít. Khẩu hiệu của đầu tư mạo hiểm là
“nếu sai lầm, bạn mất 500 ngàn USD nhưng nếu thành công, bạn được những 20
triệu USD ”
- Để hạn chế rủi ro, nhà đầu tư mạo hiểm hiếm khi cung ứng đủ 1 lần số vốn các
công ty cần mà chia làm nhiều lần vối số lượng không đều nhau. Mỗi lần cấp
vốn, số lượng chỉ đủ để công ty được đầu tư bước sang giai đoạn tăng trưởng kế



- 15 -

tiếp. Quỹ ĐTMH không chú ý đến những phân ngành tăng trưởng thấp trên thò
trường.
- Các nhà đầu tư vào nguồn vốn mạo hiểm thường là những đònh chế rất lớn như
công ty tài chính, công ty bảo hiểm…
Các quỹ ĐTMH thích có 2,3 nhóm liên quan trong hầu hết các giai đoạn cấp
vốn. Những mối quan hệ như thế mang đến sự đa dạng hóa danh mục đầu tư.
- Bên cạnh việc cung cấp vốn, các quỹ đầu tư mạo hiểm còn phối hợp chặt chẽ
với công ty nhận vốn trong việc điều hành, quản lý nhằm phát triển tài sản công
ty. Để cột chặt người sáng lập với công ty trong trường hợp họ đủ năng lực, với
sự nghiệp, nhà đầu tư mạo hiểm sẽ xây dựng một hệ thống thu nhập gắn với
thành tích. Điều đó có nghóa là trong giai đoạn đầu người sáng lập phải chấp
nhận không có thù lao hoặc một khoản lương ít ỏi. Điều này có tác dụng kích
thích cả 2 phía: doanh nhân khởi nghiệp và nhà đầu tư bởi quyền lợi của họ đã
gắn chặt với nhau. Không giống như ngân hàng hay một loại hình đầu tư nào
khác, nhà đầu tư mạo hiểm còn trực tiếp tham gia “xây dựng” công ty.
- Quỹ ĐTMH thường kỳ vọng một suất sinh lợi cao.
Như vậy, khi tiếp cận được vốn mạo hiểm có nghóa là công ty đã phải chấp nhận
một sự tài trợ với chi phí khá cao. Nhưng tại sao các nhà quản lý lại quyết đònh
sự chọn lựa này? Hẳn nhiên là họ có cái lý của họ.
1.1.2.7.Những ưu thế của vốn mạo hiểm so với các nguồn vốn khác
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu vốn. Trong khi sự tài trợ của bạn bè
và người thân có hạn thì doanh nghiệp phải tìm tài trợ từ các nguồn khác. Ở đây
xin phân tích dựa trên đònh nghóa hẹp của vốn mạo hiểm: vốn mạo hiểm là một


- 16 -


giải pháp hữu hiệu trong việc cung ứng vốn và đầu tư cho khu vực kinh tế tư
nhân vốn dó thiếu vốn và khao khát được đầu tư.
- Tiếp cận nguồn vốn tín dụng dưới bất kỳ hình thức nào là điều khó khăn. Yêu
cầu về tài sản đảm bảo cũng như các quy đònh trong thẩm đònh khác đã không
thể tạo cơ hội cho các công ty, đặc biệt khi người sáng lập công ty chỉ mới có ý
tưởng là “tài sản” chính yếu. Các phương pháp đánh giá và mục tiêu đánh giá
đầu tư với các công ty tư nhân của các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm trong
trường hợp này phù hợp hơn các phương pháp và mục tiêu của ngân hàng. Có 4
điểm chính tạo nên khoảng cách giữa ngân hàng với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ: tài sản thế chấp; ấn tượng không tốt do nhận đònh: quy mô nhỏ gắn liền với
rủi ro; Lãi suất thực tiền vay ngân hàng là khá cao; Chi phí cho các khoản vay
ngân hàng sẽ càng tăng do quá trình thẩm đònh. Từ đó đẫn đến kết quả là: các
ngân hàng dường như tỏ thái độ đối với DNVVN rằng: nên để họ tìm kiếm
nguồn vốn thay thế từ các quỹ mạo hiểm.
Mặc dù điều này không có hàm ý rằng bất kỳ công ty tư nhân cần vốn nào đều
có thể tiếp cận vốn mạo hiểm. Chỉ với ý tưởng, rõ ràng anh ta không thể đến
ngân hàng nhưng rất có thể lại đạt được sự quan tâm thích đáng từ các nhà đầu
tư mạo hiểm.
- Một khi thiếu vốn, nhu cầu này được giải quyết bằng 2 cách: tài trợ nợ hoặc
vốn chủ sở hữu. Khi xét ở góc độ tài chính, cấu trúc vốn của công ty loại này
thường có xu hướng không tài trợ bằng nợ bởi lẽ rủi ro kinh doanh được xác đònh
là khá cao nên đã không cho phép công ty gia tăng thêm rủi ro tài chính nếu
muốn giữ mức độ rủi ro của công ty ở một mức độ hợp lý. Phát hành chứng
khoán: không thể thực hiện được.


- 17 -

- Công ty nhận vốn còn nhận được sự tư vấn ở cấp chiến lược hướng dẫn họ

bước sang giai đoạn tăng trưởng kế tiếp. Với vò trí trong hội đồng quản trò, bằng
kinh nghiệp và năng lực của mình, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm có thể
tác động tốt tới sự phát triển của công ty. Đây là một lợi thế rất lớn bởi lẽ những
công ty này vốn còn rất “trẻ” trong công tác quản lý điều hành. Thậm chí ngay
cả người sáng lập công ty vẫn bò truất phế khỏi vò trí quản lý vì họ không có
hoặc xét thấy không đủ năng lực để thực hiện công việc quản lý điều hành.
- Hình thức đầu tư mạo hiểm là nắm giữ cổ phần, tham gia chia sẻ thành công
nếu công ty phát đạt, song cũng gánh chòu rủi ro nếu thất bại. Chính điều này
đảm bảo rằng những khuyến khích đối với các nhà đầu tư và các doanh nhân
khởi nghiệp là thống nhất với nhau. Đây là một đặc trưng của hoạt động đầu tư ở
Mỹ- một quốc gia thành công trong lónh vực này mà xét thấy cũng cần phải học
tập.
1.1.3. Quỹ đầu tư mạo hiểm
1.1.3.1. Quỹ đầu tư
a- Khái niệm: Quỹ đầu tư là một loại hình đònh chế tài chính trung gian tập trung
những nguồn vốn nhỏ, đơn lẻ của nhiều đối tượng để đầu tư trung và dài hạn,
đặc biệt là các dự án có nhu cầu vốn lớn trong nền kinh tế quốc dân hoặc đầu tư
vào thò trường chứng khoán.
b- Loại hình sở hữu: quỹ đầu tư là một dạng doanh nghiệp thuộc loại hình công
ty cổ phần. Nguồn vốn được huy động bằng cách phát hành chứng khoán: cổ
phiếu hoặc chứng chỉ quỹ.
c- Đặc trưng quỹ đầu tư:


- 18 -

- Việc đầu tư vào quỹ giống như là mua một dòch vụ quản lý. Nhà đầu tư góp
vốn vào quỹ, sẽ có người quản lý sử dụng ra các quyết đònh đầu tư. Tùy vào kết
quả mà nhà đầu tư cùng chia phần lợi nhuận hoặc chia sẻ rủi ro.
- Quỹ đầu tư hứa hẹn những khoản thu nhập không được đảm bảo cho nhà đầu tư

như khi họ bỏ tiền vào đònh chế ký thác tiền tiết kiệm. Các khoản thu nhập tùy
thuộc vào năng lực điều hành, các quyết đònh của nhà quản lý và các điều kiện
thò trường.
- Quỹ đầu tư là doanh nghiệp đặc biệt: nguồn vốn được sử dụng vào mục đích
đầu tư trung dài hạn thông qua góp vốn liên doanh, mua cổ phần, tài trợ nợ…
d- Các hoạt động nghiệp vụ của quỹ đầu tư: hoạt động kinh doanh của quỹ đầu tư
là kinh doanh đầu tư vốn bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quỹ đầu tư tham gia trực tiếp vào các dự
án sản xuất kinh doanh trong nước lẫn nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà các quỹ dùng vốn của mình tham gia vào
TTCK với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán.
e- Ưu điểm của quỹ đầu tư: đầu tư bằng cách góp vốn vào quỹ sẽ có lợi thế là có
thể đa dạng hoá rủi ro. Với quy mô của quỹ, các nhà điều hành sẽ quyết đònh
đầu tư vào những dự án với số tiền đầu tư thích hợp.
Cùng với sự chuyên môn của chuyên gia quản lý quỹ, nhà đầu tư có thể yên tâm
trong việc sử dụng số vốn của họ. Đồng thời, hầu hết các quỹ không sử dụng đòn
cân nợ, do đó nhà đầu tư đã có thể tránh được rủi ro tài chính.
f- Phân loại quỹ đầu tư căn cứ vào hình thức phát hành cổ phiếu: quỹ đầu tư được
chia làm 2 loại: quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở.


- 19 -

Quỹ đầu tư dạng đóng: Là loại quỹ đầu tư chỉ tạo vốn qua 1 lần duy nhất bán

chứng chỉ quỹ cho công chúng và không mua lại chứng chỉ quỹ đã phát hành.
Quy mô vốn của quỹ chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được qua các
hoạt động đầu tư. Để tạo tính thanh khoản, sau khi đóng quỹ, chứng chỉ quỹ được
niêm yết trên TTCK.
Quỹ đầu tư dạng mở: Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ Hỗ tương. Khác

với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng này luôn phát hành thêm chứng chỉ
quỹ mới để tăng vốn và cũng sẵn lòng mua lại số chứng chỉ đã phát hành theo
giá trò thuần tại thời điểm giao dòch. Do đó quy mô quỹ biến động từng ngày.
Đây là loại quỹ đầu tư có tính thanh khoản cao. Nhà đầu tư giao dòch trực tiếp
với quỹ và chứng khoán quỹ không được niêm yết trên TTCK.
1.1.3.2. Quỹ đầu tư mạo hiểm
Quỹ đầu tư mạo hiểm về bản chất đó là một quỹ đầu tư. Đây là một loại quỹ đầu
tư trong đó việc kinh doanh vốn của quỹ nhằm vào những dự án có mức độ rủi ro
cao để đạt tỉ lệ sinh lợi cao hơn mức thông thường. Thuật ngữ mạo hiểm đồng
nghóa với việc chấp nhận rủi ro.
1.1.3.3. Cơ cấu tổ chức quỹ đầu tư mạo hiểm
Cơ cấu tổ chức quỹ vốn mạo hiểm được thiết lập dựa trên nền tảng là chiếc cầu
nối giữa người cung cấp vốn (nhà đầu tư mạo hiểm) với người quản lý đầu tư
vốn mạo hiểm (các nhà tư bản mạo hiểm).
a- Mô hình 1: Cấu trúc hợp danh hữu hạn. Theo cấu trúc này, chức năng, quyền
hạn của từng đối tượng thể hiện như sau:
- Cty quản lý quỹ (QLQ) chuyên nghiệp đóng vai trò là thành viên hợp danh
thường trực.


- 20 -

+ Chức năng: tổ chức, quản lý, điều hành, sử dụng vốn của quỹ theo đúng
chính sách đầu tư của quỹ và thanh lý số vốn huy động được từ các nhà đầu tư.
+ Phương thức hoạt động:
Nhân sự của công ty thường là tập hợp các chuyên viên thuộc các lónh vực quản
trò, tài chính, chứng khoán.
Khoản thù lao cho công tác quản lý quỹ thường được tính theo tỉ lệ phần trăm
(%) trên giá trò Quỹ (thường chiếm từ 1 đến 2%) và một tỷ lệ nhất đònh trên tổng
số tiền thu được sau khi thoát vốn để đổi lại những dòch vụ mà họ cung cấp.

Hãng vốn mạo hiểm đứng ra lập quỹ và huy động vốn sau đó tiến hành đầu tư.
Khi số vốn của quỹ đã đầu tư hết hoặc sau khi thoát vốn- quỹ đã giải tán, hãng
có thể huy động một quỹ mới khác và quá trình cứ thế lặp lại. Do vậy đầu tư vốn
mạo hiểm mang tính chu kỳ.
- Các nhà đầu tư gọi là thành viên hợp danh hữu hạn. Họ góp vốn vào hợp danh
này và được chia lãi và cùng chòu rủi ro nhưng không có vai trò gì trong các
quyết đònh đầu tư.
Mô hình này có một số lợi điểm sau: tạo ra cơ chế phân chia trách nhiệm và
quyền lợi một cách hợp lý và hiệu quả. Với khoản thù lao tính tỉ lệ trên tổng số
tiền thu được sau khi thoát vốn tạo ra sự kích thích mạnh mẽ trong việc tạo ra
những khoản lợi nhuận cao. Hơn nữa, tùy thuộc vào hiệu quả hoạt động trong
điều hành các quỹ đi trước mà quyết đònh khả năng huy động các quỹ tiếp sau
đó đã khiến dòng vốn đổ vào các hợp danh hữu hạn mang tính cạnh tranh cao.
Đó là yếu tố đòi hỏi nhà quản lý quỹ phải không ngừng chú trọng chất lượng và
nâng cao hiệu quả đầu tư. Như vậy các công ty nhận đầu tư, ngoài vốn họ còn
nhận được sự hỗ trợ lớn về phương thức điều hành và cả uy tín đối với bên thứ


- 21 -

ba. Đồng thời, chính sự tách biệt chức năng giữa 2 đối tượng hữu quan như trên
tạo ra một loại nhà đầu tư chuyên nghiệp. Do vậy, đây là cấu trúc được đánh giá
là hiệu quả nhất.
b- Mô hình 2: Quỹ dạng tín thác (Quỹ hợp đồng).
Theo mô hình này, quỹ không có tư cách pháp nhân mà chỉ là một sự sắp đặt
được pháp luật thừa nhận. Có khả năng quỹ là công ty con của 1 tổ chức tài
chính hoặc phi tài chính. Trong trường hợp này quỹ được quản lý bởi 1 công ty
QLQ thuê ngoài và trong cơ cấu tổ chức có hiện diện của 1 tổ chức giám sát. Tổ
chức giám sát có vai trò bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư thông qua việc giám sát
hoạt động của công ty QLQ đảm bảo tuân thủ pháp luật và điều lệ quỹ.

Với mô hình này, quyết đònh đầu tư thuộc về Hội đồng quản trò của quỹ. Trong
khi đó việc quản lý, điều hành quỹ thuộc chức năng của công ty QLQ thuê
ngoài. Thù lao của họ là một khoản lương, thưởng nào đó, không gắn với thành
quả đầu tư, vì thế hạn chế tính khuyến khích trong việc nâng cao hiệu quả đầu
tư. Và có một thực tế là suy cho cùng quỹ này vẫn thuộc về “công ty mẹ” là các
đònh chế tài chính hay phi tài chính nào đó, ngân hàng chẳng hạn, thì việc vận
hành của quỹ cũng vì lợi ích của công ty mẹ và hoàn toàn bò chi phối bởi quan
điểm cũng như phương thức quản trò. Sự mạo hiểm sẽ bò hạn chế so với chức
năng hoạt động của quỹ. Đó cũng là một trở lực ngăn cản đầu tư. Sau khi quỹ
giải tán, nhân sự của quỹ sẽ trở về với vò trí của mình ở “công ty mẹ” và như
vậy mô hình này đã không tạo ra đội ngũ những nhà đầu tư mạo hiểm chuyên
nghiệp. Như vậy, ở một vài khía cạnh nào đó, so với mô hình 1 – cấu trúc hợp
danh hữu hạn thì mô hình này bộc lộ nhiều điểm bất lợi.
c- Mô hình 3: Quỹ dạng công ty


- 22 -

Khác với mô hình quỹ dạng tín thác, quỹ dạng công ty là một pháp nhân độc lập.
Về bản chất, quỹ hoạt động như mộ công ty tài chính cổ phần, trong đó người
góp vốn vào quỹ có tư cách là các cổ đông.
Với mô hình này, việc ra quyết đònh và vai trò giám sát được thực thi bởi Hội
đồng quản trò quỹ. Tuy không có “người thứ ba” đóng vai trò là tổ chức giám sát
nhưng vẫn có thể có một tổ chức bảo quản tài sản.
1.2. THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
Như đã phân tích, loại hình quỹ đầu tư là một đònh chế tài chính trung gian có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của thò trường tài chính nói chung và thò
trường chứng khoán nói riêng. Nó thể hiện là một kênh dẫn vốn đặc biệt và là
một loại hình đầu tư hấp dẫn và mới mẻ trong nền kinh tế. Xét điều kiện thò
trường Việt Nam, nhu cầu về những quỹ đầu tư đã ngày càng thể hiện rõ nét.

Nhu cầu đã phát sinh cùng với sự tăng nhanh về số lượng của các công ty tư
nhân. Trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa của Việt Nam
hiện nay, có rất nhiều công trình, dự án được triển khai đòi hỏi một lượng vốn
lớn. Bài toán này thực sự khó khăn trong việc tìm ra đáp án. Vấn đề mà các
doanh nghiệp cần vốn phải đối mặt là: những quy đònh chặt chẽ của ngân hàng
khó có thể đáp ứng tốt; thiếu những công ty tư vấn đủ trình độ, năng lực và uy
tín để có thể thẩm đònh thỏa đáng đối với các dự án mà đặc biệt là những dự án
xuất phát từ những ý tưởng, phát minh mới; nước ta cũng chưa tồn tại ngân hàng
đầu tư đúng nghóa- tức là tách khỏi chức năng của ngân hàng thương mại. Với
cách thức hoạt động và cách tổ chức của quỹ đầu tư mạo hiểm, có nhiều điều
kiện phù hợp cho việc cấp vốn cho các dự án mới có nhiều tiềm năng. Có cầu ắt
phải có cung. Với tốc độ tăng trưởng khả quan và khá ổn đònh trong những năm
vừa qua thì có thể nhận đònh rằng Việt Nam là một thò trường tiềm năng cho


- 23 -

hoạt động đầu tư mạo hiểm. Chính đồng vốn này đã là nền tảng cho sự hình
thành và phát triển công nghệ cao ở Thung Lũng Sillicon (Mỹ), sự đi lên của
ngành công nghiệp điện tử Đài Loan và nguồn vốn này hiện đang chảy rất mạnh
vào n Độ tạo nên bước nhảy vọt cho ngành công nghệ phần mềm nước này.
Ngày càng có nhiều sự quan tâm hơn đối với loại hình đầu tư mạo hiểm của các
cơ quan chức năng và các hiệp hội nghề nghiệp. Một số diễn đàn, hội thảo được
tổ chức để nhìn nhận, bàn luận, nghiên cứu một cách nghiêm túc về hoạt động
của quỹ đầu tư và khả năng tiến tới thành lập các quỹ loại này. Hiện nay, ở Việt
Nam, các nguồn huy động vốn chủ yếu là ngân hàng và công ty bảo hiểm.
Nhưng một nền tài chính hoàn chỉnh - mục tiêu chúng ta đang hướng đến - cần
có thêm những kênh huy động vốn khác: một hệ thống các quỹ đầu tư đảm bảo
về số lượng và chủng loại.
Ngoài những yếu tố như đã phân tích, sự tham gia của các tổ chức, quỹ đầu tư

nước ngoài càng làm tăng tính thanh khoản và chuyên nghiệp cho thò trường
chứng khoán, thu hút nhà đầu tư quay trở lại sau một thời gian thò trường rơi vào
trạng thái buồn tẻ. Với quy mô vốn và tính chất chuyên nghiệp, các quỹ này
không bò ảnh hưởng bởi những biến động bất thường của thò trường. Tuy nhiên,
mặc dù thò trường có tính chất chuyên nghiệp hơn nhưng chủ yếu hoạt động trên
cở sở những tổ chức này, còn lại những nhà đầu tư trong nước vẫn chưa có nhiều
những tổ chức để họ có thể góp vốn theo hướng chuyên nghiệp. Hiện tại chỉ mới
có 1 quỹ VietFund được thành lập gần đây là quỹ đầu tư nội đòa đầu tiên dành
cho người Việt Nam.
Như vậy, có thể nói rằng, đầu tư mạo hiểm là loại hình còn rất mới đối với Việt
Nam nhưng xét thấy cũng đã đến lúc nền tài chính nước ta cần có những đònh
chế mới bổ sung như những phân tích nêu trên. “Việt Nam đang từng bước tìm


- 24 -

hiểu hình thức đầu tư này. Chúng ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa nên
rất cần những hình thức đầu tư vốn như thế này từ phía các công ty nước ngoài.
Nhìn khía cạnh này thì Việt Nam vẫn là mảnh đất chưa khai phá đối với các nhà
đầu tư”, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã nhận đònh.
Khái quát đôi nét về hoạt động đầu tư mạo hiểm tại thò trường Việt Nam:
- Hình thức cấp vốn: qua khảo sát 4 hình thức cấp vốn mạo hiểm như trên, xuất
phát thực tiễn, thò trøng vốn mạo hiểm Việt Nam tôn tại hình thức thứ 2: cấp
vốn đầu tư mạo hiểm từ các quỹ đầu tư.
- Cơ cấu tổ chức quỹ đầu tư mạo hiểm: phần lớn các quỹ ĐTMH tại Việt Nam là
các quỹ tín thác.
- Hoạt động nghiệp vụ: các quỹ thực hiện cả hai loại đầu tư trực tiếp và gián
tiếp. Do vậy hoạt động đầu tư mạo hiểm thể hiện rõ nét và tập trung thuộc hoạt
động của các quỹ này.
- Các loại quỹ VMH (phân loại theo hình thức huy động vốn): tồn tại cả 2 loại:

quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở. Trong đó chiếm đa số là quỹ dạng đóng, duy
nhất chỉ có 1 quỹ thuộc dạng mở.


×