Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

khuôn khổ tài chính trung hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.45 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. KHÁI QUÁT VỀ KHUÔN KHỔ TÀI CHÍNH TRUNG HẠN.................1
1. Khuôn khổ tài chính trung hạn là gì?.........................................................1
2. Ý nghĩa của MTFF (khuôn khổ tài chính trung hạn) trong việc quản lý
tài chính công của mỗi quốc gia:........................................................................2
II. PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUÔN KHỔ TÀI
CHÍNH TRUNG HẠN (LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2015).................4
KẾT LUẬN........................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................11

0


LỜI MỞ ĐẦU
Quản lí tài chính công hiệu quả là một trong những yêu cầu quan trọng
trong việc quản lí tài chính của mỗi quốc gia, góp phần quản lý và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó,
quản lý tài chính công hiện đại đòi hỏi mô hình quản trị tài chính công phải đạt
được 3 yêu cầu chính: Phân bổ các nguồn lực tài chính theo các mục tiêu phù
hợp với thứ tự ưu tiên; các khoản chi tiêu đạt được mục tiêu và kết quả đề ra ban
đầu; kỷ luật tài khóa tổng thể được tôn trọng. Mô hình quản lý tài chính công
truyền thống – lập kế hoạch chi tiêu cho từng năm dần không đáp ứng được
những yêu cầu trên. Theo mô hình này, các mục tiêu và chính sách phát triển
thường tách rời khỏi các nguồn lực tài chính nên tính khả thi khi thực hiện
không cao, dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước thường sai lệch lớn so với khi
quyết toán. Quản lý tài chính công chỉ quan tâm đến việc kiểm soát các chỉ tiêu
định mức đầu vào, nhấn mạnh sự tuân thủ quy trình, thủ tục quản lý mà ít quan
tâm đến kết quả và đầu ra, đến hiệu quả và hiệu lực của việc chấp hành ngân
sách.


Vì vậy, từ những năm 1970 của thế kỷ 20, nhiều nước công nghiệp phát
triển trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu và áp dụng cách tiếp cận lập kế hoạch
chi ngân sách nhiều năm nhằm khắc phục sự mất cân đối giữa các mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội – mô hình này được gọi chung là khuôn khổ trung hạn
(Medium Term Framework –MTFs) được chia thành ba cấp độ từ đơn giản đến
phức tạp là: Khuôn khổ tài khóa trung hạn (MTFF); Khuôn khổ ngân sách trung
hạn (MTBF); Khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF) là bước phát triển cao nhất.

NỘI DUNG
I.

KHÁI QUÁT VỀ KHUÔN KHỔ TÀI CHÍNH TRUNG HẠN

1. Khuôn khổ tài chính trung hạn là gì?
Khuôn khổ tài chính trung hạn, hay còn gọi là khuôn khổ tài khóa trung
hạn, viết tắt MTFF (Medium Term Fiscal Framework) là mô hình đơn giản nhất
trong khuôn khổ trung hạn (MTFs) dự báo về doanh thu và chi tiêu của ngân
sách nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định tùy thuộc vào nhu cầu của
1


mỗi quốc gia. Thông thường, kế hoạch tài chính trung hạn thường là 3 năm hoặc
5 năm.
Trên thực tế, thuật ngữ khuôn khổ tài chính trung hạn (MTFF) không
được nhắc đến nhiều và phổ biến như các hình thức khác của chính sách tài khóa
khuôn khổ trung hạn (MTFs) nhưng lại đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc quản lý và chi tiêu ngân sách. “Khi chuẩn bị ngân sách thường niên
cho năm tiếp theo sẽ rất có ích nếu các nhà phân tích chính phủ có dự báo về khả
năng diễn tiến của các tài khoản ngân sách trong những năm sau ngân sách đó.
Khi phê duyệt ngân sách thường niên của năm tiếp theo, sẽ rất có ích nếu chính

phủ và quốc hội tham chiếu tới dự báo về khả năng diễn tiến của các tài khoản
ngân quỹ trong những năm tiếp theo năm ngân sách đó. Khi các cơ quan thực
hiện ngân sách thường niên, sẽ rất có ích nếu các cơ quan này được cập nhật về
dự báo ngân sách trung hạn mới nhất, được xem là kim chỉ nam cho mỗi quyết
định. Đối với quá trình phê duyệt ngân sách, các cơ quan chức trách và cơ quan
lập pháp thường tham chiếu đến các hệ quả trong những năm tiếp theo trước khi
ra quyết định cuối cùng. Đối với quá trình thực hiện ngân sách, các nhà chức
trách sẽ phải đối mặt với các tình huống bất ngờ khi quản lý các khoản thu, chi
và dòng tài trợ.” (Hội thảo xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn: Kinh nghiệm
quốc tế và bài học cho Việt Nam, Chuyên gia quốc tế Paul Beckerman). Hay nói
cách khác, MTFF là kế hoạch mang tính dự báo vĩ mô, là nền tảng để các hình
thức khác trong khuôn khổ trung hạn được vận hành một cách hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu của từng quốc gia.
Mục đích cơ bản của một MTFF là giúp chính phủ quản lý quy trình xây
dựng ngân sách thường niên, ngoài ra, giúp chính phủ trong việc đối thoại với
các tổ chức quốc tế như IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) và WB (Ngân hàng thế giới),
xây dựng các kịch bản chương trình tài chính phát hành trái phiếu chính phủ và
giải quyết một số vấn đề đặc biệt. Hơn nữa, MTFF còn giúp chính phủ cải thiện
minh bạch hóa chính sách bằng cách phổ biến công khai chương trình kinh tế vĩ
mô trung hạn. MTFF được xác định trên cơ sở tham chiếu tới cơ cấu ngân sách
cơ bản của nhà nước bao gồm: chi thường xuyên không lãi, chi trả lãi (vay trong
nước và ngoài nước), chi đầu tư, thuế và các khoản thu ngân sách ngoài thuế,
tổng dòng tài trợ ròng (trong và ngoài nước).
Trong năm 1990 có trên 20 nước áp dụng MTEF, đến năm 2008 đã có 71
quốc gia áp dụng MTFF (Hàn Quốc, Nhật Bản, Peru…) 42 quốc gia áp dụng
MTBF và 19 quốc gia áp dụng MTEF. Ở Việt Nam bắt đầu thí điểm áp dụng kế
hoạch tài chính trung hạn (MTFF) và MTEF từ năm 2003 đến năm 2008 (xây
dựng cho giai đoạn 2009-2011) cho 6 bộ và 04 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Hoạt động này nằm trong khuôn khổ dự án “Cải cách quản lý tài chính
công” của Việt Nam do Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Phát triển quốc tế

Vương quốc Anh tài trợ đã mang lại những kết quả tích cực: cải thiện công tác
quản lý ngân sách theo hướng minh bạch hơn; cơ hội cho cán bộ học tập, làm
2


quen với MTEF; thiết kế biểu mẫu về MTEF, quy trình phối hợp giữa các bộ,
ngành và địa phương.
2. Ý nghĩa của MTFF (khuôn khổ tài chính trung hạn) trong việc quản lý tài
chính công của mỗi quốc gia:
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà nước
tiến hành, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo
lập và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà
nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.
 Ý nghĩa của khuôn khổ tài chính trung hạn trong việc quản lý tài
chính của mỗi quốc gia:
- Minh bạch trong chính sách tài khóa: Minh bạch là yếu tố quan trọng
trong quản lý tài chính công, đồng thời là công cụ thúc đẩy nâng cao
trách nhiệm giải trình và trách nhiệm tài khóa. Do đó, cần tăng cường
minh bạch hóa thông tin có liên quan đến quản lý tài chính công bằng
cách báo cáo khuôn khổ tài khóa trung hạn trước khi lập dự toán ngân
sách, bao gồm cả các dự báo về thu, chi ngân sách nhà nước, đầu tư
công và nợ công; xác định các mục tiêu tài khóa, lý giải độ chênh lệch
và sai số so với mục tiêu đã được lập trước đó; trình bày chiến lược tài
khóa hàng năm, sau chỉ ra các mục tiêu chính sách tài khóa dài hạn và
thiết lập các chỉ số tài khóa cụ thể cần đạt được cho 3 năm và 5 năm
tiếp theo.
- Nâng cao hiệu quả chi tiêu công, tránh rủi ro cho chi tiêu ngân sách:
Việc lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã phát sinh nhiều bất
cập trong quản lý, không lường trước được các rủi ro sẽ xảy ra các
năm tiếp theo sau đó, do đó không có giải pháp phù hợp để hạn chế bội

chi, kiểm soát nợ công vào những năm kinh tế phát triển thuận lợi,
dành dư địa cho những năm khó khăn. Khi sự phát triển của nền kinh
tế có xu hướng giảm sút, nguồn thu ngân sách nhàn ước gặp khó khăn
thì cả bội chi ngân sách và dư nợ công đều có xu hướng tăng mạnh,
bội chi NSNN trong một số năm qua đã có lúc vượt ngưỡng cho phép.
Hơn nữa, dự toán NSNN hàng năm có xu hướng tập trung vào các nhu
cầu cụ thể của từng năm, dẫn tới phân tán nguồn lực, chưa tập trung
vào các ưu tiên chiến lược trong trung dài hạn của nền kinh tế và tổng
hợp nhu cầu của các năm thường vượt khả năng cân đối nguồn lực
trong cả giai đoạn. Vì vậy, lập kế hoạch tài chính 5 năm và kế hoạch
tài chính - ngân sách nhà nước 3 là cần thiết vì sẽ giải quyết các hạn
chế thường thấy trong ngân sách hàng năm như bội chi ngân sách và
dư nợ công tăng mạnh, vượt khả năng cân đối nguồn lực trong cả giai
đoạn. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công, là
3


tiền đề để đạt được 3 mục tiêu lớn của quản lý chi tiêu công đó là: tính
tuân thủ tài khóa, hiệu suất phân bổ và hiệu suất kỹ thuật.
- Khắc phục tình trạng “ngân sách kép”: Kế hoạch tài khóa trung hạn
mang ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục tồn tại của việc “lập
ngân sách kép”, tức là tình trạng tách biệt tương đối giữa chức năng
quản lý ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư. Đây là
một nguyên nhân làm nảy sinh những tồn tại như đầu tư công quá mức
và dàn trải, đầu tư công không gắn kết chặt chẽ với khả năng ngân
sách (dẫn đến tình trạng nợ công tăng cao), không cân nhắc đầy đủ đến
tác động dài hạn của các dự án đầu tư công tới việc gia tăng chi tiêu
thường xuyên (như các chi phí bảo trì, bảo dưỡng, vận hành sau đầu
tư) và không có sự cân bằng phù hợp giữa chi tiêu thường xuyên và chi
tiêu đầu tư… Do đó kế hoạch nên mang tính định hướng, hàng năm

trên cơ sở kế hoạch tài chính, đầu tư công trung hạn, chúng ta mới làm
dự toán ngân sách, từ đó mới xác định số chi giuos cân đối trong việc
chi đầu tư và chi ngân sách thường xuyên.
- Tác động tới quá trình đầu tư công: Việc xây dựng kế hoạch đầu tư
công trung hạn 5 năm sẽ cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về khả
năng cân đối vốn đối với các dự án đã, đang và sẽ triển khai. Trên cơ
sở biết rõ tổng mức đầu tư công trung hạn, các Bộ, ngành, địa phương
có thể chủ động phân bổ, sử dụng hiệu quả nhất trong 5 năm và tránh
tình trạng bị động, mất cân đối trong bố trí vốn ngân sách. Thêm vào
đó, quy định chặt chẽ trong việc bố trí vốn đầu tư công trung hạn đã
làm thay đổi đáng kể nhận thức của các cấp, các ngành và địa phương
về tầm quan trọng của khâu chuẩn bị đầu tư, nhất là chủ trương đầu tư,
khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải.
Kế hoạch tài chính trung hạn sẽ là một bước tiến cao hơn, dài hạn hơn,
thay vì với từng dự án thì sẽ cân đối tổng thể nhu cầu về đầu tư trong 5 năm. Từ
đó, đảm bảo các dự án sẽ được chỉ ra nguồn lực đầy đủ và việc sử dụng cũng
tương đối linh hoạt vì nằm trong kế hoạch 5 năm. Kế hoạch tài chính trung hạn
đóng vai trò quan trọng trong việc là bố trí, phân bổ nguồn lực, bổ sung nguồn
lực hợp lý nhất, đúng thời điểm, đúng quy mô để đạt được các mục tiêu về phát
triển kinh tế - xã hội.
Ở cả cấp Trung ương và địa phương, khi gắn với kế hoạch tài chính trung hạn sẽ
giảm tình trạng đầu tư tràn lan, dàn trải, hay phải điều chỉnh tổng mức đầu tư,
kinh phí đầu tư.
II.

PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUÔN KHỔ
TÀI CHÍNH TRUNG HẠN (LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2015)
4



Mô hình chính sách tài khóa khuôn khổ trung hạn được các nước trên thế
giới áp dụng hiệu quả trong quá trình quản lý kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, mô hình này còn khá mới và đang được thí điểm tại một số tỉnh
trong khoảng một vài năm trở lại đây. Đây vừa là cơ hội, cũng vừa là một thách
thức lớn cho nước ta trong quá trình hoàn thiện việc quản lý kinh tế - xã hội.
Trong năm 2008, Quốc hội đã thông qua Thông tư số 55/2008/TT-BTC
của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thí điểm xây dựng kế hoạch tài chính trung
hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn giai đoạn 2009 – 2011; Thông tư trên nhằm
làm rõ các thuật ngữ, đặc biệt về khuôn khổ tài chính trung hạn “Kế hoạch tài
chính (KHTC) trung hạn là kế hoạch ngân sách cấp quốc gia hoặc cấp địa
phương trong thời gian trung hạn (từ 3 đến 5 năm), kể từ năm dự toán ngân
sách tiếp theo, được lập hàng năm theo phương thức "cuốn chiếu". Trong đó
trình bày dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, về khả năng cân đối thu - chi
ngân sách; các nguyên tắc cân đối đảm bảo tính bền vững của ngân sách trong
trung hạn dựa trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và dự báo các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, những chính sách tài chính - ngân sách của Nhà nước
hiện hành sẽ tiếp tục thực hiện và dự kiến sẽ thực hiện trong giai đoạn trung
hạn. Mặt khác KHTC trung hạn thể hiện thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn lực ngân
sách trong trung hạn đối với từng ngành, lĩnh vực chi trong phạm vi cả nước
hoặc từng địa phương. Đồng thời trình bày một số giải pháp chủ yếu để cân đối
giữa nhu cầu chi và khả năng nguồn lực tài chính công, đưa ra các cảnh báo về
nợ dự phòng.” Và quy định cụ thể, minh bạch về việc thí điểm KHTC trung hạn
trong năm 2009 – 2011.
Luật Ngân sách nhà nước 2015 (có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách
2017) đã quy định rõ ràng về Khuôn khổ tài khóa trung hạn qua hai điều luật;
Điều 17 về “Kế hoạch tài chính 5 năm” và Điều 43 “Kế hoạch tài chính – ngân
sách nhà nước 3 năm”; đồng thời cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước trong việc thi hành và đảm bảo kế hoạch được thực hiện đúng
quy trình, đúng mục đích.

 Điều 17 về Kế hoạch tài chính 5 năm quy định:
1. Kế hoạch tài chính 05 năm là kế hoạch tài chính được lập trong thời hạn
05 năm cùng với kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 05 năm. Kế hoach tài
chính 05 năm xác định muc tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể về tài chính –
ngân sách nhà nước; các định hướng lớn về tài chính, ngân sách nhà
nước; số thu và cơ cấu thu nội địa, thu dầu thô, thu cân đối từ hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu; số chi và cơ câu chi đầu tư phát triển, chi trả nợ,
chi thường xuyên; định hướng về bội chi ngân sách; giới hạn nợ nước
ngoài của quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; các giải pháp chủ yếu để
thực hiện kế hoạch.
2. Kế hoạch tài chính 5 năm được sử dụng để:
a) Thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia, ngành,
lĩnh vực và địa phương; cân đối, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính
5


công và ngân sách nhà nước trong trung hạn; thúc đẩy việc công khai,
minh bạch
b) Làm cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định kế hoạch đầu tư
trung hạn nguồn ngân sách nhà nước;
c) Định hướng cho công tác lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, kế
hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm.
3. Kế hoạch tài chính 05 năm gồm kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia và
kế hoạch tài chính 05 năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
4. Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì xây dựng kế hoạch tài chính 05
năm quốc gia trình Chính phủ báo cáo Quốc hội; Sở Tài chính có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm của địa phương mình trình Ủy
ban nhân dân cùng cấp báo cáo Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định
cùng với thời điểm trình dự toán ngân sách năm đầu kỳ kế hoạch.
5. Chính phủ quy định chi tiết việc lập kế hoạch tài chính 05 năm.

- Yêu cầu đề ra với kế hoạch tài chính 5 năm:
Việc lập kế hoạch tài chính 5 năm phải phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp đề ra trong Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội; các
chiến lược về tài chính, nợ công, cải cách hệ thống thuế; mục tiêu, chỉ tiêu, định
hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm kế hoạch của cả nước, địa phương; phù
hợp với dự báo tình hình kinh tế - xã hội, khả năng cân đối nguồn thu ngân sách
nhà nước, huy động và trả nợ và các yêu cầu giới hạn an toàn tài chính quốc gia
trong thời gian 5 năm kế hoạch; phù hợp với các nguyên tắc cân đối, quản lý,
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước, nguyên tắc quản lý an
toàn nợ công; ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước để thực hiện các chủ trương,
chính sách lớn của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể.
- Mục tiêu tổng quát của kế hoạch tài chính 05 năm hướng tới là:
Thứ nhất, Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế
cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và
sức cạnh tranh. Phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân.
Thứ hai, Lên kế hoạch chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý
hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh,
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Cuối cùng, Là đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ
động hội nhập quốc tế. Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, áp dụng tiêu
chuẩn của các nước tiên tiến về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam, nâng cao nhận thức và khả năng vận dụng các
quy định quốc tế về chỉ dẫn địa lý, nguồn gốc xuất xứ, bản quyền, thương hiệu...
Thực hiện tốt công tác cảnh báo sớm về các biện pháp phòng vệ thương mại của
các nước đối tác. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, tạo đồng thuận trong
nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế trong công cuộc xây dựng và

6


bảo vệ đất nước.Tạo thuận lợi để kiều bào tham gia xây dựng và bảo vệ đất
nước. Làm tốt công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài. Giữ gìn hòa bình, ổn
định, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Mục tiêu cụ thể về tài chính ngân sách – nhà nước là áp dụng hiêu quả
Luật ngân sách nhà nước, Luật phí và lệ phí và các luật thuế. Quản lý chặt chẽ
thu, chi ngân sách nhà nước, bảo đảm thu đúng, thu đủ, chống thất thu, giảm nợ
đọng thuế. Cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát
triển; kiểm soát chặt chẽ, cơ cấu lại, sử dụng hiệu quả nợ công và bảo đảm các
giới hạn nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia theo Nghị quyết của Quốc hội.
Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả vốn vay, giảm dần vay bảo lãnh Chính
phủ, vay để cho vay lại; kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của chính quyền địa
phương và các quỹ đầu tư có nguồn gốc từ ngân sách.
- Định hướng về tài chính, ngân sách nhà nước:
Đẩy mạnh cơ cấu lại thu, chi ngân sách: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư công; siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính; quản lý, kiểm soát chặt chẽ nợ
công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
Quyết tâm thu đạt và vượt dự toán: Hạn chế tối đa việc đề xuất, ban hành
các chính sách mới làm giảm thu ngân sách nhà nước (trừ các cam kết quốc tế);
Đồng thời tiếp tục theo dõi chặt chẽ biến động thị trường tài chính, tiền tệ,
thương mại thế giới; phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, hải quan tăng cường
quản lý thu, chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, xử lý nợ
đọng thuế; thực hiện các giải pháp phù hợp để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp
thời các khoản phát sinh. Quản lý chặt chẽ các khoản thu, nhất là thu qua hình
thức khoán; mở rộng cơ sở thuế; kiểm soát chặt chẽ giá tính thuế hải quan, nhất
là những mặt hàng có giá trị lớn, thuế suất cao như: ô tô (bao gồm cả ô tô được

biếu, tặng), hàng mỹ phẩm, hàng tạm nhập tái xuất…
Quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ: Hạn chế các khoản chi chuyển
nguồn ngân sách nhà nước; hạn chế tối đa việc ứng trước dự toán ngân sách nhà
nước năm sau. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đầu tư; nâng cao
hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng; không để phát sinh nợ
đọng xây dựng cơ bản mới. Tăng cường công tác quyết toán dự án hoàn thành
thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước, xử lý vi phạm trong công tác quyết toán
dự án hoàn thành. Chủ động rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi; lồng ghép các
chính sách, tiết kiệm triệt để các khoản chi ngay từ khâu phân bổ dự toán và cả
trong quá trình thực hiện; giảm tối đa và công khai các khoản chi hội nghị, hội
thảo, khánh tiết, lễ hội, động thổ, khởi công, khánh thành công trình; hạn chế bố
trí kinh phí đi nghiên cứu, khảo sát nước ngoài; hạn chế mua sắm ô tô công và
7


trang thiết bị đắt tiền; mở rộng thực hiện khoán xe ô tô công đảm bảo hợp lý,
hiệu quả, tiết kiệm.
Đảm bảo cân đối ngân sách địa phương: Các địa phương chủ động điều
hành đảm bảo cân đối ngân sách địa phương, tổ chức chi ngân sách theo dự toán
đã được cấp có thẩm quyền thông qua và khả năng thu ngân sách; điều hành chi
trong phạm vi dự toán chi được giao và tiến độ một số nguồn thu gắn liền với dự
toán chi đầu tư phát triển (thu tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết,...); phấn đấu
tăng thu vượt dự toán được cấp có thẩm quyền quyết định và chủ động dành
nguồn để thực hiện các chính sách Nhà nước đã ban hành, giảm nguồn ngân
sách trung ương phải hỗ trợ. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra
các khoản chi ngân sách trong phạm vi quản lý và theo chức năng, nhiệm vụ
được giao; đảm bảo vốn ngân sách được sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ,
tiết kiệm, hiệu quả. Rà soát các chế độ, chính sách an sinh xã hội, nhất là các
khoản chi cho con người để đảm bảo chi đúng đối tượng, đúng thời gian theo
quy định của từng cấp chính quyền địa phương các cấp.

Trường hợp ngân sách địa phương dự kiến bị giảm thu, phải chủ động
dành nguồn dự phòng ngân sách địa phương và sử dụng các nguồn tài chính
khác của địa phương để bù đắp hoặc phải điều chỉnh để giảm chi tương ứng.
Cắt giảm dự toán một số khoản chi thường xuyên: Tăng cường công tác
quản lý, kiểm tra, giám sát đầu tư; nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát,
lãng phí, tham nhũng; không để phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản mới. Tăng
cường công tác quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn ngân sách nhà
nước, xử lý vi phạm trong công tác quyết toán dự án hoàn thành. kiểm soát chặt
chẽ các khoản vay, hạn chế tối đa việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản
vay mới, không chuyển vốn vay về cho vay lại, bảo lãnh Chính phủ thành vốn
cấp phát ngân sách nhà nước; thực hiện đánh giá đầy đủ các tác động lên nợ
công, nợ chính quyền địa phương và khả năng trả nợ trong trung hạn của ngân
sách trung ương, ngân sách địa phương, trước khi thực hiện các khoản vay mới.
Đẩy mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Thực hiện
quản lý, điều hành giá các mặt hàng Nhà nước còn định giá, các mặt hàng thuộc
diện bình ổn giá, các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu (xăng dầu, điện, dịch vụ sự
nghiệp công,...) theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phối hợp
chặt chẽ với Bộ Tài chính để quyết định thời điểm, mức điều chỉnh, hạn chế tác
động lớn đến mặt bằng giá cả thị trường chung, sản xuất và đời sống nhân dân,
đảm bảo hài hòa lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước. Đẩy
mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại
doanh nghiệp theo lộ trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt. tăng cường quản
lý tài chính doanh nghiệp, đẩy mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước.
 Điều 43 về Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 3 năm quy
định:
8


1. Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm là kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước được lập hằng năm cho thời gian 03 năm, trên cơ sở

kế hoạch tài chính 05 năm, được lập kể từ năm dự toán ngân sách và 02
năm tiếp theo, theo phương thức cuốn chiếu. Kế hoạch này được lập cùng
thời điểm lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm nhằm định hướng
cho công tác lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm; định hướng thứ
tự ưu tiên phân bổ nguồn lực cho từng lĩnh vực và từng nhiệm vụ, hoạt
động, chế độ, chính sách cho từng lĩnh vực trong trung hạn.
2. Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm gồm kế hoạch tài chính
- ngân sách nhà nước 03 năm quốc gia và kế hoạch tài chính - ngân sách
nhà nước 03 năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Nội dung gồm:
dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, những chính sách ngân sách quan
trọng; dự báo về số thu, chi và cơ cấu thu, chi; dự báo về số bội chi ngân
sách; xác định các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước và thứ tự ưu
tiên phân bổ nguồn lực ngân sách, trần chi tiêu cho các lĩnh vực, nhiệm
vụ chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, chi thường xuyên; dự báo về nghĩa vụ
nợ dự phòng và các giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch trong thời
hạn 03 năm.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
trung ương, các cơ quan, đơn vị ở cấp tỉnh lập kế hoạch tài chính - ngân
sách nhà nước 03 năm, nội dung gồm: mục tiêu, nhiệm vụ, chế độ, chính
sách chủ yếu của ngành, cơ quan, đơn vị; dự báo các nguồn lực tài chính,
trong đó dự báo về số thu được giao quản lý, yêu cầu về chi ngân sách để
thực hiện; thể hiện nguyên tắc và cách thức xác định, sắp xếp thứ tự ưu
tiên thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách và dự kiến
phân bổ kinh phí trong tổng mức trần chi tiêu được cơ quan có thẩm
quyền xác định trước; các giải pháp chủ yếu để cân đối giữa nhu cầu chi
ngân sách và trần chi tiêu trong thời hạn 03 năm.
4. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp kế
hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm quốc gia, báo cáo Chính
phủ trình Quốc hội; Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và
Đầu tư tổng hợp kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình
Hội đồng nhân dân cùng cấp để tham khảo khi thảo luận, xem xét, thông
qua dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách nhà nước hằng
năm.
5. Chính phủ quy định việc lập kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03
năm.
- Yêu cầu của chính phủ đối với kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước
3 năm:
9


Nghị định quy định kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm phải
phù hợp với tình hình thực tế thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng phát triển
kinh tế- xã hội và tài chính 05 năm và hàng năm; dự báo trong thời gian 3 năm
kế hoạch; phản ánh đầy đủ các khoản thu ngân sách nhà nước và các khoản thu
khác theo quy định của pháp luật; chi ngân sách được lập theo cơ cấu lĩnh vực
và các khoản chi lớn, trong phạm vi trần chi ngân sách do cơ quan có thẩm
quyền thông báo; đảm bảo các nguyên tắc về cân đối, quản lý, phân cấp ngân
sách, quản lý nợ công theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý
nợ công….
- Mục tiêu của Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 3 năm:
Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm hiện hành và
dự báo tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu trong giai đoạn 03
năm kế hoạch; đánh giá xu hướng phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn 05
năm, từ năm liền trước năm hiện hành đến hết năm thứ 3 của giai đoạn kế hoạch,
so sánh với các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm
đã được Quốc hội quyết định.
- Nhiệm vụ của Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 3 năm:
Thứ nhất, Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm để triển khai kế
hoạch tài chính 5 năm, thể hiện những nội dung lớn về khung cân đối ngân sách

nhà nước và trần chi ngân sách cho các bộ, cơ quan, đơn vị và địa phương trong
thời gian 3 năm, có tính đến diễn biến tình hình kinh tế - xã hội và tài chính ngân sách hiện tại và cập nhật dự báo trong thời gian 3 năm kế hoạch, làm cơ sở
cho việc lập, xem xét, quyết định dự toán ngân sách nhà nước hằng năm.
Thứ hai, Xác định số thu, chi và cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước năm
dự toán và 02 năm tiếp theo, đảm bảo nguyên tắc: Đối với năm dự toán ngân
sách, dự toán thu ngân sách nhà nước được tổng hợp theo từng khoản thu và cơ
cấu thu nội địa, thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, thu viện trợ,
kèm theo thuyết minh các yếu tố tác động đến thu ngân sách; dự toán chi ngân
sách nhà nước được tổng hợp theo từng lĩnh vực chi và cơ cấu chi đầu tư phát
triển, chi thường xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi trả nợ lãi, chi viện trợ, các
khoản chi khác, kèm theo thuyết minh các yếu tố tác động đến chi ngân sách;
bội chi ngân sách nhà nước; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc
gia.
Thứ ba, Đối với 02 năm tiếp theo, dự báo thu ngân sách nhà nước gồm
tổng thu, số thu và cơ cấu theo thu nội địa, thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu, thu viện trợ, các yếu tố chủ yếu tác động đến thu ngân sách (nếu có);
dự báo chi ngân sách nhà nước gồm tổng chi, số chi và cơ cấu theo chi đầu tư
phát triển, chi thường xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi trả nợ lãi, chi viện trợ, các
khoản chi khác, các yếu tố chủ yếu tác động đến chi ngân sách (nếu có); bội chi
ngân sách nhà nước; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia; các
10


giải pháp tổ chức thực hiện, bao gồm cả phương án chủ động ứng phó với các
tình huống rủi ro (nếu xảy ra)…
 Nghĩa vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước đối với việc thực
hiện Khuôn khổ tài chính trung hạn:
- Khoản 3 Điều 19: Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội về “Quyết định kế
hoạch tài chính
05 năm.”.

- Khoản 2 Điều 25: Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ về “Lập và trình
Quốc hội kế
hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm”.
Sau khi lấy ý kiến trong Chính phủ hoặc trong Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ sẽ ban hành tài liệu chính sách và chiến lược tài khóa trong đó vạch
ra các mục tiêu chính sách tài khóa cho ngân sách của trung ương và địa
phương. Tài liệu này nhằm hướng dẫn lập ngân sách Nhà nước cho năm ngân
sách mới, có cân nhắc các mục tiêu hoặc các chỉ tiêu về nợ và ngân sách cũng
như nguồn lực sẵn có trong trung hạn
- Khoản 1 Điều 26: Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài chính về “Chuẩn bị
các dự án luật
pháp lệnh, kế hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước
03 năm, các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách, trình Chính phủ; ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách theo
thẩm quyền.”
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp kế
hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 3 năm quốc gia báo cáo Chính Phủ trình
Quốc hội để tham khảo khi thảo luận, xem xét, thông qua dự toán ngân sách nhà
nước và phườn án phân bổ ngân sách trung ương hàng năm.
- Khoản 2 Điều 27: Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Phối
hợp với Bộ
Tài chính và các bộ, cơ quan có liên quan xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm,
dự toán ngân sách nhà nước hằng năm và kế hoạch tài chính - ngân sách nhà
nước 03 năm.”
- Điều 29: Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và
cơ quan khác ở trung ương
1. Lập dự toán ngân sách hằng năm, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03
năm của cơ quan mình.
11



2. Phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan có liên quan trong quá trình
tổng hợp dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương
hằng năm, kế hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước
03 năm, quyết toán ngân sách hằng năm thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
- Khoản 9 Điều 31: Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp
“Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều này còn có nhiệm vụ:
a) Lập và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các nội dung quy định
tại khoản 9 Điều 30 của Luật này;
b) Lập kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm theo quy định tại Điều
43 của Luật này;
c) Quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính và các quỹ tài chính khác của Nhà
nước theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
- Khoản 1 Điều 32: Nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị dự toán ngân sách
“Lập dự toán thu, chi ngân sách hằng năm; thực hiện phân bổ dự toán ngân sách
được cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ
dự toán theo thẩm quyền; lập kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm
thuộc phạm vi quản lý theo quy định tại Điều 43 của Luật này.”
Là chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể các phương pháp,
các hình thức và công cụ để quản lý hoạt động tài chính của các đơn vị sự
nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Để đạt được những mục tiêu đề ra, công tác quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp
nói chung và đơn vị dự toán ngân sách nói riêng phải đạt được 3 mục tiêu cơ
bản: Thứ nhất, lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước trong phạm vi được cấp
có thẩm quyền giao hàng năm; Thứ hai, tổ chức chấp hành dự toán thu, chi tài
chính hàng năm theo chế độ, chính sách của Nhà nước; Thứ ba, quyết toán thu,
chi ngân sách Nhà nước.


KẾT LUẬN
Việc lập kế hoạch tài chính trung hạn đòi hỏi các nhà hoạch định chính
sách phải xem xét tới tất cả các ngành, các chương trình, dự án để tái cơ cấu các
khoản chi nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu chính sách đã đặt ra cũng như
trong Kế hoạch phát triển kinh tế xẽ hội. Kế hoạch này giúp chuyển tải các mục
tiêu và hạn chế tài khóa vĩ mô vào tổng ngân sách và các kế hoạch chi cụ thể
theo ác ưu tiên chi tiêu chiến lược.
12


Tuy nhiên, sự thành công của việc triển khai kế hoạch tài chính trung hạn
và các tác động đối với quản lý ngân sách và hoạt động tài khóa là khác nhau và
được quyết định bởi nhiều điều kiện khác nhau. Khuôn khổ tài khóa trung hạn là
dự báo tài khóa vĩ mô trung hạn (bao gồm tổng thu, chi và cân đối) và là một
bản trình bày các mục tiêu chính sách tài khóa và chỉ tiêu nhất quán với việc ổn
định kinh tế vĩ mô và bền vững tài khóa. Khuôn khổ tài khóa trung hạn được xây
dựng dựa trên những dự báo kinh tế vĩ mô trung hạn thực tế và nhất quán trong
nội bộ. Các thực hành tốt cùng với việc đánh giá các rủi ro tài khóa một cách
minh bạch sẽ hỗ trợ quá trình dự báo được chính xác hơn.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã và đang thực hiện phương pháp xây
dựng ngân sách dựa vào kết quả, như kế hoạch tài chính và khuôn khổ chi tiêu
trung hạn (MTFF và MTEF). Đây là những phương pháp tạo ra cơ sở để xây
dựng ngân sách hàng năm cũng như giúp cho quốc hội giám sát để đảm bảo sử
dụng ngân sách hiệu quả và kinh tế.
Riêng ở Việt Nam, việc đưa ra các phân tích kinh tế vĩ mô và dự báo thu
toàn diện , quản lý nợ hiệu quả, mối gắn kết giữa kế hoạch 5 năm và kế hoạch 3
năm cũng như việc tích hợp kế hoạch đầu tư các năm tại cả cấp trung ương và
địa phương sẽ là những yếu tố them chốt cho thành công của việc triển khai kế
hoạch tài chính trung hạn.


13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Luật Ngân sách nhà nước”.
2. Luật Ngân sách nhà nước 2015.
3. Thông tư số 55/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính : Hướng dẫn thí điểm xây

dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn giai
đoạn 2009 – 2011.
4. Nghị định số 45/2017/NĐ-CP
5. Website:

 /> /> /> /> />
14



×