Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Trình bày giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo tại trường mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.92 KB, 27 trang )

1

MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài:
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn hiến
Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới. Kể từ khi nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây
dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà thực sự giữ một vai trò quan trọng, gánh
vác những sứ mệnh quang vinh của dân tộc.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
đã được hình thành và từng bước phát triển. Trình độ dân trí được nâng lên một
bước làm cơ sở cho kinh tế- xã hội phát triển, tạo động lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước.
Với xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng lên, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ và phát triển với tốc độ cao. " khoa học đã trở thành một lực lượng sản
xuất trực tiếp như Mác dự đoán, còn công nghệ đổi mới hết sức nhanh chóng.
Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố quyết
định sức mạnh và thế của mỗi Quốc gia trên thế giới" (Văn kiện hội nghị lần thứ
2 Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
nội;1997, tr 5).
Việc quan hệ ngày càng được mở rộng đã làm cho mỗi quốc gia hiểu sâu
sắc thêm những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ
thể của mọi nguồn sáng tạo, mọi của cải vật chất văn hoá và văn minh của mỗi
quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Để có cơ hội hội nhập được với nền kinh tế
mang tính chất khu vực hoá, toàn cầu hoá, nhiều quốc gia trên thế giới và trong
khu vực đã nhận thức và có chủ trương trong phát triển giáo dục.
Trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước, chúng ta đã đặt con


người vào vị trí trung tâm, phát huy nhân tố con người. Mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển do con người và vì con người. Phát huy nhân tố con
người, động lực trực tiếp của sự phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng và văn minh. Đây là một trong những quan điểm cơ bản của
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của chiến
lược ổn định và phát triển KT - XH đến năm 2020. Nguồn lực đó là đào tạo con
người phát triển trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, phẩm chất tốt đẹp, cường tráng
về thể chất, phong phú về tinh thần, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi
một nền giáo dục tiên tiến là mục tiêu hướng tới của toàn Đảng, toàn dân ta.


2

Thực hiện quan điểm ấy là trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhưng
trước hết phải là ngành giáo dục. Giáo dục là cách thức, là con đường cơ bản và
ngắn nhất, bền vững nhất để hình thành và hoàn thiện con người mới XHCN con người phát triển về trí tuệ, thể lực, đạo đức, lẽ sống, tình cảm.
Tuy nhiên, trước những thách thức của sự phát triển kinh tế, KH - CN
trong khu vực và trên thế giới, trước những đòi hỏi của sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước nền giáo dục cần được phát triển theo tốc độ nhanh, chất lượng tốt hơn.
Song những thay đổi trong giáo dục - đào tạo vẫn còn chậm, còn nhiều bất cập
so với yêu cầu của phát triển kinh tế và khoảng cách khá xa so với các nước
trong khu vực. Bên cạnh đó cơ chế thị trưường cũng ảnh hưởng đến chất lượng
CS-GD trẻ cả về mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Những biểu hiện tiêu cực, thiếu
kỷ cương trong giáo dục, xuống cấp về đạo đức và văn hoá, chất lượng và hiệu
quả GD - ĐT còn thấp chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội ngày càng
cao về nguồn nhân lực có tri thức. Mặt khác, đời sống của đội ngũ cán bộ giáo
viên, lực lượng trực tiếp quyết định chất lượng GD - ĐT còn nhiều khó khăn.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển GD - ĐT của cả nước, GD ĐT ở tỉnh Quảng Nam nói chung và xã nói riêng đã từng bước phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Mạng lưới trưường lớp được hình thành, có đủ các loại
hình trường lớp, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác CS-GD trẻ được cải thiện.

Tuy nhiên điều kiện phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của trẻ còn nhiều
khó khăn, cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng bộ, một bộ phận giáo viên trẻ
thiếu kinh nghiệm. Đó là thực tế khách quan cần phải giải quyết nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển GD - ĐT, góp phần phát triển KT - XH
ở địa phương.
Với kiến thức được học tập tại lớp Trung cấp lý luận chính, cùng thực tế
công tác ở cơ quan quản lí giáo dục địa phương tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Một
số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại Trường Mẫu giáo ” để
nghiên cứu làm tiểu luận cuối khóa học Lớp Trung cấp chính trị này. Nguyện
vọng của tôi cũng mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giải
quyết những vướng mắc, những khó khăn trong thực tiễn của đơn vị, để nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của trường.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nâng cao trình độ lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm phục vụ tốt hơn nhiệm
vụ chính trị của bản thân trong thời gian đến.

Đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học, từ đó làm sáng
tỏ những quan điểm, đường lối, chủ trương cũng như quá trình tổ chức thực
hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Trường Mẫu giáo
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


3

Xuất phát từ cơ sở khoa học, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác- lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta cùng lí luận về giáo dục dạy
học để phân tích thực trạng công tác giáo dục bậc Mầm non ở xã , huyện . Với
những thành tích đã đạt được cùng những khuyết điểm, tồn tại và nguyên nhân
của nó. Từ đó tìm ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục

trong thời gian tới của trường Mẫu giáo .
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Phân tích làm sáng tỏ thực trạng giáo dục - đào tạo ở trường Mẫu giáo ,
xã , huyện , tỉnh Quảng Nam từ năm 2011- 2016.
Bước đầu đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra một số nguyên nhân
cơ bản, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục
trong thời gian tới.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu thực trạng chất lượng GD Mầm non
của huyện - Tỉnh Quảng Nam.
Thời gian nghiên cứu đề tài trong 5 năm trở lại đây từ năm 2011 đến năm
2016
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.
Đề tài chú trọng phương pháp lịch sử và logíc, kết hợp lịch sử với lôgic,
những phương pháp phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê,…
Sử dụng phương pháp văn bản, dựa vào các văn kiện Đảng, các Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng, các báo cáo của nghành, của tỉnh và của
huyện, của các trường Mầm non trên địa bàn.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương chính:


4

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN:
1. Giáo dục: Khái niệm giáo dục có hai nghĩa, khi sử dụng khái niệm giáo
dục là một động từ thì giáo dục dùng để chỉ “hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực yêu cầu đề ra”.
Còn khi sử dụng là một danh từ thì giáo dục nhằm để chỉ “hệ thống các
biện pháp và cơ quan giảng dạy của một nước”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giáo dục là sự tác động đến
nhân cách con người bằng các tri thức khoa học làm cho nhân cách ấy biến đổi,
phát triển theo yêu cầu của xã hội.
2. Giáo dục mầm non: Là quá trình giáo dục có định hướng rõ ràng trong
thời thơ ấu của trẻ. Mục đích của giáo dục mầm non là nhằm nâng đỡ sự phát
triển về thể chất, tinh thần và thói quen học tập của trẻ. Môi trường đầu tiên
trong cuộc đời của một đứa trẻ là gia đình. Song song với gia đình, giáo dục
mầm non của nhà nước- gồm trung tâm chăm sóc trẻ và giáo dục dự bị tiểu họcchính là môi trường cho sự phát triển hàng ngày của trẻ.
3. Giáo dục đào tạo là lĩnh vực truyền bá, cung cấp kiến thức khoa học, kỹ
thuật nhằm phát triển trí tuệ, nâng cao hiểu biết, hình thành nhân cách lối sống
và kỹ năng lao động thông qua đó con người có thể vận dụng trí tuệ, kỹ năng
hiểu biết vào thực tiễn.
4. Chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục là khả năng và trình độ thực
hiện mục tiêu giáo dục đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người học và của
sự phát triển toàn diện xã hội.
Chất lượng giáo dục tiểu học là sự đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo
dục tiểu học giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo,
hình thành nhân cách con người.
5 Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo
dục, nhằm phát huy truyền thống hiếu học và tiềm năng con người trong quá
trình xây dựng nền giáo dục hiện đại dưới sự quản lý của nhà nước để phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức hưởng thụ

giáo dục của nhân dân.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG TA VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Trong lịch sử nhân loại, bất cứ quốc gia nào, thời đại nào cũng phải xây
dựng một hệ thống giáo dục với mục tiêu đào tạo ra những con người phù hợp


5

với chế độ xã hội ấy. Môi trưường chủ yếu, tốt nhất để truyền thụ kiến thức, giáo
dục nhân cách chính là nhà trường.
Một trong những tư tưởng của Mác Ăng ghen đã nêu trong tuyên ngôn của
Đảng cộng sản là phát triển con người toàn diện. Đồng thời còn nhấn mạnh làm
sao con người được phát triển tự do, mỗi cá nhân, người lao động có tính độc lập
và cá tính, làm cho mỗi người thành một đơn vị chủ thể của đội ngũ nhân lực, là
nguồn vốn tạo ra sản phẩm, chất lượng, hiệu quả, làm cho lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đạt trình độ phát triển mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: ý thức là một phạm trù triết học, một hiện
tượng tâm lý phức tạp bao gồm tri thức, tình cảm, cảm giác, tri giác, nghị lực,
lòng tin... trong đó quan trọng nhất là trí thức, đó là toàn bộ hiểu biết của con
người về thế giới càng cao hơn, đầy đủ hơn. Nếu ý thức không dựa trên trí thức,
tức là không xây dựng trên cơ sở hiểu biết thì cái ý thức ấy chỉ là đồng nghĩa với
lòng tin tôn giáo mà thôi.
Theo Mác: "Con người là tổng hoá các mối quan hệ xã hội". Con người là
sản phẩm của tất cả các mối quan hệ xã hội nói chung trong đó có nhà trường là
phương tiện, là môi trưường chủ yếu hình thành nhân cách và trang bị cho thế hệ
trẻ những tri thức, phát triển trí tuệ để con người thành năng lực của bản thân và
có năng lực phát triển sáng tạo ra những tri thức mới về tự nhiên - xã hội. giáo
dục với tư cách là một bộ phận của xã hội có nhiệm vụ đào tạo ra thế hệ tương

lai.
Nhưng làm sao để có tri thức? Lênin nói: "không có sách thì không có tri
thức, không có tri thức thì không có CNXH cà CNCS". Điều đó có nghĩa là:
Muốn có tri thức thì phải được học, được giáo dục, tri thức của nhân loại là vô
hạn. Vì vậy, Lênin đã dạy "Học, học nữa , học mãi".
Phê phán nền giáo dục của các chế độ xã hội từ phong kiến đến TBCN, nhận thức
vị trí vai trò quan trọng của giáo dục, các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra phương hướng,
nhiệm vụ của nền giáo dục mới là phải đào tạo ra những con người mới phát triển toàn
diện có trí tuệ, hoàn thiện nhân cách phục vụ chế độ xã hội mới.
Quá trình hình thành nhân cách ở mỗi người là quá trình lâu dài; khi trẻ
em mới sinh ra chỉ là một cơ thể sinh học có hàng loạt các thuộc tính tiềm năng,
quá trình giáo dục sẽ phát triển các thuộc tính tiềm năng ấy, biến đứa trẻ thành
người với thực thể trí tuệ có khả năng sáng tạo. Nếu không được giáo dục (từ
cha mẹ, gia đình, xã hội) thì đứa trẻ không thể nào thích ứng được với cuộc sống
hiện tại. Giáo dục với tư cách là quá trình văn hoá góp phần quan trọng hình
thành nhân cách ở mỗi con người nhằm thích ứng với cuộc sống lao động. Nghĩa
là quá trình giáo dục đó dạy cho họ cách ứng xử làm thế nào để đạt được mục
đích chủ yếu, cơ bản của cuộc sống, học để tồn tại và phát triển. Như vậy, sự
hình thành nhân cách chỉ có thể thông qua giáo dục.
2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh.


6

Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, Danh nhân văn
hoá thế giới trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, người đặc biệt
coi trọng vấn đề giáo dục - đào tạo. Ngay từ lúc Cách mạng Vịêt Nam còn trong
thời kỳ trứng nước, người đã tổ chức đưa con em nước ta ra nước ngoài để mở
lớp đào tạo, học tập lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng về đường lối Cách
mạng vô sản. Người đã trực tiếp giảng dạy và huấn luyện lớp học đầu tiên tại,

(Quảng Châu). Sau khi lớp học kết thúc hầu hết các học viên đều đã trở thành
chiến sĩ cách mạng. Trong đó, nhiều người trở thành lãnh tụ cùng người lãnh đạo
cách mạng nước ta giành thắng lợi, khai sinh ra nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam á vào năm 1945.Sau ngày nước nhà độc lập trong khi khó khăn
chồng chất, người nhận định rằng: nhân dân ta đang phải đối mặt với nhiều trở
ngại lớn đó là; giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Người viết: "Chúng ta đã
giành được độc lập, một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc
này là nâng cao dân trí, để mọi người Việt Nam có thể tham gia vào công cuộc
xây dựng nước nhà". Người kêu gọi toàn dân chung lòng góp sức tiêu diệt giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đông thời, người xác định, "dốt nát chính là kẻ
địch"và "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó, ngay sau khi cách mạng
tháng 8 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Nha bình
dân học vụ, nhiệm vụ đặt ra là toàn dân học chữ quốc ngữ, sau hơn một năm
thực hiện chính sách diệt giặc dốt, nhân dân nước ta từ trên 90% dân số bị mù
chữ đã biết đọc, biết viết. Đây là một kỳ tích mà nhân dân ta đã đạt được trong
cuộc cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Trong ngày khai trường đầu tiên (2 / 9/ 1945) chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
thư cho các cháu học sinh cả nước. Trong thư gửi các cháu học sinh, người bày
tỏ tình cảm và gửi gắm niềm tin vào thế hệ trẻ tương lai: "Non sông Việt nam có
trở nên vẻ vang hay không? Dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường
quốc năm châu hay không? Chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu? (Hồ Chí Minh về Giáo Dục, Nhà Xuất Bản, Hà Nội 1962)".
Theo Hồ Chí Minh thì sự nghiệp trồng người là công việc lâu dài và khác
hẳn so với công việc khác. Nó đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ, không
được nóng vội. Chính vì thế, người đưa ra khẩu hiệu: Vì sự nghiệp mời năm
trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người. Và để xây dựng xã hội chủ nghĩa
người đã nói rằng: "Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã
hội chủ nghĩa".
Người đặt ra động cơ và mục tiêu GD - ĐT là: "Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và

nhân loại". (HCM về GD, NXB GD, tái bản năm 1990) và theo người "Học là
để sửa chữa t tưởng". "Học để tu dỡng đạo đức cách mạng", "Học để tin tưởng"
và "Học để hành". (HCM toàn tập, T4, NXB sự thật, H - 1995).
Những quan điểm , tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục là di
sản quí báu đóng góp vào kho tàng lí luận quản lí, chỉ đạo công tác giáo dục ở


7

nước ta. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, những giá trị lí luận, giá
trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành, định hướng giá
trị cho mỗi con người và cho cả dân tộc Việt Nam.
3. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về giáo dục- đào tạo và một số
chính sách phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay
“Giáo dục và đào tạo được xem là Quốc sách hàng đầu để phat huy nhân
tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển” đó là quan điểm của Đảng ta
trong Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là quan điểm hết sức
đúng đắn xuất phát từ lợi ích của nhân dân ta, phù hợp với chân lý phổ biến của
lịch sử thế giới. Từ đó đến nay nhiều Hội nghị chuyên đề của Đảng tiếp tục ban
hành các Nghị quyết về đổi mới, phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nhờ đó
mà sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước ta ngày càng phát triển không ngừng cả
quy mô lẫn chất lượng.
Các quan điểm chỉ đạo, đường lối chủ trương và nhiệm vụ phát triển giáo
dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định trong các văn
kiện của Đảng: Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII; Nghị quyết Hội nghị lần thứ
6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, X. Từ các văn kiện đó, phương hướng phát triển giáo dục và
đào tạo được Đảng ta chỉ đạo như sau:
+ Về mục tiêu giáo dục: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn

diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng và
tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực
hành, tác phong công nghiệp, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu và bảo vệ Tổ quốc.
+ Về quan điểm chỉ đạo: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo
dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo
dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Các nhiệm vụ trọng tâm là: Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục;
phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm bảo chất lượng
và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng; thực hiện công bằng xã
hội trong giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Giáo dục, Nghị quyết 40/2000/QH10
về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về
thực hiện phổ cập trung học cơ sở với mục tiêu là:
Đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước,
phù hợp với thực tế Việt Nam, tiếp cận trình độ các nước trong khu vực và thế
giới.


8

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then
chốt" và "Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011

- 2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất
là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược". Chiến lược phát triển giáo
dục 2011 - 2020 nhằm quán triệt và cụ thể hóa các chủ trương, định hướng đổi
mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của
đất nước.
Mục tiêu tổng quát: Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới
căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện,
gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành,
năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội
học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập.
Trên đây là những quan điểm cơ bản của Đảng ta về GD - ĐT nói chung
và sự nghiệp GD - ĐT trong quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Những
quan điểm đó là biểu hiện tập trung của việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng HCM vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Những
quan điểm nêu trên sẽ là cơ sở cho việc nhận thức hoạt động giáo dục ở từng địa
phương, phân tích mặt mạnh, mặt yếu và tồn tại. Từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các địa phương nói riêng và phát triển sự
nghiệp GD - ĐT của nước ta nói chung.
4 Một số quan điểm tiến bộ của thế giới
Trong bài diễn văn sau lễ nhận chức trước hai viện của quốc hội Mỹ sáng
ngày 25/02/2009, tổng thống Obama khẳng định “Trong nền kinh tế toàn cầu,
nơi thứ có giá trị nhất mà bạn có thể bán là tri thức của các bạn. Một nền giáo
dục tốt không chỉ là cơ hội mà là điều kiện tiên quyết”. Để vực dậy nền kinh tế
Mỹ đang rơi vào tình thế khủng khoảng nghiêm trọng, ông tuyên bố “Đầu tư
cho giáo dục là thuốc kê đơn cho sự suy giảm kinh tế bởi chúng ta biết các quốc
gia có nền giáo dục mạnh hơn chúng ta ngày nay sẽ có sức cạnh tranh mạnh

hơn ngày mai. Đó là lý do chính quyền mới muốn đảm bảo rằng, mọi trẻ em
phải được tiếp cận với giáo dục cạnh tranh và hoàn chỉnh, từ ngày chúng được
sinh ra cho tới ngày chúng bắt đầu làm việc”. (Theo: Nước Mỹ sẽ trỗi dậy mạnh
hơn bao giờ hết – VietnamNet).


9

Trong cuộc đấu tranh tự khẳng định để phát triển của các nước trên thế
giới, theo kinh nghiệm của UNESCO, giáo dục giữ vai trò to lớn, “Giáo dục có
thể đóng một vai trò năng động và xây xây dựng”.
Thật ra vai trò tác dụng của giáo dục đối với quá trình phát triển của xã hội
hiện đại đã được UNESCO xác định từ lâu, UNESCO đã từng khuyến nghị 21
điều như sau:
- Giáo dục thường xuyên phải là nét chủ đạo của mọi chính sách giáo dục trong
những năm tới tại các nước công nghiệp phát triển cũng như các nước đang phát
triển.
- Giáo dục thường xuyên cho mọi lứa tuổi, trong suốt cuộc đời, không chỉ bó hẹp
trong phạm vi nhà trường - có nghĩa là phải cải tổ toàn diện nền giáo dục. Giáo
dục phải trở thành phong trào quần chúng thực sự.
- Giáo dục phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau. Điều
quan trọng là không phải học theo cách nào mà là học cái gì và học được cái gì.
- Xáo bỏ các hàng rào giả tạo hoặc lỗi thời giữa các ngành giáo dục và các cấp bậc giáo dục chính thức và không chính thức.
- Giáo dục cho trẻ trước tuổi đến trường phải là một trong những mục tiêu lớn
của chiến lược giáo dục trong những năm 70.
- Vẫn còn hàng triệu trẻ em và thanh niên không được hưởng bất kỳ một nền
giáo dục nào. Giáo dục phổ thông cơ bản dưới những hình thức khác nhau tuỳ
theo khả năng và nhu cầu của mỗi nước, phải là mục tiêu hàng đầu của chính
sách giáo dục cho những năm 70.
- Phải xoá bỏ những phân biệt cứng nhắc giữa các ngành giáo dục (phổ thông,

khoa học, kỹ thuật và chuyên nghiệp…); Ngay từ cấp sơ học giáo dục đã mang
đặc tính kết hợp với lý thuyết, công nghệ, thực hành và thủ công.
- Giáo dục không chỉ nhằm mục đích đào tạo cho thanh niên những công việc cụ
thể mà còn trang bị cho họ thích ứng với nhiều loại nghề nghiệp khác nhau.
- Không chỉ riêng hệ thống nhà trường phải chịu trách nhiệm về việc đào tạo kỹ
thuật mà cả các xí nghiệp, các ngành kinh doanh và giáo dục ngoài nhà trường
cũng phải chịu chia sẻ trách nhiệm với các trường học.
- Giáo dục cao đẳng cần được mở rộng và đa dạng hoá để đáp ứng các đòi hỏi
của cá nhân và cộng đồng. Muốn vậy, trước hết phải có sự thay đổi trong các thái
độ (quan niệm) cổ truyền đối với các trường đại học.
- Được nhận vào các ngành giáo dục các nghề nghiệp khác nhau chỉ tuỳ thuộc ở
kiến thức, khả năng và năng lực của mỗi người.
- Phát triển nhanh chóng việc phát triển giáo dục người lớn cả trong lẫn ngoài
nhà trường phải là mục tiêu ưu tiên của các chiến lược trong 10 năm tới.
- Mọi hoạt động xoá nạn mù chữ đều phải hướng vào mục tiêu phát triển xã hội kinh tế của đất nước.
- Đạo đức của giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành thầy dạy và người kiến
tạo nên tiến bộ văn hoá của bản thân mình.


10

- Khi soạn thảo và lập kế hoạch cho hệ thống giáo dục cần tính đến các khả năng
do các kỹ thuật mới đem lại.
- Các chương trình đào tạo thầy giáo cần triệt để sử dụng các thiết bị giảng dạy
mới nhất.
- Mọi sự khác biệt, chênh lệch về ngôi thứ giữa thầy giáo các trường tiểu học,
các trường kỹ thuật, các trường trung học và giảng viên các trường đại học phải
được huỷ bỏ.
- Thầy giáo phải được đào tạo để trở thành nhà giáo dục nhiều hơn là chuyên gia
truyền thụ kiến thức.

- Bên cạnh những giáo viên chuyên nghiệp phải viện đến các trợ thủ có trình độ
chuyên môn ở các ngành nghề (công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ ...), phải viện
đến cả sự tham gia của học sinh, sinh viên - họ sẽ tự giáo dục trong khi dạy
người khác.
- Trái với thông lệ cổ truyền, việc giảng dạy phải thích nghi với người học chứ
không phải người học phải tuân theo những quy định đã đặt ra sẵn trước khi
giảng dạy.
- Người học và công chúng nói chung cần được có tiếng nói nhiều hơn trong việc
quyết định các vấn đề liên quan đến giáo dục.
(Khuyến nghị của UNESCO về chiến lược giáo dục-11/1972)
Các khuyến nghị trên được đề ra dựa trên sự xem xét thế giới ngày nay như
là một tổng thể, trong đó sự phát triển ở từng nước có trình độ cao - thấp khác
nhau rất nhiều nhưng có xu hướng chung là tiến gần đến một nền kinh tế thị
trường trên phạm vi toàn cầu, nhất là khi bước sang thế kỹ 21.
Trong bối cảnh trên, giáo dục theo quan điểm các chuyên gia hàng đầu của
UNESCO, thì ý kiến ngày càng phổ biến đều cho rằng “Giáo dục là một trong
những công cụ mạnh nhất mà chúng ta có trong tay để sáng tạo nên tương lai”
(Jacques DoLoss - 1995).
Vì vậy mà trong một công trình nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn về
những ưu tiên và chiến lược cho giáo dục, ngân hàng thế giới đã có kết luận:
“Đầu tư vào giáo dục sẽ tích luỹ vốn con người, là chìa khoá để thay thế sự tăng
trưởng kinh tế và tăng thu nhập. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục cơ bản (GDPT)
cũng góp phần làm giảm đói nghèo, nhờ tăng năng suất lao động của từng lớp
lao động nghèo, giảm sinh đẻ và tăng cường sức khoẻ, giúp mọi người cùng có
cơ hội tham gia đầy đủ và hoạt động xã hội và phát triển kinh tế” (Ngân hàng
thế giới -1997).
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy rằng, sự nghiệp giáodục
đào tạo có vị trí hết sức quan trọng và có vai trò hết sức to lớn trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi đất nước cũng như trên toàn thế giới. Một xã
hội được giáo dục tốt là xã hội “Dựa trên trí thức”, phát huy được mọi tiềm

năng của con người, những con người tư duy sáng tạo, năng động luôn luôn tự
điều chỉnh và phát triển.


11

III. VAI TRÒ, VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GD TRONG THỜI KỲ
CNH, HĐH.
1. Vai trò và vị trí của Giáo dục và Đào tạo
Giáo dục đào tạo nhằm phát triển toàn diện phẩm chất nhân cách con người ,
tạo cơ sở nền tảng cho con người tham gia vào cuộc sống xã hội và đời sống
thực tiễn.
Giáo dục phổ thông có vai trò to lớn- là điều kiện tiên quyết để phát triển
kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Giáo dục đào tạo là nhân tố quan trọng để phát triển nguồn lực con người,
tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có đạo đức, có tri thức và kỹ năng lao
động, mà tri thức liên quan mật thiết đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội,
nó phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quyết định sự phát
triển bền vững.
Theo nhà kinh tế học cổ điển Anh ông Adam Smith (1723-1790): Giáo dục
đào tạo là yếu tố chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Ông nói: các nước sở dĩ có thể
trở nên giàu có là nhờ có một nền giáo dục tốt, dân cư được học hành. Ông coi
nhân lực là nguồn lực chủ yếu của mỗi quốc gia. Do đó, giáo dục đào tạo là nhân
tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Đại hội IX của Đảng ta đã xác định: Giáo dục là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện phát
triển nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để tăng trưởng nhanh, bền vững.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới hiện nay, giáo dục đào tạo
ngày càng có vai trò to lớn, nó thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế
tri thức, là phương thức đặc biệt để giữ gìn, sáng tạo và phát triển văn hóa, giáo

dục đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thông qua ứng dụng và thúc đẩy tiến bộ
công nghệ, giáo dục và đào tạo được coi là chìa khóa của sự phát triển.
2. Chức năng của Giáo dục, đào tạo
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội nhưng điều đó không có nghĩa giáo dục
thụ động chịu sự tác động của xã hội mà giáo dục cũng có tác động tích cực trở
lại xã hội thông qua thực hiện những chức năng xã hội, đó là:
2.1.Chức năng kinh tế – sản xuất:
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra sức lao động ở một trình độ
mới, cao hơn, khéo léo hơn, hiệu quả hơn để thay thế sức lao động cũ bị mất đi.
Vì vậy, giáo dục tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, có tác dụng đẩy
mạnh sản xuất và phát triển kinh tế.
2.2.Chức năng chính trị – xã hội:
Chế độ chúng ta là: “ Tất cả của dân, do dân và vì dân”, do đó giáo dục tạo
điều kiện cho thế hệ trẻ và nhân dân nói chung nâng cao dân trí để tham gia quản


12

lý xã hội, đất nước với tư cách là chủ nhân của xã hội, của đất nước, ý thức rõ
ràng được quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân.
Giáo dục góp phần tích cực trong việc xoá đói, giảm nghèo, tạo điều kiện cho
các thành viên của xã hội tìm kiếm việc làm, để thay đổi nghề nghiệp cho phù
hợp, để dễ dàng thích ứng với môi trường lao động mới mẻ. Nhờ vậy giáo dục đã
góp phần giải quyết những vấn đề xã hội.
Ngoài ra giáo dục góp phần tạo điều kiện cho các giai cấp, các tầng lớp xã hội
nâng cao trình độ học vấn nên dễ dàng gần gũi nhau, thông cảm với nhau để tìm
ra được tiếng nói chung.
2.3.Chức năng tư tưởng- Văn hoá:
Giáo dục có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối
toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong toàn xã hội, trình độ văn hoá

cho toàn xã hội thông qua việc phổ cập giáo dục phổ thông ngày càng được nâng
cao dần. Qua đó mà tạo nguồn nhân lực đông đảo với chất lượng cao, đồng thời
có điều kiện phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Tóm lại, trong xu thế phát triển giáo dục hiện nay, giáo dục luôn luôn có
xu thế “mở”, không chỉ trong phạm vi quốc gia, dân tộc mà cả ở phạm vi quốc tế
nữa. “Giáo dục không đơn thuần là sự phản ánh các lực lượng kinh tế và xã hội
đang hoạt động trong một xã hội. Nó còn là một phương tiện quan trọng để đào
tạo nên các lực lượng kinh tế- xã hội và văn hoá, khoa học, kỹ thuật, quyết định
chiều hướng phát triển của các lực lượng này. Đến lượt mình, động lực của
chúng lại tác động trở lại đối với giáo dục”.
Như vậy có nghĩa là, giáo dục vừa có vai trò thúc đẩy sự phát triển và tiến
bộ xã hội, vừa chịu sự quy định của trình độ phát triển chung của nền kinh tế- xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cũng chính bởi việc thực hiện những chức năng của giáo dục ngày càng có
hiệu quả nên vị trí của giáo dục ngày càng được ý thức sâu sắc hơn, thống nhất
hơn.


13

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỦA
TRƯỜNG MẪU GIÁO , XÃ , HUYỆN , TỈNH QUẢNG NAM
1. Khái quát về tình hình trường Mẫu giáo , xã
là một xã đảo thuộc huyện , tỉnh Quảng Nam, nằm cách trung tâm huyện
lỵ khoảng 10 Km về hướng Đông. Có diện tích 15,69 km 2; Phía Bắc giáp xã
Tam Hòa; phía Nam giáp Cảng Kỳ Hà; phía Tây giáp xã Tam Giang; phía Đông
giáp Biển Đông. Toàn xã hiện có tổng số dân 8825 nhân khẩu với 2463 hộ, chia
làm 7 thôn với 49 tổ đoàn kết, địa bàn phức tạp với 5 thôn đất liển và 2 thôn
tách rời bởi bốn bề sông nước Trường Giang và cửa biển, điều kiện đi lại giao

lưu kinh tế - văn hóa trong xã cũng như với các xã bạn gặp nhiều khó khăn, cách
trở, hơn 80 % dân số sống bằng nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản, với 435
phương tiện lớn nhỏ, tổng công suất là 8763 CV, vận dụng nhiều hình thức đánh
bắt đầy kinh nghiệm, đa dạng và phong phú. Hằng năm, giá trị sản lượng ngư
nghiệp tăng bình quân 14,4% tính từ năm 2011 đến nay, luôn đạt và vượt mức
chỉ tiêu trên giao. Chính dòng sông và đại dương biển cả mà thiên nhiên ưu ái
ban tặng cũng chính là nguồn sinh lực dồi dào cho sự sống nơi đây, khí hậu hiền
hòa mát mẻ, cảnh đẹp nên thơ như toát lên sự chân chất của tấm lòng người dân
mến khách. Tôm, cua, cá, mực là những sản phẩm mà người dân khai thác từ
biển khơi có giá trị kinh tế cao đã tạo nên đời sống ổn định cho nhân dân xã nhà.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy , sự đoàn
kết nhất trí, nỗ lực vươn lên của cán bộ đảng viên và nhân dân, sự ảnh hưởng to
lớn của Khu kinh tế mở Chu Lai, xã có những bước chuyển mới rõ nét, vững
mạnh về kinh tế - ổn định về an ninh quốc phòng - đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân ngày càng phát triển đi lên. Tạo ra thế đứng là điểm hẹn du lịch
của các nhà đầu tư trong tương lai.
Trường Mẫu giáo đóng chân trên địa bàn xã . Giáo dục Mầm non tại xã
đã được hình thành và từng bước phát và lúc này cũng nhận được sự quan tâm
đặc biệt của ngành giáo dục và nhân dân xã . Xã có 1 trường THCS, 1 trường
Tiểu học và 1 trường Mẫu Giáo, đã đạt phổ cập giáo dục Mầm non trẻ 5 tuổi,
phổ cập giáo dục Tiểu học, phổ cập trung học cơ sở, tháng 5/2015 trường Mẫu
giáo đã được công nhận trường CQG mức độ. Trường được thành lập vào năm
1988. Sau khi được thành lập đến nay, hệ thống trường lớp Mẫu giáo tại được
củng cố và từng bước hoàn thiện, kiên cố hóa đảm bảo nhu cầu chăm sóc và
giáo dục cho con em nhân dân trên địa bàn xã
Có thể nói, đến giai đoạn này thì Giáo dục Mầm non tại xã nhà đã phát
triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ nhà giáo đã được tăng
cường để đáp ứng nhu cầu dạy học của trường. Mỗi năm, trường đã huy động
hơn 200 học sinh ra lớp. Chương trình Giáo dục từng bước được hoàn chỉnh,
chất lượng GD được nâng cao và toàn diện. Để có được sự phát triển của Trường



14

Mẫu giáo , đó là nhờ sự nỗ lực, sự cống hiến của đội ngũ nhà giáo và Cán Bộ
quản lý, người kỷ sư tâm hồn của mọi thời đại, người chiến sĩ trên mặt trận văn
hoá.
Tuy nhiên, trường đóng chân trên địa bàn xã là một xã nghèo, là vùng đặc
biệt khó khăn, giao thông cách trở, nguồn thu ngân sách còn hạn hẹp, các nguồn
đầu tư còn hạn chế nên chưa phát huy tiềm năng lợi thế của xã. So với xu thế
chung và mặt bằng của huyện , tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương còn thấp, mức tăng trưởng kinh tế chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm, đời sống nhân dân chưa ổn định, thiếu bền vững. Vì vậy, nguồn lực đầu tư
cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu, công tác xã hội hóa giáo
dục còn thấp.
2.Thực trạng Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2012-2017
2.1 Mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất
2.1.1 Số lượng học sinh:

Năm học

Số Lớp MG
TS
Bán Học ngày
lớp
trú
2 buổi
2012-2013
10
7

10
2013-2014
9
7
9
2014-2015
8
8
8
2015-2016
8
8
8
2016-2017
8
8
8
2.1.2 Tình hình cơ sở vật chất:

TS trẻ
262
234
208
209
220

Số trẻ MG
Bán trú Học ngày 2
buổi
206

262
211
234
208
208
209
209
208
220

Năm học 2012-2013 trường có 10 phòng học, trong đó có 5 phòng học
kiên cố và 5 phòng bán kiên cố. Năm 2014 xây dựng thêm 3 phòng học và 7
phòng làm việc tại điểm chính (thôn Tân Lập), trường cải tạo 2 phòng học thành
bếp ăn bán trú và nhà kho, phòng bảo vệ. Cơ sở chính ( thôn Tân Lập) có văn
phòng, phòng hiệu trưởng, phòng phó hiệu trưởng, phòng hành chính quản trị,
phòng y tế, phòng nhân viên, nhà bếp. Đến nay, trường còn 1 cơ sở nên cơ sở
vật chất đảm bảo, khang trang, sạch, đẹp, đủ diện tích theo Thông tư số
02/2014/TT-BGD&ĐT ngày 08/02/2014 của BGD&ĐT.
Nhà trường đã tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo huyện , Phòng
GD&ĐT huyện và tranh thủ sự hỗ trợ của phụ huynh hiện nay đã có đủ đồ dùng,
thiết bị đảm bảo điều kiện phục vụ chăm sóc, giáo dục trẻ cho các lớp, nhất là
lớp mẫu giáo 5 tuổi;
Sân trường có cây xanh, có đồ chơi ngoài trời theo quy định.
Có nhà để xe cho cán bộ giáo viên, nhân viên, có đầy đủ công trình vệ sinh
riêng cho CBGVNV.
2.2 Tình hình đội ngũ


15
Song song với sự phát triển về quy mô trường lớp, số lượng học sinh thì số lượng giáo

viên ngày càng được tăng cường và chất lượng đội ngũ ngày càng được nâng cao.
Năm học
TS
CB
GV
NV
Trình độ CM
BC HĐ
CBGV QL BC HĐ BC

ĐH CĐ
TC
NV

2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017

25
24
27
27
27

3
3
3
3

3

13
13
13
13
14

3
2
4
4
3

0
0
1
1
2

6
6
6
6
5

2
2
13
14

14

13
14
4
3
3

5
3
5
5
5

16
16
17
17
19

9
8
10
10
8

- Năm học 2012-2013, toàn trường có 25 cán bộ, giáo viên, nhân viên; trong
đó có 16 giáo viên, tỷ lệ 12,50% giáo viên/1 lớp. Trình độ chuyên môn: Đại học:
2; Cao đẳng: 13; Trung cấp: 5; Sơ cấp: 0. Đạt chuẩn là 100% ; trên chuẩn là
60%, chưa đạt chuẩn 0%.

- Đến nay(năm học 2016-2017), toàn trường có 27 cán bộ giáo viên, nhân
viên trong đó có 17 giáo viên, tỷ lệ giáo viên 11,76% giáo viên/1 lớp. Trình độ
chuyên môn: Đại học:14; Cao đẳng: 03; Trung cấp:05; Sơ cấp: 0. Đạt chuẩn:
100%; trên chuẩn là 62,96%, chưa đạt chuẩn là 0%.
- Tỷ lệ đảng viên trong nhà trường không ngừng phát triển, năm học 20122013 toàn trường có 08 đảng viên tỷ lệ 32%, đến nay có 16 đảng viên, tỷ lệ
59,23%.
2.3 Công tác phổ cập giáo dục Mầm non
- Tiếp tục triển khai thực hiện Thông tư 36/2009/TT-BGDĐT ngày 4/12/2009
ban hành quy định kiểm tra công nhận phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi.
- Kết hợp với các ban ngành đoàn thể trong và ngoài nhà trường đẩy mạnh
công tác tuyên truyền vận động, giáo dục sâu rộng trong nhân dân, thực hiện tốt
đề án “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”, huy động trẻ trong độ tuổi ra lớp đạt
100%, duy trì số lượng tốt; điều tra bổ sung trẻ hằng năm, thiết lập và hoàn chỉnh
các loại hồ sơ đúng quy định. Nhiều năm qua, trường đã được công nhận trường
đạt chuẩn PCGDMN trẻ 5 tuổi. Từ đó đến nay, công tác phổ cập giáo dục Tiểu
Mầm non trẻ 5 tuổi được củng cố và nâng cao.
2.4 Chất lượng giáo dục
Trường đã triển khai và thực hiện đúng phân phối chương trình, thời khóa
biểu, dạy đủ các hoạt động giáo dục, đảm bảo theo Chương trình giáo dục mầm
non của Bộ giáo dục. Chất lượng giáo dục của đơn vị có nhiều chuyển biến tốt.
- Cụ thể, chất lượng các hoạt động :
T. HÌNH
TT

1
2

Năm học

2012-2013

2013-2014

KPKH
(%)

LQVT
(%)

GDAN
(%)

90,26
92,70

90,48
91,65

92,75
92,82

(%)

T. DỤC
(%)

LQVH
(%)

LQCC
(%)


90,34
87,91

93,38
94,86

94,25
92,00

92,19
91,24


16

3
4
5

2014-2015
93,88 92,69
2015-2016
92,93 93,74
2016-2017
92,53 94,67
- Cụ thể, 5 lĩnh vực phát triển

TT


1
2
3
4
5

Năm học

Thể chất
(%)

90,96
93,50
93,84

Nhận thức
(%)

86,42
93,01
93,21
Ngôn ngữ
(%)

93,47
94,32
95,69

92,47
93,66

93,26

Thẩm mỹ
(%)

90,93
92,93
95,07

TC-KNXH
(%)

2012-2013
93,67
91,42
89,96
90,27
91,95
2013-2014
95,97
93,75
93,31
92,48
95,07
2014-2015
97,60
94,82
95,84
93,71
97,88

2015-2016
95,69
93,28
93,17
91,89
94,70
2016-2017
97,86
94,26
95,31
94,82
97,79
- Danh hiệu thi đua của trẻ:
Năm học
Học lực
BN Xuất sắc
BN Học giỏi
Bé ngoan chăm học
2012-2013
9 trẻ
52 trẻ
104 trẻ
2013-2014
9 trẻ
52 trẻ
104 trẻ
2014-2015
10 trẻ
55 trẻ
110 trẻ

2015-2016
11 trẻ
58 trẻ
117 trẻ
2016-2017
13 trẻ
65 trẻ
131trẻ
- Phong trào thi đua
+ Đối với trẻ:
Năm học 2012-2013 đạt giải ba cấp huyện(Thi bé khéo tay )
Năm học 2013-2014 đạt giải ba cấp huyện (Thi bé )
Năm học 2014-2015 đạt giải nhì cấp huyện(Thi Bé khỏe bé ngoan- Olympic )
Năm học 2015-2016 đạt giải KK cấp huyện (Thi bé với ca dao dân ca và trò
chơi dân gian )
Năm học 2016-2017 đạt giải nhì(Thi Bé kể chuyện hay)
+ Đối với giáo viên:
Năm học 2012-2013 đạt giải KK(Thi Tiếng hát dân ca )
Năm học 2013-2014 đạt giải ba cấp huyện (Thi cô nuôi giỏi )
Năm học 2014-2015 đạt giải ba cấp huyện(Thi tiếng hát dân ca )
Năm học 2015-2016 đạt giải ba cấp huyện (Thi làm đồ dùng dạy học)
Năm học 2016-2017 đạt giải ba cấp tỉnh(Thi tuyên truyền viên ngành MN )
2.5 Công tác quản lý giáo dục
Đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường ngày càng được quan tâm và từng
bước hoàn thiện theo các chuẩn của cán bộ quản lý, chú ý bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chính trị và năng lực quản lý. Ban giám hiệu gồm 3 đồng chí đều có
trình độ chuyên môn trên chuẩn (3đ/c Đại học sư phạm)
3đ/c đã qua lớp đào tạo Quản lý giáo dục Mầm non; 2 đ/c đã qua lớp Trung cấp
lý luận chính trị hành chính và 1 đ/c đang học lớp Trung cấp lý luận chính trị.



17

Triển khai kịp thời và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Công tác kiểm tra nội bộ trường học
được tăng cường và ngày càng đi vào chiều sâu, tuyệt đối giáo viên trường
không dạy trước Chương trình lớp 1 cho trẻ, không vi phạm những điều giáo
viên không được làm.
Công tác chỉ đạo, quản lý đã có những chuyển biến tốt, thực hiện tốt công
tác tham mưu, phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận, phát huy quy chế dân chủ
trong trường học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong nhà trường.
Quản lý tốt ngày giờ công của giáo viên, chuyên cần của học sinh. Đảm
bảo chất lượng dạy và học theo đúng chuẩn giáo dục Mầm non.
Có kế hoạch quản lý hành chính, tài chính, có đủ các loại sổ sách chất
lượng. Chỉ đạo kế toán, thủ quỹ quản lý tốt và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài chính
của nhà trường. Chỉ đạo các bộ phận: Chuyên môn, đoàn thể thực hiện tốt nhiệm
vụ từng năm học.
Ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong công tác quản lý.
Tập huấn và đưa vào sử dụng tốt phần mền quản lý học sinh, quản lý đội ngũ,
quản lý thư viện, tài chính. Sử dụng trang web của trường hoạt động có hiệu quả.
2.6 Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục là một trong những nhân tố quan trọng trong việc thu
hút các nguồn lực đóng góp, xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục. Trong
những năm qua, trường luôn coi trọng công tác này. Nhờ đó, nhà trường đã thu
hút, huy động nhiều nguồn lực đóng góp của các tổ chức chính trị-xã hội, phụ
huynh, những doanh nghiệp... làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành
động trong công tác xã hội hóa giáo dục.
- Trong những năm qua, chất lượng giáo dục trẻ ngày càng cao, đạt nhiều
thành tích ở huyện. Ngày càng nhiều các tổ chức chính trị- xã hội, cá nhân nhận
đỡ đầu cho học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn và học sinh khuyết

tật học hòa nhập. Hội khuyến học hoạt động mạnh, quỹ khuyến học ngày càng
lớn và sử dụng có hiệu quả. Nhiều công trình của trường được xây dựng cũng
nhờ sự đóng góp của phụ huynh như pê tông sân trường, làm nhà xe, vườn thiên
nhiên, khu chơi với cát và nước cho trẻ...
2. Đánh giá chung kết quả nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo
2.1.Những thành tựu và nguyên nhân
2.1.1Những thành tựu
Mạng lưới trường lớp và quy mô giáo dục bước đầu phát triển, các lớp
đều tập trung về một điểm chính nên thuận tiện cho công tác quản lý và giáo dục
trẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập. Qua từng năm học, cơ sở vật
chất được quan tâm, đầu tư, đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho hoạt động giáo dục,
đào tạo. Các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, đóng
góp của phụ huynh được kết hợp, nên việc kiên cố hóa trường học ngày càng
được đẩy mạnh.


18

Công bằng xã hội trong giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với học sinh
cơ sở lẻ, đối tượng chính sách và học sinh có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm
đúng mức. Bình đẳng giới trong giáo dục được bảo đảm.
Các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học được nhà trường đặc biệt quan
tâm. Chất lượng đội ngũ ngày càng được cải thiện, đáp ứng cho công tác giảng
dạy. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của xã nhà và ngành giáo dục của huyện.
Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực, nhà trường quản
lý chặt chẽ chất lượng giáo dục của trẻ, tổ chức nghiêm túc các lần kiểm tra định
kỳ; phát huy ý thức trách nhiệm của đội ngũ trong công tác giáo dục như kiểm
tra, đánh giá trẻ…
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng về số lượng, trình độ

đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng
cường và từng bước hiện đại hóa.
Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả, làm
chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động của toàn xã hội đối với sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, đã huy động được nhiều lực lượng tham gia vào quá trình
đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho nhà trường phục vụ công tác giảng dạy.
2.1.2 Nguyên nhân
Những thành tựu giáo dục, đào tạo đạt được của của nhà trường là nhờ sự
lãnh đạo thường xuyên, trực tiếp của Phòng Giáo dục , các cấp ủy Đảng và chính
quyền địa phương, sự quan tâm của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục.
Lãnh đạo nhà trường đã có nhiều cố gắng đổi mới trong công tác chỉ đạo,
quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, bước đầu đáp ứng những yêu cầu của sự
nghiệp phát triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về
chính trị cùng với những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đã
góp phần quyết định cho sự thành công của sự nghiệp giáo dục.
Phụ huynh và học sinh nhận thức tốt và có thái độ đúng đắn về học tập, công
tác phối hợp giáo dục tay ba giữa gia đình, nhà trường và xã hội được đẩy mạnh.
2.2.Những yếu kém và nguyên nhân
2.2.1 Những yếu kém
Chất lượng giáo dục còn thấp, chưa đồng đều giữa các khối lớp và các cơ sở;
kỹ năng sống và giao tiếp của trẻ chưa đạt yêu cầu;
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu đổi
mới phương pháp dạy học, nhất là ở các cơ sở lẻ.
Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, nhiều giáo viên trẻ ít kinh
nghiệm, giáo viên lớn tuổi thì hạn chế về phong thái. Đội ngũ giáo viên địa
phương quá mỏng, giáo viên địa phương khác đến dạy nhiều.



19

Cấp ủy, chính quyền địa phương chưa có những giải pháp tích cực để chăm lo
cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, thiếu quan tâm đầu tư hỗ trợ nguồn lực cho việc
xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường.
Xã hội hóa giáo dục chưa được thực hiện một cách thường xuyên, toàn diện.
Sự phối hợp giữa các ban ngành đoàn thể trong và ngoài nhà trường để nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo có lúc, có nơi chưa thật sự đồng bộ, hiệu quả thấp.
Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của nhà
trường chưa thật sự vững mạnh.
2.2.2 Nguyên nhân
Trường còn 1 cơ sở lẻ phải học lớp ghép lại cách song trở đò nên không thể
ghép vào 1 cụm bán trú được, trình độ dân trí chưa cao, chưa đồng đều, một số
phụ huynh quan tâm đến việc học của con em chưa đúng mức.
là xã đặc biệt khó khăn nên ngân sách, nguồn lực và khả năng đầu tư cho
giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời điều kiện xây dựng trường
chuẩn quốc gia.
Việc quy hoạch, tuyển dụng, bố trí cán bộ, giáo viên có nhiều điều bất cập.
Giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương còn lúng túng trong việc cụ thể
hóa quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” và xử lý các vấn đề của giáo
dục trong thực tiễn; chưa thể chế hóa kịp thời, phù hợp các chủ trương, chính
sách của Đảng về giáo dục. Chưa có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục
của địa phương. Nhận thức và công tác xã hội hóa giáo dục của địa phương còn
nhiều mặt hạn chế.
Mô hình “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”còn mới mẻ, chưa có kinh
nghiệm trong xây dựng. Nội dung quản lý của Ban giám hiệu, các tổ chức đôi
khi còn nặng hình thức, áp đặt, chạy theo chỉ tiêu, chưa đi vào thực chất.
2.3. Bài học kinh nghiệm

Chất lượng đội ngũ giáo dục rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng giáo dục, đào tào của nhà trường. Vì vậy cần tạo điều kiện thuận lợi để
giáo viên, cán bộ quản lý học tập, rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt.
Ban giám hiệu nhà trường cần làm tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh
đạo ngành giáo dục, với địa phương, tranh thủ sự quan tâm, đầu tư từ các nguồn
ngân sách nhà nước, các nguồn lực của địa phương để xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ hoạt động giáo dục.
Luôn đổi mới công tác quản lý, phương pháp giảng dạy, tạo môi trường học
tập thân thiện, xây dựng trường lớp có nề nếp nhằm nâng cao kỹ năng sống, kỹ
năng giao tiếp, làm cho học sinh yêu trường, yêu lớp, “Mỗi ngày đến trường là
một ngày vui”.
Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, định hướng về phát triển
giáo dục, đào tạo của nhà trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng


20

thu hút tất cả các lực lượng tham gia tích cực vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo
của nhà trường

CHƯƠNG 3
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Mục tiêu


21

Giáo dục mầm non là nền tảng đầu tiên nhằm giúp cho trẻ hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể

chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người
Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân, chuẩn bị tâm thế tốt hơn cho trẻ khi vào học ở các trường phổ thông.
Đến năm 2020, giáo dục Mầm non sẽ được đổi mới căn bản và toàn diện
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện đáp ứng nhu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức,
đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi
người dân, từng bước hình thành xã hội học tập.
2. Nhiệm vụ
Tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động: Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo
dục; Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo; Thi đua xây
dựng Trường học thân thiện học sinh tích cực...
Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến
thức kỹ năng; thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; tăng cường giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ; đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục trẻ; tiếp tục đổi
mới quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục.
Củng cố bền vững chất lượng GD-ĐT, phấn đấu năm 2017 đạt trường
chuẩn mức độ 2.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy học; nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh và giáo dục hòa nhập trẻ khuyết
tật.
Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế và phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
Triển khai thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục.
3. Một số giải pháp
3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên cả về số lượng

lẫn chất lượng.Thực hiện rà soát, đánh giá đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý để
có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo về số lượng, cân đối về cơ cấu; nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý; sắp xếp, phân công nhiệm vụ cho đội ngũ đúng năng lực và sở trường
để từng thành viên trong nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá. Trong
công tác dạy và học, Ban Giám hiệu tập trung chỉ đạo giáo viên phải mạnh dạn
đổi mới phương pháp dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh. Thường xuyên mở chuyên đề, dạy minh họa tạo môi trường để giáo viên


22

trao đổi kinh nghiệm giảng dạy. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá sẽ thúc đẩy
đổi mới phương pháp dạy học, góp phần đổi mới chương trình. Tổ chức kiểm tra
chất lượng trẻ đầu năm, kiểm tra định kỳ giữa kì và cuối kì; tổng hợp, đánh giá
đúng chất lượng trẻ, gửi kết quả chất lượng giáo dục của trẻ về gia đình nhằm
giúp phụ huynh nắm bắt rõ hơn tình hình học tập của con em mình. Đồng thời
tạo sự phối hợp tốt hơn giữa nhà trường, phụ huynh trong công tác chăm sóc và
giáo dục trẻ .
Động viên và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, giáo viên nhà trường tự
học, tự rèn, tự bồi dưỡng cho bản thân nhằm chuẩn hóa và nâng cao trình độ
ngoại ngữ, tin học để 100% cán bộ, giáo viên biết ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học và trong quản lý.
3.2. Đổi mới công tác quản lý giáo dục
Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ trường học, quan tâm đến các cơ sở
lẻ, phân công mỗi đồng chí trong ban giám hiệu đứng điểm 1 tổ để kịp thời chỉ
đạo tốt các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
Luôn thay đổi hình thức, nội dung, phương pháp kiểm tra như kiểm
thường xuyên, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất.... nhằm nâng cao nhận thức

của đội ngũ về hoạt động giáo dục, tạo cơ hội cho giáo viên tự học, tự rèn và tự
đánh giá bản thân theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non có hướng phấn
đấu tự hoàn thiện bản thân đáp ứng nhu cầu của ngành giáo dục và xu thế phát
triển của xã hội.
Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với thực
hiện xây dựng tốt quy chế chi tiêu nội bộ, thực hiện công khai, minh bạch chịu
sự giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội và phụ
huynh học sinh.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong công tác
quản lý đội ngũ và quản lý trẻ.
3.3. Kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục
Thành lập Hội đồng kiểm định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Tổ
chức tập huấn tự đánh giá của các thành viên trong nhà trường. Xây dựng kế
hoạch tự đánh giá, phân công nhiệm vụ cho từng thành viên, xác định thời gian,
lịch trình cụ thể cho từng hoạt động được đánh giá theo các tiêu chuẩn quy định.
Thực hiện tốt các văn bản về kiểm định và đánh giá các cơ sở giáo dục:
+ Chỉ thị số 46/2008/CT-BGD&ĐT ngày 05/8/2008 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và đào tạo về việc tăng cường công tác đánh giá và kiểm định chất
lượng giáo dục.
+ Quyết định số 45/2011/TT-BGD&ĐT ngày 11/10/2011 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục về việc Ban hành Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất
lượng cơ sở giáo dục mầm non.


23

+ Quyết định số 25/2014/TT-BGD&ĐT ngày 07/08/2014 về việc Ban
hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục, quy trình, chu kỳ
kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non
3.4 Xây dựng mạng lưới trường lớp, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất

Điều tra, thống kê số lượng trẻ độ tuổi 0-5 tuổi trong 5 năm đến, lập kế
hoạch mở lớp cho từng năm học từ 2017-2022, đảm bảo điều kiện tốt nhất cho
trẻ trong độ tuổi đến lớp, không để trẻ bỏ học ở nhà.
Tham mưu với các cấp lãnh đạo ngành giáo dục và chính quyền địa
phương xin kinh phí xây dựng để đảm bảo tất cả các cơ sở, kể cả cơ sở lẻ đều có
đầy đủ đồ dùng phục vụ dạy học, đồ chơi, trang thiết bị khác…, phục vụ tốt cho
hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ .
Thực hiện có hiệu quả chương trình kiên cố hóa trường học, lớp học, lồng
ghép với các chương trình khác để xây dựng các phòng học theo hướng chuẩn
hóa, đầu tư các phòng chức năng, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại hóa
giáo dục.
Huy động thêm các nguồn lực địa phương, sự đóng góp của phụ huynh
học sinh, các hội đồng hương theo tinh thần xã hội hóa giáo dục để xây dựng cơ
sở vật chất trường học.
3.5. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục
Thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa giáo dục theo Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP của Chính phủ. Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách
của Đảng, nhà nước để các cấp chính quyền, nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ về
xã hội hóa giáo dục.
Hội dồng giáo dục, Hội khuyến học các cấp không ngừng củng cố và phát
huy tốt vai trò của tổ chức trong công tác xã hội hóa giáo dục. Các đoàn thể, các
ngành phối hợp với ngành giáo dục huy động các nguồn lực về tinh thần – vật
chất góp phần chăm lo phát triển giáo dục.
Thực hiện việc kết hợp 3 môi trường giáo dục( nhà trường, gia đình và xã
hội) để huy động mọi nguồn lực đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ.
Tiếp tục duy trì loại hình lớp ghép ở các cơ sở lẻ, cách trở nhằm tạo điều
kiện thuận lợi để mọi cá nhân tiếp nhận giáo dục, đào tạo ở mọi địa điểm và thời
gian thích hợp.
3.6. Xây dựng tốt mô hình “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”

Cần huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà
trường, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp
điều kiện của địa phương, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Khắc phục tính thụ động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của trẻ trong
các hoạt động một cách phù hợp, hiệu quả.


24

Xây dựng, chỉnh trang trường, lớp xanh hơn, sạch hơn, đẹp hơn. Bảo đảm
trường sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát, lớp học đủ ánh sáng, thoáng đãng phù
hợp lứa tuổi trẻ mầm non.
Nhà trường chỉ cho mỗi lớp có góc thiên nhiên riêng để thuận tiện cho trẻ
quan sát và chăm sóc cây thường xuyên. Có đủ nhà vệ sinh và giữ gìn vệ sinh
sạch sẽ, không ảnh hưởng xấu đến lớp học và cảnh quan môi trường. Giáo dục
trẻ có ý thức trong việc tham gia giữ vệ sinh nhà trường, lớp học và cá nhân.
Giáo viên tổ chức các hoạt động có hiệu quả; giúp trẻ mạnh dạn, tự tin
hứng thú khi tham gia vào hoạt động; có phương pháp dạy học tích cực nhằm
khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ.
Trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, dã ngoại một cách thiết thực,
khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ; tổ chức và lồng ghép các trò
chơi dân gian vào hoạt động giáo dục trẻ nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ,
kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt, ứng xử
văn hóa...
Có kế hoạch phối hợp với ngành khác trong địa bàn trường, nhằm mục
đích huy động nhân lực và hệ thống cơ sở vật chất của các ngành và tổ chức liên
quan để phối hợp thực hiện và huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội
triển khai phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
trong nhà trường.
4. Đề xuất

Từ những nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở Trường Mẫu giáo - - Quảng Nam và nhận thức cá nhân, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị với
các ngành, các cấp có liên quan để nâng cao chất lượng giáo dục , đào tạo trong
giai đoạn hiện nay như sau:
- Thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về GD - ĐT
nhằm giúp dân phát triển kinh tế, thực sự giàu mạnh. Đây cũng là một trong
những cơ sở giúp cho nhân dân có điều kiện đầu tư cho giáo dục - đào tạo.
- Tiếp tục tăng cường mở lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị tại địa phương,
mở rộng đối tượng đi học đến cán bộ giáo viên trường học.
- Phòng giáo dục tham mưu với Phòng Nội vụ bổ sung giáo viên đủ và
đúng tỷ lệ theo yêu cầu của trường chuẩn quốc gia. Phân bổ giáo viên về trường
đúng chuyên ngành Mầm non.
- Các cấp lãnh đạo cần quan tâm đầu tư ngân sách cho giáo dục, huy động
nhiều nguồn lực đầu tư cho giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ nhà
giáo học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị đáp
ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức.


25

KẾT LUẬN
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc mở mang dân trí,
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Người đánh giá rất cao vai trò của giáo dục đối
với sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại là nâng cao dân
đức, mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự
phát triển, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với các
cường quốc năm châu.
Hiện nay, giáo dục và đào tạo đang phát triển mạnh mẽ về số lượng,
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về chất lượng, chưa theo kịp yêu cầu mới của cách
mạng. Công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có cuộc
cách mạng thật sự khoa học và triệt để về giáo dục và đào tạo , thực hiện "tái cấu

trúc" một cách khoa học, nhằm đổi mới "căn bản và toàn diện" nền giáo dục
nước nhà, nâng cao chất lượng và tầm vóc đích thực của giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ CNH, HÐH đất nước, nhất là coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao - như văn kiện Ðại hội Ðảng XI đã nêu, đưa nước nhà "bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu". Ðó là ước nguyện của
Bác Hồ vĩ đại, đồng thời là khát vọng cao đẹp của nhân dân ta, đất nước ta.
Một xã hội muốn phát triển nhanh, vượt qua ải nghèo nàn, lạc hậu để vươn
lên thì không có con đường nào khác là phải chú trọng đến chất lượng giáo dục.
Cần có những giải pháp tích cực, có hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và chặn đứng sự tụt hậu của giáo dục.
Trong giai đoạn hiện nay, Trường Mẫu giáo đã và đang phấn đấu nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường, nhằm đáp ứng ngày càng cao
của ngành học. Mỗi cán bộ, giáo viên nhà trường nhận thức rõ những yếu kém,
hạn chế của nhà trường, từ đó nâng cao trách nhiệm trong công tác bồi dưỡng
đội ngũ có đủ đức, đủ tài để xây dựng nhà trường vững mạnh. Tôi thiết nghĩ cần
phải thực hiện những giải pháp vừa nêu trên và tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
những giải pháp mới cho phù hợp với từng thời điểm. Để thực hiện được điều
đó, ngoài sự nỗ lực của tập thể nhà trường cần có sự đầu tư, giúp đỡ, chỉ đạo của
các cấp lãnh đạo, sự hợp tác ủng hộ của phụ huynh học sinh. Tất cả vì tương lai
con em của chúng ta.


×