Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.68 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ THU HỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2002


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

CHƯƠNG I
TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I/ Tổng quan tín dụng:
1/ Khái niệm tín dụng, cơ sở ra đời của tín dụng, các hình thức tín dụng và
phân loại tín dụng.
1.1 Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, mối
quan hệ kinh tế đó nảy sinh do người đi vay sử dụng một lượng giá trò (tiền tệ
hay hàng hoá) nhất đònh của người cho vay và phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau
một kỳ hạn tín dụng nhất đònh. Phạm trù kinh tế này gắn liền với sản xuất hàng
hoá và lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá
thì ở đó có tín dụng tồn tại, hoạt động và phát huy tác dụng.
Như vậy tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trò (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trò lớn hơn giá trò


ban đầu với những điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận.
Khác với quan hệ mua bán thông thường, trong quan hệ tín dụng chỉ có
một bên trao giá trò còn một bên nhận giá trò, và sự hoàn trả chỉ xảy ra sau một
thời gian, thực chất đó là mối quan hệ kinh tế được xác lập trên cơ sở của lòng
tin giữa các chủ thể kinh tế với nhau phản ánh hành vi mua và bán quyền sử
dụng vốn. Chính lẽ đó sự vận động của tín dụng luôn mang tín chất động lực
của các quan hệ kinh tế.
1.2 Cơ sở ra đời của tín dụng:
Cơ sở ra đời hoạt động của tín dụng bắt nguồn từ sự phân công lao động
xã hội và xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Nhìn vào lòch sử phát triển xã hội chúng ta có thể thấy được tín dụng ra
đời khi có sự phân công lao động xã hội và xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động
Trang 1


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

xã hội được mở rộng thì quan hệ hàng - tiền (H-T) cũng được hình thành, trong
một thời kỳ này của cải vật chất được tập trung trong tay một ít người nắm
được tư liệu sản xuất. Đại bộ phận các thành viên khác của xã hội có thu nhập
thấp thường xuyên thiếu thốn tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong điều
kiện như vậy đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải quyết được mâu thuẩn nội
tại của xã hội thực tiển điều hòa nhu cầu kòp thời của cuộc sống. Trong hoàn
cảnh khó khăn của những người sản xuất nhỏ phải gánh chòu mọi nổi khổ, rủi
ro và đứng trước nhu cầu bức thiết của các con nợ nên các chủ nợ nâng lãi suất
lên cao nhất. Với lãi suất cho vay rất cao do cung nhỏ hơn cầu nên người đi vay
chỉ sử dụng tiền vay vào mục đích tiêu dùng cho nên quan hệ tín dụng trong

thời gian này là tín dụng nặng lãi. Tín dụng nặng lãi nảy sinh mâu thuẩn và
kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Từ khi chủ nghóa tư bản ra đời với quy mô đầu tư sản xuất kinh doanh
lớn mạnh về cả chiều rộng và chiều sâu nên các nhà tư bản rất cần bổ sung
vốn ngày càng nhiều. Tín dụng cho vay nặng lãi không thể đáp ứng được nhu
cầu về vốn đối với nền kinh tế. Một mặt các nhà tư bản nhờ can thiệp bằng
luật pháp mặt khác họ tự góp vốn lại cho nhau vay với lãi suất vừa phải. Tín
dụng cho vay nặng lãi không thể còn tồn tại được nữa, thay vào đó là hệ thống
tín dụng tiến bộ hơn phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế hiện đại tín dụng được bắt nguồn từ các yêu cầu
khách quan của sản xuất hàng hóa, lưu thông hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng.
Trong lónh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa, tín dụng bắt nguồn từ sự
tuần hoàn của vốn và nhu cầu đầu tư.
Trong lónh vực tiêu dùng, tín dụng bắt nguồn từ việc giải quyết các mâu
thuẩn giữa các chu kỳ thu nhập và chu kỳ tiêu dùng.
Tóm lại: Sự ra đời của tín dụng bắt nguồn từ hai điều kiện cơ bản là sự
phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Và trong nền
kinh tế hiện đại, tín dụng còn bắt nguồn từ đặc điểm của tuần hoàn và chu

Trang 2


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

chuyển vốn, yêu cầu của quá trình đầu tư và tiết kiệm gắn với thu nhập và tiêu
dùng đều đòi hỏi phải có tín dụng.
1.3 Các hình thức tín dụng.
Quan hệ tín dụng tồn tại dưới các hình thức sau:

Tín dụng Nhà nước: Thực chất là Nhà nước vay tiền của nhân dân trong
một thời gian nhất đònh.
Tín dụng thương mại: Thực chất là mua bán chòu lẫn nhau. Hình thức
này tồn tại trong thời kỳ quá độ ở nước ta, nó không phải là hình thức đặc trưng
của chủ nghóa xã hội. Mặt trái của hình thức này nếu không quản lý tốt và luật
pháp không nghiêm dễ phát sinh sự vỡ nợ có tính dây chuyền làm đình đốn sản
xuất kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng: Quan hệ về vốn giữa người đi vay với ngân hàng.
Đây là hình thức tín dụng cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thò trường.
1.4 Phân loại tín dụng.
Việc phân loại tín dụng hiện nay được thực hiện theo một số tiêu thức
sau:
Thứ nhất: Căn cứ vào thời hạn cho vay, tín dụng ngân hàng được
chia làm 3 loại như sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: Thời gian cho vay dưới 1 năm, tín dụng thường
được sử dụng để bổ sung tạm thời thiếu hụt vốn lưu động của các doanh
nghiệp.
+ Tín dụng trung hạn: Thời gian cho vay từ 1 năm đến 5 năm, loại tín
dụng này chủ yếu đầu tư mua sắm tài sản cố đònh, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng sản xuất và xây dựng các xí nghiệp có quy mô nhỏ, thời gian thu hồi
vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Thời hạn cho vay trên 5 năm, loại tín dụng này là để
đầu tư xây dựng mới các xí nghiệp, cải tiến mở rộng sản xuất với qui mô càng
ngày càng lớn, đổi mới kỹ thuật công nghệ…

Trang 3


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế


Trần Thò Thu Hồng

Thứ hai: Căn cứ vào mục tiêu sử dụng, tín dụng được chia làm hai
loại:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Đáp ứng nhu cầu vốn cho
các doanh nghiệp để mở rộng quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa cho tất
cả các ngành kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng cơ bản, thương nghiệp, du lòch và các hoạt động dòch vụ khác.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng cá
nhân: ở những nước có nền kinh tế phát triển thì tín dụng tiêu dùng ngày càng
được phát triển rộng rãi, tín dụng tiêu dùng dưới hình thức thẻ tín dụng ngày
càng được sử dụng một cách phổ biến.
Thứ ba: Căn cứ vào mức độ tín nhiệm:
+ Tín dụng không đảm bảo: Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh có hiệu quả được ngân hàng tin tưởng thì có thể cung cấp vốn tín dụng
không đảm bảo, tức là không cần đến vật tư, hàng hóa thế chấp (tín chấp).
+ Tín dụng đảm bảo: Đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh hiệu quả thấp (năng lực tài chính không đản bảo, ít quan hệ với ngân
hàng) khi cho vay, ngân hàng yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Mục đích của
cho vay có đảm bảo là đề phòng gặp rủi ro khi khách hàng không trả nợ được,
ngân hàng sẽ phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Như vậy sự hoạt động của tín dụng ngân hàng có khả năng thu hút được
nguồn vốn rất lớn trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thò trường.
Như chúng ta đã biết bất kỳ một doanh nghiệp nào, ngành kinh tế kỹ
thuật nào, muốn hoạt động được phải co vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của
một công ty, một xí nghiệp đó là vốn pháp đònh (hoặc vốn điều lệ) phải có:
Vốn kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào, ngành kinh tế kỹ thuật
nào cũng chia thành hai loại cơ bản, đó là vốn mua sắm tài sản cố đònh và vốn

lưu động.
Trang 4


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

Vốn cố đònh được sử dụng để mua sắm máy móc thiết bò, đất đai, xây
dựng nhà xưởng đổi mới công nghệ…
Vốn lưu động dùng để dự trữ vật tư, hàng hóa, thành phẩm và chi phí
các khoản tiền lương, bảo hiểm xã hội…
Vốn cố đònh được tạo dựng trước và nó đặc trưng cho khả năng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Một đơn vò kinh doanh không đủ vốn để khai
thác hết năng lực tài sản cố đònh thì đơn vò đó được coi như thiếu vốn và ngược
lại nếu đơn vò đó đã khai thác hết khả năng, năng lực tài sản cố đònh mà vẫn
còn vốn, tức là đơn vò đó thừa vốn. Trong thực tế sản xuất kinh doanh không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng cần một lượng vốn bình quân như nhau, trong
ngày mà lượng vốn lưu động tăng, giảm thường xuyên trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Khi nhu cầu vốn tăng, các doanh nghiệp có thể đi vay ngân hàng,
còn khi có vốn nhàn rỗi các doanh nghiệp có thể gửi vào ngân hàng. Như vậy
bản thân mỗi doanh nghiệp có hai nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh đó là nguồn vốn tự có do mình bỏ ra và nguồn vốn đi vay. Vốn tự có của
các doanh nghiệp nhà nước là do ngân sách nhà nước cấp, vốn tự có của các
doanh nghiệp tư nhân là do các doanh nhân bỏ ra đầu tư. Còn các nguồn vốn
vay mượn của các doanh nghiệp nói chung được đáp ứng thông qua các tổ chức
ngân hàng.
Các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay theo hình thức tín dụng khác
nhau (ngắn hạn, trung dài hạn). Tùy thuộc vào mục đích sử dụng vốn, tính chất
kinh doanh và khả năng trả lãi và hoàn vốn của doanh nghiệp. Điều này cho

thấy vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thò trường là rất lớn, có
tác động tích cực đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Vai trò này có thể
được phân tích ở trong những khía cạnh được đề cập dưới đây:

Trang 5


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

2.1 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc tích lũy vốn từ nội bộ nền
kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng đóng vai trò trung gian giải quyết mâu
thuẫn phát sinh trong quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn của các doanh
nghiệp, đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được thực hiện.
Trong nền kinh tế thò trường, các doanh nghiệp hoạt động với tư cách là
các pháp nhân độc lập. Quá trình sản xuất kinh doanh là phải được tiến hành
liên tục, nhưng vấn đề tuần hoàn và luân chuyển vốn đã tạo ra sự không ăn
khớp về thời gian và khối lượng giữa vật tư hàng hóa phục vụ cho sản xuất kinh
doanh với tiêu thụ hàng hóa. Như vậy trong hoạt động của các doanh nghiệp sẽ
xảy ra hai trường hợp.
Hoặc có vốn hàng hóa chưa tiêu thụ, hoặc đã tiêu thụ và thu được tiền
nhưng chưa cần thiết phải mua vật tư, nguyên liệu dự trữ cho sản xuất.
Hoặc có nhu cầu mua vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nhưng
chưa có tiền.
Hiện tượng tạm thời thừa, thiếu vốn xảy ra không riêng một doanh nghiệp
nào đó mà thường xảy ra ở các loại hình doanh nghiệp, mặc dù sản xuất được

tiến hành liên tục nhưng việc mua nguyên liệu, vật tư và tiêu thụ sản phẩm lại
được tiến hành theo đònh kỳ.
Trong mỗi doanh nghiệp có lúc tạm thời thiếu vốn, nhưng đứng trên giác
độ tổng thể nhiều doanh nghiệp thì trong từng thời điểm nhất đònh sẽ có một
nhóm các nhà doanh nghiệp có vốn tạm thời chưa sử dụng, một nhóm các nhà
doanh nghiệp khác lại cần vốn bổ sung. Có hiện tượng này là do chu kỳ sản
xuất kinh doanh có tính thời vụ ở mỗi loại hình doanh nghiệp không giống
nhau, đây là hiện tượng khách quan, tồn tại trong quá trình tái sản xuất xã hội,
đồng thời nó nảy sinh mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn, chu chuyển vốn. Từ
những vấn đề được đánh giá ở trên, tín dụng đóng vai trò trung gian để giải
quyết sự ứ đọng vốn tạm thời ở doanh nghiệp này và bù đắp sự tạm thời thiếu
Trang 6


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

hụt vốn ở các doanh nghiệp khác. Trong phạm vi đó, tín dụng giữ vai trò điều
hòa vốn từ nơi tạm thời thừa vốn đến nơi tạm thời thiếu vốn mà không làm
tăng thêm cũng như làm giảm bớt tổng quỹ tiền tệ trong toàn xã hội.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng thu hút nguồn vốn tiết kiệm, thúc đẩy
quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, đáp ứng cho như cầu đầu tư phát
triển kinh tế.
Tín dụng thực hiện việc huy động vốn tiết kiệm của cá nhân, của các nhà
sản xuất kinh doanh, của Ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Mỗi
khoản tiết kiệm đều có mục đích nhất đònh, như cá nhân thì tiết kiệm để xây
dựng nhà cửa, mua sắm phương tiện đi lại. Nhà kinh doanh tiết kiệm để mở
rộng sản xuất…Trong thời gian chưa thực hiện được mục đích nhất đònh, những
người chủ có vốn này có thể gửi nó vào các tổ chức tín dụng để lấy lãi. Trong

trường hợp này tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, thông qua tín dụng
nhà nước cung cấp các phương tiện thanh toán phục vụ cho việc tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên hoạt động của tín dụng trong việc thu hút vốn tiết kiệm nhằm
bổ sung nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, nhưng không phải là rải đều cho
mọi doanh nghiệp mà thông qua các điều kiện nhất đònh để tín dụng được thực
hiện một cách tập trung có trọng điểm, chủ yếu cho các doanh nghiệp hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bảo
đảm tránh rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế
chậm phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào việc điều chỉnh
cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Trong nền kinh tế thò trường việc lựa chọn lónh vực đầu tư là quyền của
mỗi doanh nghiệp và chòu sự tác động điều tiết rất lớn của cơ chế thò trường.
Dưới tốc độ từng doanh nghiệp, việc tập trung đầu tư vào các lónh vực, các
ngành nghề mà điều kiện kinh doanh thuận lợi, lợi nhuận cao là điều hoàn toàn
hợp lý. Tuy nhiên trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cần có sự cân đối
Trang 7


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

trong cơ cấu kinh tế, cần phải có sự đầu tư vào các ngành kinh tế kém phát
triển, điều kiện sản xuất kinh doanh không thuận lợi nhưng rất cần thiết cho
nền kinh tế, bên cạnh đó các ngành kinh tế mũi nhọn cũng cần được đẩy mạnh
phát triển để tạo điều kiện lôi kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế
khác. Với chức năng phân phối lại các nguồn tài nguyên, quan trọng nhất là
vốn, cũng như thông qua chính sách tài trợ mà quan trọng nhất là lãi suất tín

dụng sẽ kích thích các ngành kinh tế cần được khuyến khích phát triển, góp
phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho từng thời kỳ ngày càng hợp lý hơn.
Thứ tư : Tín dụng Ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường
chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế sử dụng
vốn vay.
Đặc trưng của tín dụng là người đi vay phải hoàn trả vốn và lãi đúng thời
hạn được ghi trong hợp đồng tín dụng, nếu vi phạm phải chòu phạt về lãi suất
hoặc các biện pháp chế tài khác. Bằng các tác động như vậy đòi hỏi các doanh
nghiệp có sử dụng vốn tín dụng thường xuyên phải quan tâm đến hạch toán
kinh tế, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng vay của vốn, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn và đó cũng là điều kiện nâng cao lợi nhuận cho các danh nghiệp.
Thứ năm : Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh chiến lược kinh tế
cho phù hợp với nền kinh tế thò trường và đẩy lùi được lạm phát.
Nhà nước thông qua các công cụ tài chính tín dụng ngân hàng, nhằm khai
thác mọi tiềm năng của đất nước để điều chỉnh và chuyển dòch cơ cấu kinh tế
phát triển ngày càng hiện đại hơn.
Thông qua công cụ lãi suất, ngân hàng sử dụng nó một cách đúng đắn,
linh hoạt phù hợp với những điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ nhất đònh sẽ
có tác động trực tiếp và quan trọng đến việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, kích
thích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia mang tính chất
truyền thống, có thể làm thay đổi khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Vì vậy, tùy thuộc vào tình hình tiền tệ trong lưu thông mà ngân hàng trung
Trang 8


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng


ương tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại, nghóa
là tăng hay giảm khối lượng tiền tệ cung ứng trong lưu thông. Từ đó có khả
năng làm giảm và hạn chế lạm phát tiền tệ.
Thứ sáu :Tín dụng ngân hàng còn là công cụ để bình quân hóa tỷ suất
lợi nhuận giúp cho các nhà đầu tư vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh khi các
ngành cũ không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp.
Thứ bảy : Tín dụng ngân hàng góp phần làm mở mang, phát triển các
quan hệ kinh tế.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan nhưng việc mở rộng các
hình thức, các quan hệ tín dụng lại phụ thuộc vào điều kiện và đặc điểm kinh
tế của mỗi thời kỳ.
Trong những năm trước đây tín dụng ngân hàng đã từng chiếm đòa vò độc
tôn trong quan hệ tín dụng. Với mục đích đáp ứng mọi yêu cầu cho vốn sản
xuất, thông qua tín dụng thực hiện kiểm soát mọi hoạt động của các xí nghiệp
sản xuất kinh doanh, vai trò của tín dụng ngân hàng những năm trước đây đã
không phát huy đầy đủ tác dụng. Tình trạng cho vay bao cấp tập trung quá mức
đã hiểu như một loại cấp phát thứ hai, sau ngân sách, làm cho các quan hệ tín
dụng không phát huy được đấy đủ vai trò vốn có của nó.
Cùng với sự nghiệp cải tổ và đổi mới nền kinh tế đất nước, các quan hệ
tín dụng cũng được đổi mới đa dạng hơn, phong phú hơn. Loại tín dụng thương
mại biểu hiện quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được biểu hiện dưới
dạng mua bán chòu hàng hóa, trước đây chúng ta không chấp nhận nó thì hiện
nay nó đang dần dần được thực hiện nhiều. Tín dụng thương mại có vai trò tích
cực trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ
sản xuất hàng hóa, mở rộng thò trường quốc tế giao lưu với bên ngoài. Nhờ
hoạt động của tín dụng thương mại mà các doanh nghiệp chủ động khai thác
được vốn nhằm đáp ứng kòp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng nó
không thể thay thế cho hoạt động của tín dụng ngân hàng, bởi vì nó bò hạn chế
Trang 9



Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

về quy mô tín dụng. Nhưng cũng trong phạm vi đó, tín dụng thương mại tạo cơ
sở để cung cấp tín dụng ngân hàng bằng các công cụ lưu thông về kỳ phiếu,
hối phiếu…
Mặt khác tín dụng thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đó
cũng chính là điều hiện để mở rộng phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng.
Trong điều kiện đổi mới hoạt động của tín dụng ngân hàng không những phát
huy được vai trò vốn có của mình mà còn góp phần khắc phục các mặt hạn chế
của tín dụng thương mại, tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển.
Thực tế nước ta cũng đã chứng minh điều đó, từ khi thừa nhận các quan
hệ tín dụng thương mại, doanh số hoạt động của tín dụng ngân hàng không
giảm mà ngược lại ngày càng tăng.
2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thu hút vốn từ bên ngoài.
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Sau khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam được ban hành (tháng 12/1987) nhiều dự án đầu tư nước ngoài được đưa
vào và thực hiện ở nước ta, góp phần quan trọng vào việc bổ sung cho nguồn
vốn trong nước, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế, giải quyết việc làm,
chuyển giao công nghệ và làm tăng kim ngạch xuất khẩu và thu ngân sách qua
các năm. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là nguồn vốn do các doanh
nghiệp nước ngoài đem vào để đầu tư trực tiếp tạo ra những dòch vụ và hành
hóa kinh doanh. Đây là hình thức huy động vốn nước ngoài phổ biến ở nhiều
nước đang phát triển khi mà các luồng chuyển dòch vốn, công nghệ từ các nước
đã phát triển đi tìm cơ hội đầu tư ở các nước khác nhằm gia tăng khai thác lợi
thế so sánh giữa các nước. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể trông cậy hoàn

toàn vào nguồn vốn này bởi vì chúng ta bảo vệ lợi ích lâu dài của đất nước khi
chúng ta có nền kinh tế phát triển và hạn chế đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào việc thu hút
nguồn vốn đi vay của nước ngoài để đầu tư cho nền kinh tế.

Trang 10


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

Ngoài nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, việc vay nợ của nước
ngoài trong thời gian vừa qua cũng là nguồn tài trợ quan trọng để bù đắp thiếu
hụt ngân sách và phát triển kinh tế của nước ta. Nhiều năm qua nguồn vốn vay
nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn huy động, như vay
từ quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), vay từ ngân hàng thế giới (WB), vay từ ngân hàng
Châu Á (ADB), và từ nhiều tổ chức tài chính tín dụng khác để bù đắp thiếu hụt
ngân sách.
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng thực hiện việc bảo lãnh cho các doanh
nghiệp vay vốn từ nước ngoài.
Tóm lại: Nền kinh tế thò trường càng mở rộng và phát triển thì vai trò
của tín dụng ngân hàng càng được cũng cố và tăng cường, làm cho hoạt động
của tín dụng trở thành một trong những lónh vực hoạt động có vai trò to lớn tách
động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội.
Từ những vấn đề được trình bày ở trên có thể nói vai trò của tín dụng
ngân hàng góp phần thúc đẩy tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, góp
phần thúc đẩy việc thu hút vốn từ nước ngoài và mở mang các quan hệ kinh tế
quốc tế. Tín dụng ngân hàng góp phần điều tiết số lượng tiền tệ tạm thời nhà
rỗi và bổ sung hoặc rút bớt số tiền trong lưu thông cho phù hợp với sự tăng

trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng thực hiện tốt vai trò của mình, phần lớn
phụ thuộc vào chính sách tín dụng, có nghóa là phụ thuộc vào các hoạt động
chủ quan của các cơ quan quản lý trước hết là các ngân hàng. Chính sách ngân
hàng đúng đắn, phản ánh đúng quy luật khách quan thì hoạt động của tín dụng
mới có hiệu quả, bằng không sẽ đem lại hậu quả tai hại cho nền kinh tế, gây
trở ngại cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
II/ Rủi ro tín dụng và nhận diện rủi do tín dụng trong hoạt động kinh
doanh Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là ngành kinh doanh tiền tệ cũng như bao các
ngành khác, trong quá trình hoạt động của nó cũng chứa đầy rủi ro. Tuy nhiên
Trang 11


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

rủi ro trong ngân hàng xét ở nhiều khía cạnh khác nhau, cho thấy mức độ nguy
hiểm do rủi ro gây ra có tầm mức rất quan trọng nó không chỉ liên quan đến
bản thân một ngân hàng mà còn cả một hệ thống ngân hàng, liên quan đến nền
tài chính của một đất nước và cả những ngành kinh tế có liên quan. Chính vì
vậy ngành ngân hàng ở các nước được chính phủ quan tâm và quản lý rất chặt
chẽ.
Thật vậy, do đặc tính hoạt động của ngân hàng là biến đổi thời gian, quy
mô của các nguồn vốn trong xã hội và đem cho vay với những khoản vay mang
tính chất khác nhau do vậy trong quá trình chuyển hoá này đã hàm chứa sự rủi
ro. Thứ nữa quan hệ kinh doanh của ngân hàng dựa trên cơ sở chữ tín và nó
quan hệ với mọi đối tượng trong nền kinh tế, rất đa dạng và phức tạp do vậy
cũng hàm chứa sự rủi ro.

Hơn nữa do quá trình hoạt động của ngân hàng như ta nghiên cứu ở trên,
từ những khoản ký thác ban đầu ngân hàng và hệ thống ngân hàng tạo ra cung
cấp cho nền kinh tế một tín dụng thông qua bút tẽ rất lớn, và vốn tự có của
ngân hàng thường rất nhỏ so với vốn nó huy động được. Do vậy ở đây hàm
chứa một rủi ro lớn trong thanh khoản của ngân hàng.
Ngày nay cũng như các chủ thể kinh tế khác đang hoạt dộng trong nền
kinh tế theo cơ chế thò trường tính chất cạnh tranh phức tạp, môi trường kinh tế
luôn thay đổi, do vậy mà rất khó lường được điều gì sẽ xảy ra. Chính vì vậy rủi
ro trong ngân hàng càng nâng lên gấp bội.
Trong kinh doanh ngân hàng hiện nay thường có những rủi ro sau :
• Rủi ro về thanh khoản.
• Rủi ro về lãi suất.
• Rủi ro về tỷ giá.
• Rủi ro về tín dụng.
Trong bốn rủi ro trên thì rủi ro về tín dụng rất quan trọng liên quan tới
ba loại rủi ro trên. Hơn nữa trong kinh doanh ngân hàng hiện nay nghiệp vụ tín
dụng vẫn là nguồn thu lợi quan trọng và chủ yếu của ngân hàng, nó ngày càng
Trang 12


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

được mở rộng. Do vậy xác suất để xảy ra rủi ro cho ngân hàng ở nghiệp vụ tín
dụng là rất lớn.
Trong luậân văn này chủ yếu đi vào tìm hiểu rủi ro tín dụng của ngân
hàng thương mại.
1 . Khái niệm rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là sự xuất hiện các biến cố không bình thường làm cho

người đi vay không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ cả vốn và lãi vay cho
Ngân hàng theo đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng.
Đây là một loại rủi ro gắn liền với hoạt động chính của Ngân hàng, cho
vay bao giờ cũng gồm rủi ro và mất mát. Loại rủi ro này là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà quản lý Ngân hàng bởi vì như chúng ta đã biết “hoạt động tín
dụng là hoạt động đem lại lợi nhuận trên 80% lợi nhuận cho Ngân hàng”. Các
Ngân hàng luôn tìm kiếm lợi nhuận tối đa qua viêc tìm kiếm những lợi nhuận
cao nhất có thể có ở các món cho vay và chứng khoán. Đồng thời, Ngân hàng
cũng cố gắng hạn chế rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, bời vì rủi ro tín
dụng có tác dụng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại,
làm Ngân hàng bò thu hẹp nguồn lợi nhuận và có thể dẫn đến tình trạng phá
sản nếu không có sự giúp đỡ của các Ngân hàng lân cận và Ngân hàng Trung
ương.
Rủi ro tín dụng hình thành trong mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách
hàng vay vốn. Nó biểu hiện ở hai mức độ từ thấp đến cao :
Mức độ thấp : rủi ro khê đọng
Loại rủi ro này xảy ra khi khách hàng hoàn trả nợ chậm trễ so với hợp
đồng (nợ quá hạn) rủi ro đọng vốn. Rủi ro khê đọng thường xảy ra trong trường
hợp khách hàng tạm thời khó khăn về ngân quỹ hoặc gặp khó khăn trong sản
xuất kinh doanh ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp. Trường hợp này
Ngân hàng vẫn có khả năng thu hồi được nợ vì khách hàng có ý muốn trả nợ
nhưng hiện tại khó khăn nên không hoàn trả được nợ gốc lẫn lãi. Tuy nhiên,
nếu Ngân hàng không có những biện pháp ngăn chặn, khắc phục tình trạng này
Trang 13


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng


một cách kòp thời thì nó dẫn đến rủi ro ở mức độ cao hơn. Đó chính là rủi ro
khách hàng không có khả năng trả nợ.
Mức độ cao : rủi ro vỡ nợ
Ở mức độ này, khách hàng không còn khả năng để trả nợ cho Ngân hàng.
Nguyên nhân của loại rủi ro này có thể do khách hàng thất bại lớn trong kinh
doanh, từ đó không còn khả năng trả nợ, tuy nhiên vẫn không loại trừ khả năng
về ý đồ trả nợ không tốt của khách hàng. Từ đó làm cho Ngân hàng coi như bò
mất khoản vốn đã cho khách hàng vay nếu như trước khi vay Ngân hàng không
yêu cầu khách hàng có vật bảo đảm…
Chỉ tiêu đo lường :

Hay

Rủi ro tín dụng = Các khoản cho vay quá hạn
Tổng dư nợ

Rủi ro tín dụng =

Các khoản cho vay với chất lượng trung bình
Tích sản

Như vậy, rủi ro tín dụng gia tăng nếu Ngân hàng có nhiều khoản cho vay
với chất lượng trung bình, tuy nhiên chất lượng tín dụng như vậy thì lợi nhuận
cũng cao.
Một Ngân hàng giao dòch ngoại hối phải có giới hạn việc tham gia vào
các loại tiền tệ khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa đủ để
các thiệt hại có thể bù đắp bằng các lợi tức khác. Hơn nữa, Ngân hàng phải
cảnh giác không chỉ với những thay đổi về tỷ giá hối đoái, mà cả với các
nguyên nhân của những thay đổi ấy để có thể áp dụng các biện pháp giảm bớt
rủi ro.

2. Hậu quả do rủi ro tín dụng gây ra.
Với vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế thò trường, Ngân hànglà
công cụ điều tiết nền kinh tế của Nhà nước, là trung tâm thần kinh của toàn bộ
nền kinh tế. Như vậy khi Ngân hàng gặp rủi ro thì không chỉ tác động xấu đến

Trang 14


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

bản thân Ngân hàng đó mà thôi, nó còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đồi với
toàn bộ nền kinh tế của một nước nói riêng và nền kinh tế khu vực nói chung.
2.1. Trong quan hệ đối nội.
2.1.1 Đối với bản thân Ngân hàng bò rủi ro.
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, nó sẽ gây ra những hậu quả vô cùng tai hại cho
Ngân hàng.
Về mặt tài chính :
Do không thu hồi được nợ (vốn gốc + lãi), tình trạng Ngân hàng bò đóng
băng nguồn vốn không thể sinh lãi, trong khi đó Ngân hàng vẫn phải chi trả
tiền lãi đầu vào của nguồn vốn huy động. Từ đó làm cho lợi nhuận của Ngân
hàng bò giảm xuống, nguồn vốn của Ngân hàng không được mở rộng mà còn
thu hẹp lại. Tình trạng này nếu kéo dài có thể dẫn đến trường hợp Ngân hàng
mất khả năng thanh toán và Ngân hàng sẽ phá sản là điều tất yếu.
Về mặt xã hội :
Từ rủi ro tín dụng dẫn đến rủi ro thanh khoản gây mất tin trong nhân dân,
tạo tâm lý không ổn đònh, khách hàng ồ ạt rút tiền về. Do làm ăn thua lỗ gây
nên tâm lý chán nản, không tin vào sự hoạt động của chính bản thân Ngân
hàng, một số nhân viên có năng lực xin chuyển công tác.

2.1.2. Đối với toàn bộ hệ thống Ngân hàng.
Hoạt động của một Ngân hàng có liên quan với toàn bộ hệ thống Ngân
hàng, các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế như những mắc xích. Vì
vậy, khi một Ngân hàng bò phá sản thì có khả năng lây lan đến các Ngân hàng
khác. Nếu không có sự can thiệp và giúp đỡ của các Ngân hàng bạn cũng như
Ngân hàng Trung ương thì sẽ tạo ra một tâm lý sợ mất vốn của khách hàng có
tiền gởi tại các Ngân hàng và nếu các Ngân hàng không có những biện pháp
đối ứng kòp thời thì cũng sẽ mất khả năng thanh toán như Ngân hàng đầu tiên.
Như vậy tất yếu sẽ làm cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng sụp đổ. Trên thế giới
đã từng chứng kiến sự phá sản của nhiều Ngân hàng và ở Việt Nam vào những
năm 1989 - 1990, sự sụp đổ hệ thống quỹ tín dụng là một ví dụ điển hình.
Trang 15


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

2.1.3. Đối với nền kinh tế.
Như đã nói trên, Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với mọi thành phần
kinh tế. Rủi ro tín dụng gây nên sự sụp đổ một Ngân hàng, thậm chí toàn bộ hệ
thống Ngân hàng dẫn đến nền kinh tế quốc dân bò rối loạn, mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh bò ngưng trệ, mất bình ổn về quan hệ cung cầu, lạm phát, thất
nghiệp, tệ nan xã hội gia tăng, tình hình an ninh chính trò bất ổn …
2.2. Trong quan hệ đối ngoại.
Ngày nay với xu hướng mở cửa nền kinh tế, một quốc gia muốn phát triển
nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào năng lực sẵn có của mình mà còn phụ
thuộc vào nền kinh tế trong khu vực và cả nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy
khi rủi ro tín dụng mang tính chất dây chuyền thì sẽ gây ra sự khủng hoảng
kinh tế khu vực và trên thế giới là điều tất yếu, nhật là khi khủng hoảng kinh tế

xảy ra ở một cường quốc kinh tế. Thực tế gần đây sự khủng hoảng nền kinh tế
tài chính - tiền tệ ở Mexico đã gây ảnh hưởng không tốt đến khu vực Bắc Mỹ.
Để cứu vãn tình thế, tránh ảnh hưởng toàn khu vực cũng như chính quốc gia
của mình, Quốc hội Mỹ buộc lòng phải chi trên 40 tỷ USD góp phần khôi phục
tình hình đó.
Tóm lại : hiện tượng sụp đổ các Ngân hàng là vấn đề mà Chính phủ
các nước quan tâm, lo ngại; do đó, Ngân hàng Trung ương thường xuyên kiểm
tra khuyến cáo cho các Ngân hàng hoặc thực hiện tài trợ vốn để cứu nguy tạm
thời. Tuy nhiên, để hạn chế rủi ro và thiệt hại trong kinh doanh, thì các Ngân
hàng phải chính là người trực tiếp quản lý phòng ngừa rủi ro.
3. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng.
Thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra rất lớn. Đối với ngân hàng thì do những
khoản vay bò mất do vậy lợi nhuận sẽ giảm xuống dẫn đến ngân hàng lỗ lã và
phá sản. Đồng thời do vốn cho vay là đồng vốn mà ngân hàng nhận ký thác
của người khác cho nên dẫn đến làm mất khả năng thanh khoản của ngân
hàng, và sự kiện này cũng ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng. Đối với nền
kinh tế thì khi các đònh chế tài chính trung gian nay yếu đi hoặc phá sản, sẽ làm
Trang 16


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế thò trường bò khựng lại do vậy sẽ ảnh
hưởng đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa của nền kinh tế. Và đi xa
hơn nữa dấu ấn của nó còn làm cho quan hệ tiết kiệm đầu tư của nền kinh tế bò
đứt đoạn, mà đây là một trong những yếu tố hàng đầu để phát triển đất nước.
Rủi ro tín dụng thường xảy ra ở hai trạng thái cơ bản sau :
Một là: rủi ro thường xảy ra khi con nợ hoàn trả không đúng hạn, vì họ

đang tạm thời gặp khó khăn về ngân quỹ hoặc do yếu tố khách quan ngoài ý
muốn của con nợ hoặc do chủ quan nằm trong ý muốn của con nợ.
Hai là: rủi ro xảy ra khi con nợ chỉ trả được một phần hoặc không trả
được toàn bộ.
Nguyên nhân của các rủi ro xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất : về phía khách hàng vay có hai nguyên nhân tổng quát xảy
ra trước khi và sau khi cho vay mà ở đây vai trò của thông tin là quan trọng.
Ta biết rằng những giao dòch diễn ra trong quan hệ tín dụng nói riêng, một
bên thường không biết tất cả những gì mà mình muốn biết về bên kia mà mỗi
bên có được gọi là thông tin không cân xứng.
Chọn lựa đối nghòch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra rước khi
diễn ra cuộc giao dòch. Chọn lựa đối nghòch xảy ra trong quan hệ tín dụng khi
những người đi vay tạo ra một kết cục không mong muốn tức là những rủi ro
không trả được nợ - là những người tích cực tìm vay nhất do vậy có nhiều khả
năng được lựa chọn nhất. Do việc chọn lựa đối nghòch khiến dễ có thể là các
món vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi
cuộc giao dòch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra là người vay có ý muốn lừa đảo
hoặc có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt ( thiếu đạo đức ) xét theo
quan điểm của người cho vay bởi những hoạt động này khiến ít có khả năng để
món vay này sẽ hoàn trả.
Xét ở góc độ cụ thể hơn từ phía khách hàng có những nguyên nhân sau:
• Khách vay tiêu dùng:
Trang 17


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng


1 Không đủ hoặc không có tư cách pháp lý ( bò điên ).
2 Công việc và thu nhập không ổn đònh.
3 Hoàn cảnh gia đình, ly hôn hay ly dò.
4 Sức khoẻ, độ tuổi, học vấn.
5 Đạo đức: thích phiêu lưu mạo hiểm, cờ bạc, cá cược.
6 Các yếu tố bất thường: bệnh tật, tai nạn, chết…
• Khách hàng vay vì mục tiêu sản xuất:
7 Trình độ quản lý của người lãnh đạo, uy tín, nhân cách của người
lãnh đạo.
8 Sử dụng vốn sai mục đích.
9 Thò trường tiêu thụ bò thu hẹp.
10 Nguồn cung cấp vật tư bò đình trệ.
11 Tai nạn hoả hoạn cháy nổ nơi làm việc, sản xuất, đình công…
Thứ hai: từ nhữõûng nguyên nhân khách quan trong nền kinh tếá và thế
giới.
Tình hình kinh tế xã hội trong nước như nền kinh tế khủng hoảng, do
chiến lược phát triển kinh tế sai, do lạm phát, do tình hình chính trò biến động
nội chiến hoặc chiến tranh xảy ra hoặc do thiên tai lũ lụt, hạn hán…cũng là
những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
Hoặc do rủi ro cưng có thể xuất phát từ tình hình kinh tế chính trò thế
giới.
Chẳng hạn một nước chủ yếu dựa vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu nếu
thò trường ở nước ngoài do biến động về suy thoái kinh tế hoặc chính trò cũng
sẽ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và như thế tín dụng cưng sẽ ảnh hưởng.
Và rủi ro từ phía này ngày càng quan trọng khi mỗi nước là một tế bào của nền
kinh tế thế giới.
Thứ ba: Rủi ro tín dụng liên quan đến đảm bảo tín dụng.
Vật thế chấp là vật sở hữu, được thế cho người cho vay nếu người đi vay
không thể thanh toán. Vay nợ có thế chấp là hình thức chủ yếu của hợp đồng
Trang 18



Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

vay nợ gia đình và cùng được dùng rộng rãi trong vay tiền kinh doanh. Do vậy
rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ đây, chẳng hạn tài sản cầm cố bò mất
giá, bò cháy bò thiên tai mà không có bảo hiểm hoặc tài sản này không tiêu thụ
được.
Ngoài ra nếu đảm bảo đối nhân nếu người vay này bò xảy ra những
trường hợp nói trên cũng không đảm bảo được cho khoản vay và rủi ro tín dụng
xảy ra.
Thứ tư: Nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay có thể xét ở những
nguyên nhân sau:
1 Cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức.
2 Thiếu nghiệp vụ, trình độ yếu kém.
3 Do ngân hàng chạy theo lợi nhuận chấp nhận rủi ro cao, khai thác
thò trường mới.
4 Không đảm bảo các nguyên tắc tín dụng hoặc những nguyên tắc
của ngân hàng nhà nước.

Trang 19


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

TÓM TẮT CHƯƠNG I

Trong phần này, luận văn giới thiệu các khái niệm về tín dụng từ quan
niệm xa xưa tín dụng tồn tại dưới hình thức phôi thai cho vay nặng lãi qua các
giai đoạn phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tín dụng
ngày nay trở thành kênh bơm vốn cho nền kinh tế, điều hoà vốn cho xã hội.
Bên cạnh mặt tích cực đó, mặt trái của nó là những rủi ro có thể xảy ra trong
công tác tín dụng, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan bởi vì nó
gắn liền với một nền kinh tế cụ thể, mỗi nền kinh tế riêng biệt có một sản
phẩm tín dụng phù hợp, và đồng thời nó do con người chủ động tạo ra và như
vậy nó vừa là kết quả chủ quan từ phía con người và vừa là kết quả khách quan
do tác động nhiều mặt của nền kinh tế. Dù cho nguyên nhân khách quan hoặc
chủ quan nào thì rủi ro tín dụng đều để lại những dấu ấn của nó đối với xã hội,
đối với lòng tin của người dân và hậu quả nặng nề do nó gây ra. Việc nghiên
cứu nó là để nhằm hạn chế những rủi ro, khắc phục hậu quả nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng, nhưng với thực tế sinh động của cuộc sống thì có lẽ nó chỉ
giúp hạn chế và hạn chế đến mức có thể. Việc triệt tiêu hoàn toàn những rủi ro
tín dụng xem chừng khó có thể xảy ra. Do đó về phương pháp luận, luận văn
chỉ đặt vấn đề nhận diện rủi ro tín dụng, tác hại của nó đối với nền kinh tế
nhằm tạo bước tiền đề cho các biện pháp ( sẽ trình bày ở chương III ) cần thiết
để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra
trong bối cảnh kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Trang 20


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TP HCM
I. Hệ thống ngân hàng thương mại & tình hình kinh tế xã hội ở TPHCM
1. Tình hình kinh tế - xã hội TP.HCM
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đây là
một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng và tiến lên CNXH. Hòa
cùng với sự đổi mới của nền kinh tế, ngành NH cũng thực sự bước vào cuộc đổi
mới kể từ khi thí điểm thực hiện quyết đònh 218/HĐBT năm 1987 và nghò đònh
53/HĐBT ngày 26.03.1988. Tuy nhiên, sự diễn biến của nền kinh tế nói chung
cũng như của TP.HCM nói riêng đã có những tác động nhất đònh đến hoạt động
NH theo từng giai đoạn như sau :
Giai đoạn thứ nhất (1989-1992): Trong giai đoạn này tốc độ tăng
trưởng khá nhưng chưa cao, như năm 1991: TP.HCM 9,09% (cả nước 6%); năm
1992: TP.HCM 11,72% (cả nước 8,6%). Đây là giai đoạn khởi đầu của việc đổi
mới Ngân hàng vừa làm vừa kiểm nghiệm nên gặp nhiều khó khăn. Tình hình
tài chính tiền tệ trong giai đoạn này có nhiều biến động do nền kinh tế còn
nhiều mặt mất cân đối, các doanh nghiệp đang trong tình trạng sắp xếp, củng
cố chưa thực sự ổn đònh, nhiều tổ chức kinh tế (TCKT) quốc doanh cấp huyện
được thành lập, nhưng thiếu phương án sản xuất hợp lý, trình độ năng lực cũng
như đạo đức của một số người điều hành yếu kém đã có tác động xấu đến sản
xuất trong nước; hàng nội sản xuất ra không tiêu thụ được, ứ đọng. Một số
TCKT mất khả năng thanh toán, phá sản đổ vỡ, không trả được nợ đã kéo theo
nhiều hợp tác xã tín dụng (HTXTD), Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) đổ vỡ,
một vài ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) gặp khó khăn phải nhờ
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi viện. Nhưng từ năm 1992 tình hình kinh tế
đã khởi sắc hơn, sản xuất kinh doanh trên đòa bàn thành phố bước đầu có tiến
triển tốt, là một năm hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế, có nhiều mặt phát triển,

Trang 21



Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

tăng trưởng khá so với năm 1991 như tổng sản phẩm xã hội tăng 11,7%; Giá trò
sản xuất công nghiệp tăng 16,4%; về xuất nhập khẩu đã đạt mức xuất siêu 497
triệu USD … Tuy nhiên, nhìn lại toàn diện hoạt động của Ngân hàng trong giai
đoạn này cũng chưa thực sự mạnh, còn gặp nhiều khó khăn nhưng ngành Ngân
hàng TP.HCM đã cố gắng khắc phục được.
Giai đoạn thứ hai (1993 - 1996): Năm 1993 là năm đầu tiên Thành phố
đạt tốc độ tăng trưởng cao tăng 12,5% so với năm trước (cả nước 8,1%). Tình
hình kinh tế xã hội Thành phố trong giai đoạn này ổn đònh tiếp tục phát triển
và tăng trưởng khá cao, trong đó khu vực tư nhân cá thể, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao hơn. Giá cả ổn đònh tăng không đáng kể,
giá dòch vụ tăng 0,73% tháng.
Tỷ giá đô la và giá vàng ổn đònh, đã góp phần nâng cao giá trò đồng tiền
Việt Nam, kiềm chế đẩy lùi lạm phát chỉ còn một con số.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt
mức tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn; tổng sản phẩm quốc nội
của đòa bàn chiếm 17% GDP cả nước. GDP bình quân đầu người năm 1993 là
371 USD, đến năm 1996 : 876 USD. Đặc biệt cơ sở hạ tầng chuyển biến khá
tích cực, bưu chính viễn thông hiện đại với tốc độ nhanh, cơ cấu các thành phần
kinh tế càng rõ nét đa dạng : kinh tế quốc doanh được củng cố tổ chức, giảm
bớt số lượng, từng bước nâng cao chất lượng. Vốn tích lũy đầu tư tăng từ 17,6%
năm 1992 lên 27,9% năm 1996. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân
30%/năm (chủ yếu là vốn nước ngoài và kiều hối).
Đây là những năm mà ngành Ngân hàng đã triển khai đồng bộ, nhòp
nhàng, có hiệu quả các biện pháp quản lý tổng hợp về tiền tệ, tín dụng, ngoại
hối, vàng bạc và thanh toán. Do khơi được nguồn huy động trong dân, cải tiến
công nghệ Ngân Hàng, áp dụng công nghệ tin học vào thanh toán trong nước

và ngoài nước. Đặc biệt sử dụng rộng rãi ngân phiếu thanh toán và can thiệp
có hiệu quả giá vàng và ngoại tệ trên thò trường khi có biến động, giữ vững
được tỷ giá ngoại tệ phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia, thực hiện được

Trang 22


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

quyết đònh 396/TTg Thủ tướng Chính phủ ngày 4/8/1994 và thông tư 12/TT-NH
ngày 5/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng.
Giai đoạn thứ ba (1997-1999): Trong thời gian này tại TP.HCM tốc độ
phát triển kinh tế chậm lại và giảm dần, năm 1997: 12,09% (cả nước 8,15%)
năm 1998: 9,03% (cả nước 5,8%) năm 1999: 6,16% (cả nước 4,8%), đạt mức
bình quân trong giai đoạn này là 9,04%/năm, trong đó sản xuất công nghiệp
tăng bình quân 11% năm, thương mại dòch vụ tiếp tục tăng trưởng khá cao.
Tình hình kinh tế xã hội đã ổn đònh, các nhiệm vụ trọng tâm được đẩy mạnh
như xây dựng cơ sở hạ tầng, xúc tiến việc hình thành một số khu chế xuất, khu
công nghiệp. Từ đó đã tác động trực tiếp đến việc phát triển các hoạt động
kinh doanh dòch vụ tài chính Ngân hàng. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này
đã xảy ra một số vụ án lớn: Đông lạnh Hùng Vương, Lương thực Thành Phố,
Tamexco, Epco, Minh Phụng … có liên quan đến hoạt động của một số Ngân
hàng Thương mại, đã tác động đưa nợ quá hạn tại những Ngân hàng này vượt
mức Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Mặc dù trong môi trường hoạt động ít thuận lợi hơn so với những năm
trước nhưng vẫn cung ứng được lượng vốn khá lớn để phục vụ sản xuất lưu
thông, góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của TP.HCM và
hỗ trợ cho các vùng lân cận. Mặt khác, các Ngân hàng chủ động được việc

điều tiết nguồn vốn (đầu vào, đầu ra) theo khả năng, tăng trưởng vốn khả dụng
của đòa bàn. Đã thực hiện tốt việc giảm lãi suất nhiều lần trong khoảng thời
gian ngắn hạn nhưng vẫn giữ được sự ổn đònh hoạt động ngân hàng.
Giai đoạn thứ tư (từ năm 2000 đến nay):
Sau ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực,
kinh tế cả nước và kinh tế TP.HCM đã phục hồi trở lại :
1 Năm 2000 : GDP tăng 9%
2 Năm 2001 : GDP tăng 9,5%
Đặc biệt trong năm 2001 : giá trò sản xuất công nghiệp đạt mức tăng
16,2% bằng mức tăng năm 2000 và cao hơn mức tăng của 3 năm 97, 98, 99,
Trang 23


Luận Văn Thạc Só Kinh Tế

Trần Thò Thu Hồng

1 Nông lâm nghiệp, thủy sản : giá trò tăng 3,3% so với năm 2000.
18
16

15,3

14,6

14

14,68
12,09


% GDP

12
10

9,03

8

9

9,5

6,16

6
4
2
0
94

95

96

97 Year 98

99

2000


2001

Về thương mại, giá cả : tổng mức hàng hóa bán tăng 4% so năm 2000,
mức bán lẻ và doanh thu dòch vụ tăng 6,7% so năm 2000. chỉ số giá tiêu dùng
tăng 1,54%.
Biểu đồ tỷ lệ % tăng trưởng GDP từ 94-2001
(Nguồn số liệu: NHNN TPHCM)
2. Quá trình hình thành & phát triển hệ thống NHTM ở TPHCM.
2.1. Sự tồn tại và hoạt động theo mô hình Ngân hàng một cấp (19751988)
Cho đến năm 1988, Việt Nam vẫn tồn tại mô hình Ngân hàng một cấp là
Ngân hàng Nhà nước. Những đơn vò Ngân hàng Nhà nước quận, huyện, thò xã
là nơi trực tiếp giao dòch với khách hàng. Còn NHTW, Ngân hàng tỉnh, thành
phố là cấp quản lý. Hoạt động Ngân hàng một cấp gắn liền với nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung tạo ra sự độc quyền của Ngân hàng. Sự độc quyền này làm
cho Ngân hàng thiếu năng động, hoạt động đơn điệu không có động lực phát
triển, thiếu chủ động vươn lên trong hoạt động của nó. Vì vậy công cuộc đổi
mới quản lý kinh tế được thúc đẩy và đòi hỏi bức xúc và một trong những bước
đi đầu tiên là đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động Ngân hàng. Từ đây hoạt

Trang 24


×