Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Bài tập lớn môn luật hình sự quốc tế tội phạm quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.22 KB, 97 trang )

Nước ta từ khi đổi mới đến nay nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Đó là sự nỗ lực không ngừng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Kinh tế
tăng trưởng, văn hóa – xã hội ngày càng vững mạnh, đời sống nhân dân ngày
càng được cải thiện và nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Đáng kể nhất là
sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO – tổ chức thương mại thế
giới. Đây là kết quả của quá trình đàm phán nỗ lực, gay go, phức tạp.
PHẦN MỞ ĐẦU
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Nước ta từ khi đổi mới đến nay nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đó
là sự nỗ lực không ngừng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Kinh tế tăng trưởng,
văn hóa – xã hội ngày càng vững mạnh, đời sống nhândân ngày càng được cải
thiện và nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Đáng kể nhất là sự kiện Việt Nam trở
thành thành viên của WTO – tổ chức thương mại thế giới. Đây là kết quả của quá
trình đàm phán nỗ lực, gay go, phức tạp.
Tham gia WTO là một cột mốc quan trọng đối với Việt Nam. Nó là sự biến đổi to
lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội. Bên cạnh những lợi ích mang lại chonền kinh tế và
xã hội chúng ta sẽ đứng trước những thử thách đối với công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm trong tình hình mới. Chúng ta cũng thấy rõ, bên cạnh những mặt
tích cực của việc hội nhập quốc tế là mặt trái của nó. Và cái mặt trái, không ổn
định này là tình hình tội phạm, nó xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội…nhằm làm mất tính ổn định, gây khó khăn cho ta trên
đường phát triển. Thủ đoạn của bọn tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt đòi hỏi
chúng ta phải hết sức tỉnh táo và tìm mọi biện pháp để đối phó với tình hình tội
phạm đang diễn ra hiện nay.
Nền hòa bình, an ninh quốc gia, tình hình tội phạm…hiện nay là một vấn đề nóng
bỏng và cần thiết giải quyết, phải được quan tâm như một chiến lược và động lực


cho mọi sự phát triển của đất nước. Sự nghiệp cách mạng chỉ thành công khi và chỉ
khi có sự tham gia năng động, tích cực và nhiệt tình của đông đảo quần chúng nhân


dân, sự thanh liêm, chính trực, chí công vô tư của các cơ quan nhà nước. Song
song đó, việc ban hành các văn bản pháp luật đồng bộ sẽ tạo ra một hành lang pháp
lý vững mạnh để phát huy sức mạnh của toàn xã hội vào sự nghiệp chung, trong đó
có lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm.
Ngày nay, tình hình tội phạm ở Việt Nam là một vấn đề vô cùng nhức nhối, có xu
hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng tới
sự phát triển chung của đất nước. Việt Nam sẽ xuất hiện nhiều loại tội phạm mang
tính quốc tế nên trước tiên phải hoàn thiện văn bản pháp luật nhằm phục vụ có hiệu
quả công việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngày nay, quy mô tội phạm
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng ngày càng gia tăng đáng kể. Trong đó, chúng
ta không thể không nhắc đến tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nói riêng, tội
phạm có tính chất quốc tế đã và đang phát triển ngày càng lớn mạnh, nó tạo thành
cả một hệ thống phát triển từ quốc gia này đến quốc gia khác. Nó gây ra cho Nhà
Nước nhiều tổn thất, đe dọa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân loại,
nó làm phá vỡ tính khuôn khổ của pháp luật.
Chính vì yếu tố quan trọng này cho nên Đảng, Nhà nước cần không ngừng nâng
cao trình độ cảnh giác và luôn luôn ý thức những vấn đề hết sức cần thiết mà luôn
có phương hướng quan tâm đúng mức. Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định một
cách chặt chẽ về tội phạm có tính quốc tế này đủ để thấy được tính cấp thiết của
vấn đề.
Vì tính cấp thiết trên nên người viết chọn đề tài “Tội phạm có tính chất quốc tế” để
thấy rõ tính chất nguy hiểm thật sự của nó, sự tàn phá của nó để đi đến vần đề là
phải tìm ra biện pháp phòng và chống lại các loại tội phạm này cũng như tìm ra
biện pháp khắc phục hậu quả mà nó gây ra.


.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900 6162
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Là một đề tài nghiên cứu khoa học ở một gốc độ tương đối nhỏ, do đó mục tiêu

nghiên cứu của đề tài này cũng nhằm vào những yếu tố nói trên. Qua quá trình theo
sát nghiên cứu, học tập tạo điều kiện cho việc hoàn thiện và thực thi pháp luật
trong cuộc sống. Luận văn này người viết mang công sức và tâm quyết của mình
muốn đem lại tác dụng trong quá trình xây dựng, nghiên cứu cũng như là điều kiện
quan trọng để Sinh Viên nói lên suy nghĩ, ý kiến mình. Mặt khác, qua đề tài để
hiểu rỏ được tính cần thiết khi chúng ta đi nghiên cứu sâu về các tội phạm này,
nhằm đem lại sự hiểu biết cần thiết cho người đọc.Qua đó, góp phần vào việc hoàn
thiện cũng như nâng cao kiến thức, trình độ pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân,
từ đó thấy được những khó khăn để rút ra những phương pháp đúng đắn, thiết yếu
trong đấu tranh phòng chống tội phạm này. Đồng thời cho ta thấy được tình hình


gia tăng của loại tội phạm có tính chất quốc tế để có biện pháp ngăn chặn và đẩy
lùi. Và qua đó, thấy được việc đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là trách
nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa toàn Đảng, toàn dân nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy lùi loại tội phạm
này, góp phần làm ổn định trật tự xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài luận văn là vấn đề có nội dung khá phong phú và tương đối phức tạp, đồi
hỏi phải được nghiên cứu sâu và đi vào từng lĩnh vực tội phạm riêng lẻ. Dưới góc
độ của một luận văn, việc tập trung xem xét phân tích những vấn đề mang tính chất
cơ bản về nội dung của những qui định của pháp luật. Trên cơ sở tìm ra những
phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực thi qui định của
pháp luật về vấn đề này, nhằm đảm bảo sự ổn định về mặt chính trị cũng như kinh
tế, văn hóa, xã hội…của một quốc gia, tạo điều kiện cho sự phát triển bình thường
của một quốc gia trên trường quốc
tế.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm hoàn thiện bài viết của mình một cách tốt nhất, người viết vận dụng một vài
phương pháp nghiên cứu để làm công cụ phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Ở

đây chúng ta vận dụng các biện pháp để đi nghiên cứu và mổ xẻ nó, cụ thể bằng
các phương pháp nghiên cứu phân tích luật viết, chứng minh, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, liệt kê… với những kiến thức đã học kết hợp với sách báo, tài liệu có
liên quan nhằm phân tích những điều kiện cụ thể, đi sâu nghiên cứu tình hình các
tội phạm của nó trong luật hình sự Việt Nam và trên thế giới.
Một là, phương pháp phân tích luật viết dùng để tìm hiểu các qui định của pháp
luật hình sự Việt Nam.
Hai là, phương pháp chứng minh, so sánh, đối chiếu vận dụng các qui định của
pháp luật về tội phạm có tính chất quốc tế đồng thời kế thừa các phương pháp


nghiên cứu duy vật biện chứng.
Ba là, phương pháp tổng hợp, thống kê và sử dụng các trang web để tìm kiếm tài
liệu đồng thời vận dụng các tài liệu của các nhà luật học, bài báo và ý kiến chủ
quan của người viết.
Qua đó rút ra những nguyên nhân, biện pháp phòng chống và triệt tiêu loại tội
phạm này một cách có hiệu quả nhất. Do khả năng còn hạn chế, nên đề tài không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báo của quý
thầy cô và các bạn.
5. Cơ cấu đề tài.
Đề tài được chia làm ba chương cụ thể trong phần nội dung như sau:
Chương I: Các vấn đề lí luận chung về tội phạm có tính chất quốc tế.
Chương II: Một số tội phạm có tính chất quốc tế trong luật hình sự Việt Nam.
Chương III: Thực trạng của tội phạm có tính chất quốc tế.
Mặc dù người thực hiện đề tài đã có rất nhiều cố gắng trong việc tìm và nghiên cứu
tài liệu, cũng như tìm hiểu thực tiễn nhưng do phạm vi đề tài có phần rộng và kiến
thức có hạn nên vẫn còn gặp nhiều khó khăn, sai sót.
Xin ghi nhận những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn
chỉnh hơn.
Chân thành cảm ơn Thầy – Ts. Phạm Văn Beo – đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ

em hoàn thành đề tài luận văn này.

CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ
TỘI PHẠM CÓ TÍNH CHẤT QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm về tội phạm có tính chất quốc tế:
Trong xã hội loài người, “khi sự chênh lệch về tài sản trong nội bộ cùng một thị tộc
đã biến sự thống nhất vầ lợi ích thành sự đối kháng giữa các thành viên của thị


tộc”, thì đồng thời cũng xuất hiện trong xã hội nhiều loại hành vi khác nhau, xung
đột lẫn nhau, thậm chí tiêu diệt lẫn nhau. Nguyên nhân khách quan là do sự phát
triển kinh tế của xã hội đã đạt đến một trình độ nhất định mang lại. Cái khách quan
đó, cái hiện thực xã hội đó đưa đến việc hình thành Nhà nước như “một lực lượng
cần thiết, có nhiệm vụ làm dịu bớt xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong
vòng trật tự, dưới một hình thức gọi là hợp pháp”.
Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả ấy của mình, Nhà nước buộc phải qui định
những hành vi gây nguy hiểm cho trật tự xã hội và vi phạm những qui tắc xử sự
của đời sống cộng đồng thành tội phạm với những hình phạt nghiêm khắc khác
nhau.
Như vậy, tiền đề đầu tiên để cấu thành nên tội phạm phải là những hành vi phạm
tội. C.Mác đã ví những người phạm tội như một “lực lượng sản xuất”, và ông viết
rằng: “Một kẻ phạm tội thì sản xuất ra các tội phạm. Nếu quan sát kỹ hơn mối quan
hệ của cái ngành sản xuất này với toàn bộ xã hội, thì phải thấy được nhiều điều. Kẻ
phạm tội không chỉ sản xuất ra các tội phạm, mà còn sản xuất ra Luật hình sự nữa;
ngoài ra nó còn sản xuất ra toàn ngành cảnh sát và tư pháp hình sự, kiểm sát…Nó
còn sản xuất ra tiểu thuyết, nghệ thuật và cả bi kịch nữa…”.
Như vậy, thực tế đời sống xã hội đã chuẩn bị sẵn những tiền đề cho việc hình thành
và phát triển các ngành luật khác nhau, các biện pháp pháp lý khác nhau để đấu
tranh chống tội phạm. Chính trong quá trình đấu tranh chống tội phạm đã làm hình
thành các môn khoa học khác nhau như: Khoa học hình sự, tố tụng hình sự, khoa

học điều tra tội phạm,…
Trong các ngành khoa học về tội phạm đó thì khoa học Luật hình sự có đối tượng
nghiên cứu là tội phạm với tư cách là “cái đơn nhất”, cách tiếp nhận này phải trên
cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về tội phạm.
Để đi sâu nghiên cứu cũng như định nghĩa được tội phạm có tính chất quốc tế
trước hết chúng ta phải định nghĩa được tội phạm là gì?


Bộ luật hình sự Việt nam năm 1999 đã định nghĩa về tội phạm như sau: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thỗ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Như chúng ta đã biết, tội phạm với tính chất và mức độ ngày càng nguy hiểm cho
xã hội, nó không còn là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề của chung
cộng đồng thế giới, đòi hỏi sự hợp tác của tất cả các nước trong việc ngăn chặn và
phòng ngừa loại tội phạm này.
Ở đây, khi đi nghiên cứu về tội phạm có tính chất quốc tế thì chúng ta nghiên cứu
trên hai phạm trù là: Tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế.
Tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế là hai phạm trù khác nhau của
luật hình sự quốc tế. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là những vấn đề lý luận về tội
phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế lại ít được các nhà luật học quan
tâm, nghiên cứu. Để làm sáng tỏ khái niệm tội phạm quốc tế, dưới gốc độ khoa học
luật hình sự quốc tế, cần nghiên cứu các quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Theo các nhà luật học Nga, tội phạm quốc tế là những hành vi xâm phạm tự do của
nhân dân thế giới, lợi ích của toàn thể loài người tiến bộ, nền tảng cơ bản của quan
hệ quốc tế, quyền và lợi ích của tất cả các quốc gia1; tội phạm quốc tế là những

hành vi xâm phạm độc lập của các quốc gia và quan hệ hòa bình giữa các dân tộc2.
Còn theo L.A. Mô-giốc-ri-an, thì tội phạm quốc tế là những hành vi xâm phạm sự
tồn tại của các quốc gia trên thế giới.
1 Xem D.B.Lenvin, trách nhiệm của các quốc gia trong luật quốc tế, Tạp chí quan
hệ quốc tế,


Matxcova,1966.
2 Xem M.I.Ladavev, Các căn cứ quân sự của các đế quốc trên lãnh thổ nước ngoài
và luật quốc tế, Nxb IMO,1963.
Mặc dù có cách trình bày khác nhau, nhưng các quan điểm trên đều có điểm hợp lý
bởi chúng nêu lên bản chất của tội phạm quốc tế là những hành vi xâm phạm đến
hòa bình và an ninh nhân loại. Tuy nhiên, để đưa ra một định nghĩa chung cho khái
niệm tội phạm quốc tế, cần thiết phải dựa trên những qui định trong các văn bản
pháp luật hình sự quốc tế hiện hành.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm tội phạm quốc tế là:
Tội phạm quốc tế là những hành vi đặc biệt nguy hiểm, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự, từ đủ 18 tuổi trở lên, thực hiện một cách cố ý, xâm phạm hòa bình
an ninh quốc tế, gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng quốc tế.
Theo qui định tại khoản 1 Điều 5 Quy chế Rôm, tòa án có quyền tài phán đối với
các tội phạm sau: Tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội phạm chiến tranh, tội
xâm lược. Như vậy, tội phạm quốc tế bao gồm bốn tội trên (Quy chế Rôm).
Về tội phạm có tính quốc tế trong luật hình sự quốc tế, các nhà luật học đã phân
biệt các tội phạm quốc tế nói trên với các tội phạm xâm phạm trật tự pháp luật
quốc tế, hay còn gọi là các tội phạm có tính quốc tế (Tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm có yếu tố nước ngoài). Các tội phạm có tính quốc tế, tuy có xâm hại hòa bình
và an ninh quốc tế, nhưng về mức độ nguy hiểm, không đến mức gây nguy hại cho
toàn thể cộng đồng quốc tế. Chủ thể của tội phạm có tính quốc tế là thể nhân, pháp
nhân, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự không nhất thiết phải đủ 18 tuổi như đối với
tội phạm quốc tế, điều này do các công ước quốc tế liên quan có qui định.

Từ góc độ này, có thể hiểu tội phạm có tính quốc tế là những hành vi nguy hiểm
mà các công ước quốc tế thừa nhận, xâm phạm trật tự pháp luật quốc tế.
Theo I.I Ka-rơ-pet3, tội phạm có tính quốc tế gồm bốn nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Các tội xâm phạm tội hợp tác hữu nghị và sự tồn tại bình thường


của các quan hệ quốc tế, bao gồm tội khủng bố, tội cướp máy bay, phương tiện
giao thông khác…
Nhóm thứ hai: Các tội xâm hại môi trường sống của con người, di sản văn hóa của
dân tộc trên thế giới như buôn lậu, buôn bán trái phép chất ma túy, làm và buôn
bán tiền giả…
3 Xem I.I.karopet, Tội phạm có tính quốc tế, Nxb Pháp lý Matxcova, 1979.
Nhóm thứ ba: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người, tội cướp biển, tội
tuyên truyền các xuất bản phẩm đồi trụy…
Nhóm thứ tư: Các tội phạm có tính quốc tế khác như phá hoại các công trình ngầm
dưới biển, các tội phạm được thực hiện trên máy bay, tàu thủy..
Để đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế đạt hiệu quả
cao, thì hợp tác trong lĩnh vực này trở thành vấn đề mang tính tất yếu, phù hợp với
xu thế chung của thời đại và việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật Việt
Nam, bảo đảm thương tích với thông lệ, pháp luật quốc tế là vấn đề có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Đối với pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm có tính chất quốc tế trong luật
hình sự năm 1999 một cách rất cụ thể và được trình bày một cách cụ thể trong
chương II của đề tài khi chúng ta đi nghiên cứu nó trong Luật hình sự Việt Nam.
1.2. Nguyên nhân, điều kiện, đặc điểm, bản chất, tình hình tội phạm có tính chất
quốc tế.
1.2.1 Nguyên nhân và điều kiện:
Ở đây chúng ta phải đi xét riêng nguyên nhân của từng tội phạm mà không thể nào
gộp chung các nguyên nhân thành một cái chung tổng thể được, do các tội phạm là
khác nhau và lĩnh vực cũng như mức độ vi phạm của nó cũng khác nhau.

+ Tội phạm về buôn bán phụ nữ-trẻ em
Việc buôn bán phụ nữ-trẻ em (BBPN-TE) có nhiều nguyên nhân phức tạp, do
nghèo đói, xung đột gia đình, do mở cửa, có chung biên giới và khó kiểm soát khu


vực biên giới của các quốc gia. Đa số những phụ nữ đều bị những kẻ buôn bán lừa
gạt dấn thân vào con đường tội rủi ro sang nước ngoài với viễn cảnh có công ăn
việc làm và hôn nhân tốt đẹp. Những phụ nữ trẻ chưa chồng, trình độ học vấn thấp
và hầu như không có thông tin về nguy cơ của nạn buôn bán người là những người
đặc biệt dễ có nguy cơ bị buôn bán.
Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân của nạn buôn bán phụ nữ. Không chỉ các
em gái mà ngay cả những phụ nữ đã có chồng con trong những hoàn cảnh đặc biệt
bị xô đẩy cũng là nạn nhân của nạn BBPN-TE. Có lẽ không có ai lại bỏ nhà ra đi
khi đang sống gia đình hạnh phúc. Những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần cũng
như việc tước đi cái quyền được học hành ở cái tuổi ăn học như các em là những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng buôn bán, lạm dụng tình dục ở trẻ em gái.
Có thể thấy rất rõ rằng nếu không bị đày đọa trong địa ngục gia đình thì những
người phụ nữ và các trẻ em gái
vì muốn thoát khỏi địa ngục này đã rơi ngay vào địa ngục của bọn buôn người.
Mặc dù hiện tượng bất bình đẳng giới đã được nói đến nhiều và hạn chế, nhưng
đâu đó tình trạng này vẫn tái diễn và gây hậu quả nghiêm trọng, tiếp tay cho bọn
BBPN-TE. Nạn buôn bán người là một hành động tội ác đã và đang diễn ra trên
phạm vi toàn cầu. Có thể nói rằng, đấu tranh giành quyền bình đẳng cho chị em sẽ
giảm được đáng kể tỷ lệ phụ nữ, trẻ em gái bị buôn bán đang có chiều hướng gia
tăng.
Ở Việt Nam, nguyên nhân thứ nhất là đói nghèo, thiếu việc làm. Tình trạng đói
nghèo và thiếu việc làm ở nông thôn làm cho họ bỏ ra thành thị hoặc đi nước ngoài
kiếm sống, kỳ vọng vào những nơi làm ăn xa mà nghĩ là dễ kiếm được cái khoản
tiền kha khá vì thế mà họ dễ bị lừa. Thứ hai nữa, là truyền thông đại chúng của Việt
Nam bề rộng thì rất nhiều, nhưng chưa đi vào chiều sâu, thí dụ như đi đến các cộng

đồng nhỏ bé cụ thể ở các làng quê để cho người dân biết được những thủ đoạn của
bọn buôn người và những cảnh giác cần biết khi phụ nữ đi làm ăn xa thì rất ít.


Ngoài ra, do sự mở cửa biên giới, sự hội nhập kinh tế, buôn bán dọc theo biên giới
Việt Nam và Trung Quốc, có rất nhiều chợ biên giới và những chợ biên giới đó có
rất nhiều đội ngũ di cư từ Việt Nam sang để làm cửu vạn, khuân hàng,chuyển
hàng…Có những dịch vụ vui chơi, giải trí cho những người Việt Nam sang bên đó
và những người địa phương Trung Quốc nữa.
Đó chính là những đầu mối BBPN-TE từ Việt Nam sang Trung Quốc. Và cũng
tương tự như vậy ở Campuchia, ở những tỉnh dọc theo biên giới, sau đó chuyển
thẳng về Nông Pênh, rồi từ Nông Pênh chuyển sang Thái Lan, hay có những đường
dây chuyển trực tiếp phụ nữ và trẻ em từ Việt Nam sang Malaysia, Hongkong,
Singapore, Đài Loan…”.
Nhận thức về tính nghiêm trọng, sự cần thiết và trách nhiệm phải tăng cường
phòng chống, tội BBPN-TE ở nhiều cấp ủy Đảng, Chính quyền, Ban ngành, đoàn
thể còn hạn chế. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm BBPN-TE chưa
được triển khai một cách toàn diện, đồng bộ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng chưa thật chặt chẽ, cơ chế tổ chức bộ máy thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu
phòng chống tội phạm BBPN-TE trong tình hình mới.
Điều kiện của tội BBPN-TE là lợi dụng những chính sách thông thoáng của Nhà
nước ta trong công tác quản lý xuất nhập cảnh, xuất khẩu lao động, quản lý du lịch
nước ngoài, bọn tội phạm BBPN-TE đã sắp đặt những “chiêu lừa”… để đem bán
phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài. Mặc dù chính phủ đã có những đề án, chương trình
phòng chống BBPN-TE nhưng xem ra hành lang pháp lý vẫn “yếu” nên chưa đủ
sức “ngăn” được nạn BBPN-TE đang “nóng” và phức tạp hiện nay.
Các đối tượng thường có sự câu kết, móc nối giữa các đối tượng tiền án, tiền sự,
các chủ chứa, môi giới mại dâm trong nước để tạo thành đường dây BBPN-TE ra
nước ngoài, phổ biến nhất vẫn là hình thức lợi dụng phụ nữ, trẻ em ở các vùng
nông thôn nghèo, có trình độ văn hóa thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, các đối

tượng hứa hẹn tìm việc làm và có thu nhập ổn định ở thành phố rồi lừa đưa qua


biên giới bán…Bọn tội phạm thường lợi dụng kẻ hở thông qua các dịch vụ tư vấn,
môi giới hôn nhân với người nước ngoài, cho nhận con nuôi, du lịch, xuất khẩu lao
động để lừa gạt BBPN-TE. Chính vì thế công tác đấu tranh chống loại tội phạm
này vấp phải những khó khăn, phức tạp.
+ Tội phạm về khủng bố:
Hàng loạt vụ khủng bố, bắt cóc đang diễn ra trên thế giới thật sự gây kinh hoàng
cho toàn thể nhân loại. Bước sang thế kỉ thứ XXI, khi chiến tranh lạnh qua đi, loài
người lại đứng trước hiểm họa mới. Đó là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Mức độ
tàn bạo và đẫm máu của hàng loạt vụ khủng bố vừa qua có lẽ chỈ là điểm khởi đầu.
Kẻ chủ mưu có lẽ không chỉ một vài nhân vật hoặc tổ chức cực đoan.
Thiết nghĩ, nguyên nhân gốc vẫn là sự phân hóa giàu-nghèo quá lớn giữa các nước.
Những nước đã phát triển luôn tìm cách trấn áp, khống chế các nước nhỏ để duy trì
lợi ích kinh tế của mình.
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và vấn nạn khủng bố sẽ phát triển đến những mức độ
tàn bạo hơn nhiều. Đã đến lúc các nước lớn phải cảnh tỉnh và thay đổi chiến lược
trong quan hệ đối ngoại và kinh tế.
Hoạt động khủng bố được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do nhiều lực
lượng, thế lực khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến tình hình hoạt động khủng bố có
thể chia như sau:
Trước hết là khía cạnh chính trị và những hành động khủng bố. Các mâu thuẫn dân
tộc và sự xung đột sắc tộc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những
hành động khủng bố quốc tế.
Về khía cạnh kinh tế, tình trạng đói nghèo, phân cực giàu nghèo quá lớn, thất
nghiệp là những lý do thúc đẩy một bộ phận của xã hội gia nhập lực lượng khủng
bố. Báo cáo của Ủy ban Kinh tế – Xã hội Liên hợp Quốc cho thấy, thế giới đang
ngày càng trở nên khập khiễng, cho dù có nhiều vùng lãnh thổ phát triển vượt bậc
về kinh tế. Các chuyên gia cảnh báo tình trạng mất cân đối giữa các quốc gia cũng



như giữa các tầng lớp xã hội trong cùng một nước đã tăng cao hơn rất nhiều so với
mười năm trước đây. Nếu còn để tình trạng bất bình đẳng về kinh tế như hiện nay,
lợi lộc sẽ rót hết vào nước giàu, và
những nước đang phát triển, nước nghèo vẫn hoàn nghèo, 80% sản phẩm nội địa
trên thế giới về 1 tỷ người ở các nước phát triển so với 20% còn lại của 5 tỷ người
ở các nước đang phát triển. Hiện nay, trên thế giới có 2,8 tỷ người kiếm được
không tới 2 USD/ngày. Khoảng cách chênh lệch ngày càng nới rộng không chỉ về
tài chính mà còn trong cả lĩnh vực y tế và giáo dục.
Những nguồn tài chính dung dưỡng khủng bố: Cuộc chiến chống khủng bố quốc tế
sẽ không thành công nếu không cắt được các kênh cung cấp tài chính của chúng.
Song, đây là một việc làm rất khó khăn. Theo thống kê, hiện nay hàng năm các tổ
chức khủng bố sử dụng đến hàng trăm triệu USD, chủ yếu là tiền bất hợp pháp
nhưng đã được tẩy rửa. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để xác định những “dây” đưa
tiền đến tay bọn khủng bố trong số hàng triệu giao dịch tại các ngân hàng.Bọn
khủng bố còn thực hiện việc chuyển tiền bằng cách thông qua một hệ thống ngân
hàng đặc biệt, không tuân thủ bất cứ sự kiểm soát hay luật lệ tài chính nào. Được
biết dưới tên Hawala (theo tiếng Arap nghĩa là chuyển tiền), hệ thống này có các
trung tâm giao dịch đặc tại các nước Arap nhiều dầu mỏ và hoạt động dựa trên cơ
sở những người cùng dòng họ, cùng bộ tộc dù các thành viên của dòng họ, của bộ
tộc đang sống ở khắp nơi trên thế giới.
Ngoài ra, theo phân tích là do các cuộc chạy đua hạt nhân ngày càng “nóng” lên
giữa các nước. Sự yếu kém và chia rẽ trong chính quyền, xung đột tôn giáo, tranh
giành quyền lợi, lãnh thổ, năng lượng hay các nguồn tài nguyên khác giữa các
nước dẫn đến thiếu đoàn kết cũng chính là điểm yếu mà tổ chức khủng bố lợi dụng
tấn công.
+ Tội phạm về ma túy:
Do đời sống kinh tế – xã hội, đời sống vật chất, văn hóa, giáo dục, y tế của đồng



bào vùng cao còn gặp nhiều khó khăn. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
ngành nghề còn gặp nhiều lúng túng, nhiều vùng chưa tìm thấy loại hình kinh tế
nào phù hợp để phát triển kinh tế vùng cao, nhằm đảm bảo thu nhập về kinh tế
cũng như lương thực cho đồng bào dân tộc thiểu số… nhằm xóa bỏ tình trạng tái
trồng cây thuốc phiện.
Do siêu lợi nhuận từ việc buôn bán ma túy nên hoạt động của bọn tội phạm về ma
túy quốc tế sẽ gia tăng phức tạp hơn. Đặc biệt bọn tội phạm lợi dung toàn cầu hóa
kinh tế, chính sách mở cửa thu hút đầu tư của các nước đang phát triển để thâm
nhập vào sản xuất, buôn bán ma túy và tẩy rửa tiền từ buôn lậu.
1.2.2. Đặc điểm:
Tội phạm có tính chất quốc tế là loại tội hoạt động thường có tính tổ chức, thậm
chí có tính tổ chức rất cao. Với những âm mưu, thủ đoạn, ý đồ chính trị, chiến
lược, sách lược nguy hiểm cũng như vì mục đích vụ lợi.
Những kẻ phạm tội này thường được đào tạo rất kỹ, được trang bị điều kiện đầy đủ
và hiện đại. Hoạt động của chúng có tính chuyên nghiệp, có khả năng thực hiện
trên một phạm vi rộng lớn, cả trong nước và ngoài nước. Tội phạm có tính chất
quốc tế là một trong các tội có tính nguy hiểm cao trong số các loại tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự 1999. Tính nguy hiểm đó xuất phát từ tính quan
trọng đặc biệt của các khách thể mà nó xâm phạm đó là sự: Vững mạnh của chính
quyền nhân dân, xâm phạm an ninh đối ngoại, đối nội…; xâm phạm chế độ quản lý
ngoại thương của Nhà nước; những qui định của nhà nước về tàng trữ, vận chuyển
và buôn bán trái phép chất ma túy; đe dọa nền hòa bình khu vực và thế giới;…
Chúng hoạt động thường có sự cấu kết chặt chẽ, phân công lực lượng rõ ràng và có
mục đích rất cao.
Dưới góc độ khoa học hình sự, đây là tội phạm có cấu thành hình thức cho nên mọi
hành vi dù nhỏ nhất hoặc ở giai đoạn chuẩn bị hay kết thúc đều nguy hiểm và đều
phải chịu trách nhiệm hình sự.



1.2.3 Bản chất:
Các tội phạm nói chung, tội phạm có tính chất quốc tế nói riêng xét về bản chất thì
chúng mang nhiều sắc thái bản chất khác nhau. Ở đây, chúng ta đi xem xét sơ lược
bản chất cơ bản của từng tội phạm cụ thể, từ đó hiểu được sâu hơn về loại tội phạm
này. Một là, tội khủng bố thực chất của nó là các bất đồng về chính trị, sắc tộc,
kinh tế… mà các Đảng phái chính trị hoặc lãnh đạo của một tổ chức (đa phần là
các tổ chức khủng bố) đã tiến hành các vụ khủng bố nhằm làm thiệt hại về kinh tế,
chính trị mà đặc biệt là làm thương vong rất nhiều tính mạng người vô tội. Ngăn
chặn và đánh tan bọn khủng bố là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhân loại, bản
chất của khủng bố là phá hoại nền hòa bình trên thế giới. Hai là, tội phạm về ma
túy xét về mặt kinh tế là vì lợi nhuận bất chính, là hành vi trốn tránh pháp luật của
Nhà nước. Buôn lậu do tác động của các quy luật kinh tế, buôn lậu là một dạng
hoạt động kinh doanh bất chính, không sòng phẳng. Bản chất của buôn lậu là tìm
kiếm lợi nhuận một cách bất chính, làm thất thoát một nguồn thu rất lớn từ thuế
cho Nhà nước, phá hoại nền kinh tế, dẫn đến lệ thuộc về chính trị nếu không chống
buôn lậu một cách có hiệu quả Ba là, tội phạm về BBPN-TE là hành vi xâm phạm
đến danh dự, nhân phẩm của con người. Mục đích của chúng là xem phụ nữ, trẻ em
như một loại
hàng hóa và đem trao đổi, mua bán nhằm mục đích kiếm lời. Phụ nữ chủ yếu được
đưa ra khỏi biên giới và bán cho các tổ chức buôn người, nhà thổ… với nhiều hình
thức khác nhau, từ đó góp phần làm tăng các tệ nạn xã hội. Bản chất của loại tội
phạm này là mục đích lợi nhuận từ việc mua bán phụ nữ. Trên đây là sơ lược về
bản chất của tội phạm nói chung và tội phạm có tính quốc tế nói riêng, sau đây
chúng ta đi tìm hiểu một cách chi tiết về tình hình cũng như sự nguy hiểm của nó
đối với xã hội khi đi nghiên cứu ở chương II của đề tài này.
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các tội phạm có tính chất quốc tế: Qua việc
nghiên cứu một cách tổng quát cũng như đi định nghĩa, phân tích các loại tội phạm


giúp cho ta hiểu rõ được điều kiện, bản chất, mức độ nguy hiểm của các loại tội

phạm này. Từ đó, tìm hiểu, phát hiện và vạch ra được các biện pháp cụ thể nhằm
làm tốt công việc phòng ngừa và tiêu diệt triệt để tội phạm nhằm góp phần bảo vệ
trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia. Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh, luôn hợp tác với các nước trên thế giới về việc phòng
chống các loại tội phạm nói chung, tội phạm có tính chất quốc tế nói riêng. Tóm
lại, qua những gì vừa phân tích trên ta đã một phần nào đó hiểu thế nào là tội phạm
có tính chất quốc tế, qua phần khái niệm và trên sự hiểu biết đó ta đi xem xét
nguyên nhân và điều kiện để phát triển loại tội phạm này cũng như những đặc điểm
để nhận biết. Tuy nhiên ở đây ta đang nhận biết là tội phạm buôn bán phụ nữ trẻ
em, tội phạm về ma túy, khủng bố, mỗi loại tội phạm có những nguyên nhân và
điều kiện phát triển riêng cũng như những đặc điểm khác nhau của nó mà không đi
theo một hình thức phát triển nhất định nào từ đó ta có thể dễ nhận biết được bản
chất thật của từng loại tội phạm trên cơ sở đó làm tiền đề để phân tích đánh giá sâu
ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG II: CÁC TỘI PHẠM CÓ TÍNH CHẤT QUỐC TẾ TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Để tìm hiểu tội phạm có tính chất quốc tế trong luật hình sự Việt Nam, ở đây chúng
ta không thể đi nghiên cứu hết tất cả các tội được mà phải đi nghiên cứu một vài
tội điển hình và thường gặp nhằm làm sáng tỏ cũng như qua đó tìm được biện pháp
hiệu quả nhất nhằm đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này, sau đây là một số
tội cụ thể được qui định trong Bộ luật hình sự Việt nam hiện hành qua các phần
như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế;
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội
về mà túy; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; các
tội xâm phạm sở hữu…
* Các tội phạm về ma túy:


Định nghĩa: Tội phạm về ma túy là các hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các
chất ma túy của Nhà nước. Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy

là loại chất gây nghiện nguy hiểm với những qui định rất nghiêm ngặt. Vi phạm
các qui định về chế độ quản lý các chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc
kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn góp phần tạo ra một lớp người nghiện,
qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát
triển lành mạnh của nòi giống cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống
xã hội. Do tác hại lâu dài và nhiều mặt của các vi phạm các qui định về chế độ
quản lý chất ma túy như vậy nên mọi hành vi vi phạm, ở bất cứ khâu nào của quá
trình quản lý chất ma túy đều bị qui định là tội phạm. Bộ luật hình sự 1985 chỉ có 2
Điều luật qui định về tội phạm ma túy4. Tuy nhiên, do tình hình chuyển biến, các
tội phạm về ma túy ngày càng nguy
hiểm, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với sức khỏe và sự phát triển của
nhân loại nói chung và người Việt Nam nói riêng. Ma túy là nguyên nhân của
nhiều loại tội phạm khác (trộm, cướp, giết người, hiếp dâm…), ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cộng đồng, gây ra nhiều tệ nạn xã hội khác, đặc biệt nó là một
trong ba con đường dẫn đến căn bệnh thế kỉ, AIDS.
4 Bình luận khoa học các tội phạm về ma túy, ThS. Luật học Đinh Văn Quế, NXB
TP Hồ Chi Minh 2004.
Đến lần sửa đổi thứ tư, những hành vi đó được hình sự hóa một cách tương đối đầy
đủ. Sau lần sửa đổi này, Bộ luật hình sự 1985 đã được Quốc hội dành riêng một
chương (chương VIII) để qui định các tội phạm về ma túy (với 14 điều luật). Việc
làm này phù họp với xu thế và yêu cầu cấp bách của
thế giới bởi vì một số hành vi phạm tội trong lĩnh vực này là tội phạm mang tính
chất quốc tế. Trên cơ sở sửa đổi thứ tư này, Bộ luật hình sự 1999 đã dành chương
XVIII để qui định các tội phạm về ma túy với 10 điều luật. Bộ luật hình sự 1999
chỉ dành 10 điều luật qui định về tội phạm ma túy (trong khi Bộ luật hình sự 1985


là 14 điều) không phải là phi hình sự hóa một số hành vi phạm tội đã được qui định
trong Bộ luật hình sự 1985. Đó là sự tách, nhập một số hành vi phạm tội cho phù
hợp với bản chất và tính nguy hiểm của nó. Tại chương XVIII, từ Điều 192 đến

Điều 201, 10 điều luật qui định về10 tội danh khác nhau, cụ thể là các tội sau:
- Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy(Điều 192);
- Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193);
- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều
194);
- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túy (Điều 195);
- Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196);
- Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (197);
- Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 198);
- Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199);
- Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200);
- Tội vi phạm các qui định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma
túy khác (Điều 201);
Cấu thành chung của tội gồm:
- Khách thể chung của các tội này là chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước
ở tất cả các khâu của quá trình quản lý. Các tội phạm này có đối
tượng là các chất ma túy và các vật dụng phục vụ sản xuất và sử dụng chất ma túy.
Sau đây ta đi tới hành vi khách quan của tội phạm như sau:
- Hành vi khách quan của tội phạm về ma túy khác nhau về hình thức thể hiện cụ
thể, về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội nhưng giống nhau ở chỗ đều là
những hành vi vi phạm các qui định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma
túy.


- Đối với đa số các tội phạm về ma túy, lỗi của người thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp.
Lỗi của người phạm tội qui định tại Điều 198 và Điều 201 có thể là
lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
- Chủ thể của hầu hết các tội phạm về ma túy là chủ thể thường, riêng tội qui định

tại Điều 201 đòi hỏi chủ thể đặc biệt.
- Sau đây ta đi nghiên cứu cụ thể một tội được xem là tiêu biểu thuộc chương này
để làm rõ bản chất cũng như mức độ nguy hiểm của nó.
2.1 Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. (Điều 194 –BLHS
1999):
2.1.1. Định nghĩa:
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là hành
vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt,
cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt chất ma túy. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy qui định tại Điều 194 BLHS là tội phạm đã được qui
định tại các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e BLHS năm 1985, nay được nhập lại
thành một điều luật. Việc nhà làm luật nhập các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy để qui định trong cùng một
điều luật là đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm
này đặt ra.
Ví dụ: M vừa tàng trữ 0.5kg thuốc phiện, rồi tự mình vận chuyển số thuốc phiện đó
bán cho người khác. Nếu căn cứ vào Bộ luật hình sự 1985 thì
M phải bị kết án về ba tội độc lập đó là tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận
chuyển trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy và bị quyết định
hình phạt riêng từng tội rồi tổng hợp hình phạt chung. Giả thiết, M bị phạt 7 năm tù
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, 7 năm tù về tội vận chuyển trái phép chất ma
túy và 10 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, tổng hợp hình phạt chung


cho cả ba tội là 20 năm tù, thì nay Bộ luật hình sự 1999 qui định cả ba hành vi này
chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội có tên đầy đủ là: : “Tàng trữ, vận
chuyển và mua bán trái phép chất ma túy” và người phạm tội cũng chỉ bị áp dụng
một hình phạt chỉ bằng 1/3 mức hình phạt mà lẽ ra người phạm tội phải bị áp dụng
theo Bộ luật hình sự 1985.

Tuy nhiên, Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 qui định tới bốn hành vi phạm tội khác
nhau, nên phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội
danh cho chính xác.
Nếu một người thực hiện cả bốn hành vi qui định trong điều luật và cùng một loại,
một lượng chất ma túy thì định tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chuyển, mua bán
và chiếm đoạt chất ma túy” và áp dụng một mức hình phạt theo điều khoản của Bộ
luật hình sự mà người phạm tội bị áp dụng. Ví
dụ: A chiếm đoạt được 0.3kg thuốc phiện đem cất giấu, sau 6 tháng, A tìm được
người mua nên đã vận chuyển số thuốc phiện trên đem tiêu thụ thì bị bắt. Trong
trường hợp này tội danh của A là: “Chiếm đoạt, tàng trữ, vận chuyển và mua bán
trái phép chất ma túy” (tội danh đầy đủ).
Nếu một người chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi qui định tại điều luật thì chỉ
định tội theo hành vi mà người đó thực hiện chứ không định tội
danh đầy đủ như điều luật đã qui định. Ví dụ: Trịnh Quốc H làm nghề lái xe tải.
Trong một chuyến vận chuyển hàng từ Lai Châu về Nam Hà, H đã nhận của Vũ
Xuân Tr một bánh hêrôin để đưa về Nam Hà giao cho người có tên là Đào và được
Tr trả công là 1 triệu đồng. Trên đường vận chuyển số heroin trên thì bị bắt giữ.
Trường hợp phạm tội này của Trịnh Quốc H là hành vi phạm tội “vận chuyển trái
phép chất ma túy”.
Nếu một người thực hiện nhiều hành vi nhưng các hành vi không liên quan với
nhau, thì phải bị định tội theo từng hành vi và áp dụng mức hình
phạt riêng cho từng hành vi rồi tổng hợp hình phạt theo qui định tại Điều 50


BLHS. Ví dụ: Lại Thị Ng ở Hà Nội đã mua bán 350 gam heroin, tàng trữ 500 gam
thuốc phiện. Lại Thị Ng bị Tòa án kết án 18 năm tù về tội “mua bán trái phép chất
ma túy” và 8 năm tù tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc Lại Thị Ng phải
chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 26 năm tù. Ngoài việc nhập bốn điều
luật thành một điều luật, thì điều 194 Bộ luật hình sự 1999 còn có một số sửa đổi
như sau:

- Nếu các điều 185c, 185d, 185đ và 185e BLHS 1985 qui định “có nhiều tình tiết
qui định tại khoản 2 diều này” và “có nhiều tình tiết qui định tại sự 1999 qui định
cả ba hành vi này chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội có tên đầy đủ là: :
“Tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép chất ma
túy” và người phạm tội cũng chỉ bị áp dụng một hình phạt chỉ bằng 1/3 mức hình
phạt mà lẽ ra người phạm tội phải bị áp dụng theo Bộ luật hình sự 1985. Tuy nhiên,
Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 qui định tới bốn hành vi phạm tội khác nhau, nên
phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội
danh cho chính xác.
Nếu một người thực hiện cả bốn hành vi qui định trong điều luật và cùng một loại,
một lượng chất ma túy thì định tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chuyển, mua bán
và chiếm đoạt chất ma túy” và áp dụng một mức hình phạt theo điều khoản của Bộ
luật hình sự mà người phạm tội bị áp dụng. Ví dụ: A chiếm đoạt được 0.3kg thuốc
phiện đem cất giấu, sau 6 tháng, A tìm được người mua nên đã vận chuyển số
thuốc phiện trên đem tiêu thụ thì bị bắt. Trong trường hợp này tội danh của A là:
“Chiếm đoạt, tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép chất ma túy” (tội danh đầy
đủ). Nếu một người chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi qui định tại điều luật thì
chỉ định tội theo hành vi mà người đó thực hiện chứ không định tội danh đầy đủ
như điều luật đã qui định. Ví dụ: Trịnh Quốc H làm nghề lái xe tải. Trong một
chuyến vận chuyển hàng từ Lai Châu về Nam Hà, H đã nhận của Vũ Xuân Tr một
bánh hêrôin để đưa về Nam Hà giao cho người có tên là Đào và được Tr trả công là


1 triệu đồng. Trên đường vận chuyển số heroin trên thì bị bắt giữ. Trường hợp
phạm tội này của Trịnh Quốc H là hành vi phạm tội “vận chuyển trái phép chất ma
túy”. Nếu một người thực hiện nhiều hành vi nhưng các hành vi không liên quan
với nhau, thì phải bị định tội theo từng hành vi và áp dụng mức hình phạt riêng cho
từng hành vi rồi tổng hợp hình phạt theo qui định tại Điều 50 BLHS. Ví dụ: Lại
Thị Ng ở Hà Nội đã mua bán 350 gam heroin, tàng trữ 500 gam thuốc phiện. Lại
Thị Ng bị Tòa án kết án 18 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy” và 8

năm tù tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc Lại Thị Ng phải chấp hành hình
phạt chung cho cả hai tội là 26 năm tù.
Ngoài việc nhập bốn điều luật thành một điều luật, thì điều 194 Bộ luật hình sự
1999 còn có một số sửa đổi như sau:
- Nếu các điều 185c, 185d, 185đ và 185e BLHS 1985 qui định “có nhiều tình tiết
qui định tại khoản 2 diều này” và “có nhiều tình tiết qui định tại khoản 3 điều này”
thì Điều 194 BLHS 1999 không quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình
phạt nữa.
- Nếu các Điều 185d, 185đ BLHS 1985 qui định: “Sử dụng người chưa thành niên
vào việc phạm tội” thì Điều 194 BLHS 1999 qui định: “Sử dụng
trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em”.
- Nếu các Điều 185c,185e BLHS 1985 không qui định tình tiết “sử dụng trẻ em
vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em” thì Điều 194 BLHS
1999 qui định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt.
- Nếu khoản 1 Điều 185đ BLHS 1985 qui định: “Mua bán trái phép chất ma túy
dưới bất kỳ hình thức nào” và khoản 1 Điều 185e BLHS 1985 qui
định: “Chiếm đoạt chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào” thì khoản 1 Điều 194
BLHS 1999 chỉ qui định: “Mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy”.
- Nếu khoản 2 Điều 185đ BLHS 1985 qui định tình tiết “thu lợi bất chính” và


khoản 3 Điều 185đ qui định tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” thì Điều 195
BLHS 1999 không qui định các tình tiết này là yếu tố định khung nữa.
- Nếu khoản 2 Điều 185e BLHS 1985 qui định tình tiết “có sử dụng vũ khí hoặc
phương tiện nguy hiểm” là yếu tố định khung hình phạt thì Điều 194
BLHS 1999 không qui định các tình tiết này là yếu tố định khung nữa.
Về mức hình phạt chính qui định ở từng khung hình phạt có một số thay đổi như:
- Nếu khoản 4 các Điều 185c, 185d, 185đ, 185e BLHS 1985 có khung hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 194 BLHS 1999 có khung hình phạt 20

năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
- Nếu khoản 1 Điều 185đ và khoản 1 Điều 185e BLHS 1985 có khung hình phạt từ
3 năm dến 10 năm tù thì khoản 1 Điều 194 BLHS 1999 có
khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù.
- Nếu khoản 2 Điều 185đ và khoản 2 Điều 185e BLHS 1985 có khung hình phạt từ
10 năm đến 15 năm tù thì khoản 2 Điều 194 BLHS 1999 có
khung hình phạt từ 7 năm dến 15 năm tù.
Về hình phạt bổ sung, cũng có những thay đổi như:
- Nếu Điều 185(o) BLHS 1985 qui định “bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 500 triệu
đồng hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; bị cấm đảm nhiệm chức vụ,
làm những nghề hoặc công việc nhất định từ 2 năm đến 5 năm” thì khoản 5 Điều
194 BLHS 1999 qui định “có thể bị phạt tiền từ 5
triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm
đến 5 năm”.
2.1.2. Dấu hiệu pháp lí.
2.1.2.1 Mặt khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy là chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển,


trao đổi chất ma túy.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy. Các chất ma túy được liệt
kê trong các bảng 1, bảng 2, bảng 3 và bảng 4 danh mục các chất ma túy, chất
hướng thần, theo qui định của Công ước quốc tế 1961, 1971 và 1988. Công ước
này Việt Nam đã tham gia theo quyết định số 798QĐ/CTN ngày 1-9-1997 của chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ở nước ta, các chất ma túy thường gặp là thuốc phiện, heroin, moocphin, cần sa và
một số loại ma túy ở dạng thuốc tân dược như:
Suzusen, Dolagang, Methamphetamin…
2.1.2.2 Mặt khách quan của tội phạm.

a. Hành vi khách quan
Do cơ cấu của Điều 194 là điều luật được nhập từ 4 điều luật của BLHS năm 1985
nên người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy có các hành vi phạm tội như sau:
- Hành vi tàng trữ.
Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào
như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông;
trong túi quần áo; túi xách… mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái
phép chất ma túy khác hoặc vận chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội cất giấu ma túy trên
phương tiện giao thông nhưng lại không có mục đích vận chuyển từ nơi này đến
nơi khác, mặc dù trên thực tế phương tiện giao thông đó di chuyển từ nơi này đến
nơi khác thì người phạm tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển
trái phép chất ma túy. Ví dụ : Triệu
Quốc H làm nghề lái xe. Do nghiện ma túy nên H mua 10 gam thuốc phiện để sử
dụng dần. H đã sử dụng hết 3 gam thì bị phát hiện và bị thu giữ 7 gam


thuốc phiện còn lại được cất giấu trong cabin dưới ghế ngồi lái xe. Mặc dù số
thuốc phiện do H tàng trữ được di chuyển từ nơi này đến nơi khác nhưng H chỉ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy mà không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy.
Ngược lại, có trường hợp chất ma túy được cất giấu một nơi cố định, nhưng người
phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển
trái phép chất ma túy. Ví dụ: Vũ Thị C làm nghề buôn bán tại chợ M. Do có quen
biết từ trước với Trần Thị Nh nên khi Nh nhờ C chuyển cho một người có tên là K
gói quà, thì C nhận lời. Sau khi Nh đi khỏi, C mở gói quà thì thấy đó là thuốc phiện
nhưng vì nể Nh nên C vẫn giao cho K thì bị bắt. Hành vi của C không chỉ là hành
vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà còn là hành vi vận chuyển trái phép chất ma

túy và tội danh của C là “tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định người phạm tội có tàng
trữ trái phép chất ma túy hay không. Ví dụ: Nguyễn Văn Q bị bắt
quả tang đang giao một bánh heroin cho Bùi Thanh H, nhưng không có căn cứ xác
định H là người mua số heroin trên, còn Q thì khai rằng Q được một
người thuê vận chuyển số heroin trên cho H, còn H có phải là người mua heroin
hay không thì Q không biết. Mặc dù H vừa nhận heroin từ tay Q và
không có căn cứ xác định H mua số heroin này, nhưng hành vi của Bùi Thanh H
vẫn bị coi là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thực tiễn xét xử có nhiều
trường hợp khó xác định người phạm tội có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy
hay không, bởi lẽ đặc điểm chung của tội phạm về ma túy là người phạm tội không
bao giờ chịu nhận hành vi thật của mình nếu cơ quan tiến hành tố tụng không có
bằng chứng. Nếu chỉ căn cứ vào nơi cất giấu ma túy thì dễ dàng cho rằng người
phạm tội không có hành vi tàng trữ, nhưng nếu căn cứ vào các tình tiết khác của vụ
án thì vẫn xác định được hành vi tàng trữ của người phạm tội. Ví dụ: Theo nguồn
thông tin của quần chúng thì Trần Quốc T đang tàng trữ 1kg thuốc phiện trong nhà,


×