Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

HUỲNH THANH GIANG

NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : KINH TẾ TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
Mã số
: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS.THÂN THỊ THU THỦY

TP.Hồ Chí Minh- Năm 2008


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ NIÊM YẾT
CỔ PHIẾU CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1.

Công ty cổ phần.


Trang 1

1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần.

1

1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần.

1

1.1.3. Cơ chế hoạt động của công ty cổ phần.

2

1.1.4. Tác động của công ty cổ phần.

3

1.1.4.1. Tác động của CTCP đến nền kinh tế.

3

1.1.4.2. Tác động của CTCP đến thị trường chứng khoán.

4

1.2. Ngân hàng thương mại cổ phần.

5


1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần.

5

1.2.2. Hoạt động chính của ngân hàng thương mại cổ phần.

6

1.3. Thị trường chứng khoán.

7

1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán.

7

1.3.2. Chức năng của thị trường chứng khoán.

9

1.3.2.1. Kênh giao lưu vốn dài hạn cho nền kinh tế.

9

1.3.2.2. Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán.

9

1.3.2.3. Chấm điểm, xếp loại chứng khoán của các công ty.


10

1.3.2.4. Thước đo “sức khỏe” của nền kinh tế.

11

1.3.3. Phân loại thị trường chứng khoán.

11

1.3.4. Các thành phần tham gia vào thị trường chứng khoán.

12

1.3.4.1. Nhà phát hành.

12

1.3.4.2. Nhà đầu tư.

12

1.3.4.3. Các công ty chứng khoán.

13

1.3.4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán.

13


1.4. Niêm yết cổ phiếu.

13

1.4.1. Khái niệm niêm yết.

13

1.4.2. Phân loại niêm yết.

13

1.4.3. Điều kiện niêm yết tại Sở Giao Dịch chứng khoán.

14


1.4.3.1. Điều kiện niêm yết của một số nước.

14

• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Singapore-SES.

14

• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Hàn quốc-KSE.

15

• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Malaysia-KLSE.


15

1.4.3.2. Điều kiện niêm yết của Việt Nam.

16

1.4.3.2.1. Tiêu chuẩn định lượng.

16

1.4.3.2.2. Tiêu chuẩn định tính.

17

1.4.4. Thủ tục niêm yết.

18

1.4.4.1. Thủ tục niêm yết ở một số nước.

18

• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Singapore-SES.

18

• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Hàn quốc-KSE.

18


• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Malaysia-KLSE.

19

1.4.4.2. Thủ tục niêm yết ở Việt Nam.

20

1.5. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

20

1.6. Sự cần thiết phải niêm yết cổ phiếu trên TTCK.

22

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

24

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TPHCM.
2.1. Thực trạng hoạt động của SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh.

25

2.1.1. Quy mô niêm yết tại HOSE.

26


2.1.2. Quy mô giao dịch tại HOSE.

27

2.1.3. Sự tham gia của các nhà đầu tư.

27

2.1.4. Giá trị vốn hóa của cổ phiếu tại HOSE.

28

2.1.5. Diễn biến của VN-Index.

29

2.1.6. Hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian.

30

2.2. Thực trạng hoạt động của các NHTMCP tại Thành phố Hồ Chí Minh.

31

2.2.1. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn.

31

2.2.2. Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản.


34

2.2.3. Tốc độ tăng trưởng tín dụng.

34

2.2.4. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận.

39


2.2.5. Tốc độ tăng trưởng vốn tự có.

40

2.2.6. Xếp loại ngân hàng.

44

2.3. Quá trình cổ phần hóa các NHTMNN.

45

2.3.1. Vấn đề đặt ra.

45

2.3.2. Tiến trình thực hiện.


45

2.3.2.1. Cổ phần hóa VCB và MHB.

45

2.3.2.2. Cổ phần hóa BIDV và ICB.

46

2.3.3. Xu hướng sắp tới.

48

2.4. Thực trạng niêm yết CP của các NHTMCP trên HOSE.

48

2.4.1. Thực trạng niêm yết CP của các NHTMCP trên HOSE.

48

2.4.1.1. Thực trạng niêm yết CP của NHTMCP Sài Gòn Thương tín trên HOSE. 48
2.4.1.2. Những vấn đề thường gặp sau niêm yết.
2.4.2. Thuận lợi và khó khăn.
2.4.2.1. Thuận lợi.

50
51
51


2.4.2.1.1. Về văn bản pháp lý.

51

2.4.2.1.2. Những thuận lợi xuất phát từ nội tại các NHTMCP.

52

2.4.2.2. Khó khăn.

54

2.4.2.2.1. Về cơ chế.

54

2.4.2.2.2. Những vấn đề thuộc về nội tại của ngân hàng.

59

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

61

CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN HOSE.
3.1. Mục tiêu và định hướng phát triển TTCK đến năm 2010.

62


3.1.1. Mục tiêu.

62

3.1.2. Định hướng phát triển.

62

3.1.2.1. Định hướng phát triển của thị trường chứng khoán.

62

3.1.2.2. Định hướng phát triển đối với lĩnh vực ngân hàng.

63

3.2. Giải pháp thúc đẩy các NHTMCP niêm yết CP trên HOSE.
3.2.1. Nhóm giải pháp chung.
3.2.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý về niêm yết.

63
63
63


3.2.1.1.1. Các điều kiện và tiêu chuẩn niêm yết cần được phát triển theo
hướng ngày càng nâng cao về chất lượng.

63


3.2.1.1.2. Chính phủ, Bộ Tài chính, NHNN cần có kế hoạch trong việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
của TTCK cũng như các thành phần tham gia vào thị trường.

66

3.2.1.1.3. Nội bộ NHNN cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Vụ trong
việc ban hành đồng bộ cơ chế nghiệp vụ với hướng dẫn hạch toán.

68

3.2.1.1.4. Cần có sự hợp tác nhiều hơn nữa từ phía Bộ Tài chính và UBCKNN
với NHNN trong việc cấp phép cho các NHTMCP niêm yết.
3.2.1.2. Hoàn thiện chính sách niêm yết.
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể.

69
70
71

3.2.2.1. Nhóm giải pháp để bảo đảm an toàn trong hoạt động của các NHTM.

71

3.2.2.1.1. Đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.

71

3.2.2.1.2. Điều chỉnh giới hạn tín dụng đối với khách hàng theo Basel.


73

3.2.2.1.3. Quản lý tốt rủi ro tín dụng.

74

3.2.2.1.4. Thực hiện tốt việc phân loại nợ.

75

3.2.2.1.5. Đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả.

75

3.2.2.1.6. Ban hành các quy định về rủi ro thị trường.

76

3.2.2.1.7. Ban hành các quy định về rủi ro hoạt động.

77

3.2.2.2. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng giám sát của NHNN
đối với NHTM cũng như chức năng tự giám sát của các NHTM.

78

3.2.2.2.1. Hoàn thiện chức năng giám sát của NHNN.


78

3.2.2.2.2. Hoàn thiện chức năng tự giám sát của các NHTMCP.

79

3.2.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến công bố thông tin của các NHTM.

80

3.2.2.4. Giải pháp hỗ trợ các NHTMCP sau niêm yết.

81

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
PHỤ LỤC; TÀI LIỆU THAM KHẢO;
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

82


LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO cũng như xu thế hội nhập TTCK
khu vực và thế giới, yêu cầu cấp thiết đặt ra không chỉ đối với các doanh nghiệp
mà còn cho cả hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và các NHTMCP nói riêng là
phải tăng cường các giải pháp nâng cao năng lực tài chính, nâng cao chất lượng
hoạt động nhằm đáp ứng các điều kiện để tiến hành niêm yết cổ phiếu trên thị
trường giao dịch tập trung, đáp ứng mục tiêu phát triển một hệ thống ngân hàng
Việt Nam hiện đại mà mỗi ngân hàng là một tập đoàn tài chính vững mạnh.

Giống như một doanh nghiệp thông thường, việc niêm yết CP của NHTMCP
trên sàn giao dịch tập trung không những mang lại lợi ích cho bản thân NH mà
còn góp phần tăng cung và làm đa dạng chủng loại hàng hóa, giúp cho hoạt động
trên thị trường ngày càng phong phú và sôi động. Thật vậy,
• Đối với bản thân ngân hàng:
Niêm yết cổ phiếu là áp lực buộc các ngân hàng phải nhìn nhận lại một
cách nghiêm túc chất lượng dịch vụ, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động
kinh doanh và năng lực quản trị, điều hành.
• Đối với thị trường:
Tiềm lực để phát triển TTCK chính thức từ khối NHTMCP chưa được
chúng ta khai thác. Khi các NHTMCP thực hiện niêm yết sẽ có thêm hàng hóa
là CP của các NHTM và khắc phục được tình trạng hoạt động thiếu kiểm soát
như hiện nay.
• Đối với VN-Index:
Khi tổng giá trị CK nói chung và CP nói riêng trên thị trường càng lớn,
cùng với sự gia tăng số lượng CP ngân hàng sẽ làm cho chỉ số chứng khoán
VN-Index ngày càng chính xác hơn, mang tính đại diện và phù hợp hơn với
vai trò là một trong những thước đo sức khỏe của nền kinh tế.
• Đối với nhà đầu tư:
Việc các NHTMCP thực hiện niêm yết CP đồng nghĩa với việc tăng lượng
hàng hóa cho thị trường, tạo nhiều cơ hội cho quá trình thiết lập, bổ sung và
thay đổi danh mục đầu tư của nhà đầu tư, góp phần ổn định giá CP. Đây là


điều mà các nhà đầu tư mong đợi, bởi quyền lợi của họ được bảo vệ nhiều
hơn, họ sẽ an tâm hơn khi đặt vốn vào đúng chỗ.
Với những lý do trên, việc niêm yết CP của các NHTMCP trên TTCK Việt
Nam nói chung và tại HoSE nói riêng là hết sức cần thiết. Đó là kết quả tất yếu và
phù hợp với quy luật khách quan trong sự phát triển chung của thị trường.
2. Đóng góp của đề tài.

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về công ty cổ phần, thị trường chứng khoán và niêm
yết cổ phiếu của các công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán.
- Xem xét điều kiện, thủ tục niêm yết cổ phiếu của một số Sở Giao dịch chứng
khoán trong khu vực và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích thực trạng hoạt động của HoSE cũng như thực trạng hoạt động của
một số NHTMCP tại TP.HCM theo các điều kiện để được niêm yết CP trên
HoSE.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp từ tổng thể đến cụ thể để thúc đẩy các NHTMCP
có tiềm năng mạnh dạn thực hiện niêm yết cổ phiếu trên HoSE.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khả năng thỏa mãn các điều kiện để niêm yết
cổ phiếu trên HoSE của một số NHTMCP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đi sâu phân tích thực trạng hoạt động của một
số NHTMCP trên địa bàn TP.HCM xoay quanh các điều kiện để được niêm yết
từ đó đưa ra một số nhóm giải pháp để thúc đẩy các NHTMCP niêm yết cổ
phiếu trên HoSE.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Trên cơ sở thu thập số liệu và áp dụng kiến thức từ các tài liệu khoa học, đề tài
thực hiện thống kê, phân tích và tổng hợp các số liệu để đưa ra kết quả mang
tính định lượng, làm cơ sở chứng minh cho những lập luận về mặt lý thuyết.
- Đề tài còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để quá
trình phân tích và đánh giá các quan điểm, chính sách được khách quan và đúng
đắn trong từng giai đoạn phát triển của thị trường.


5. Kết cấu của đề tài.
Sau phần mục lục, lời nói đầu, nội dung đề tài được trình bày thành 3 chương:
• Chương 1- Tổng quan về công ty cổ phần và niêm yết cổ phiếu của các
công ty cổ phần.
• Chương 2- Thực trạng niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ

phần trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
• Chương 3- Giải pháp thúc đẩy các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết
cổ phiếu trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết thúc mỗi chương, đề tài có phần tiểu kết lại những nội dung chính trong
chương để chuyển tiếp sang chương sau. Kết thúc Chương 3, có trình bày kết luận
chung để tổng quát lại nội dung chính của toàn bộ đề tài.
Sau cùng là một số phụ lục thể hiện tình hình hoạt động của HoSE và các
NHTMCP trên địa bàn TP.HCM trong thời gian qua, danh sách các tài liệu tham
khảo gồm: một số Luật, Quyết định và sách tham khảo của một số tác giả.


CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU
CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1. Công ty cổ phần.
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Cũng theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, CTCP là doanh nghiệp, trong đó:
a. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
c. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh, có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần.
Do vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau nên mỗi cổ phần
của công ty đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích như nhau.
CTCP phải có cổ phần phổ thông; có thể có cổ phần ưu đãi (ưu đãi biểu quyết, ưu
đãi cổ tức, ưu đãi hoàn lại, ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định).
Do loại hình CTCP chỉ giới hạn số lượng cổ đông tối thiểu mà không giới hạn số
tối đa, nên khả năng số người tham gia góp vốn có thể rất lớn, tạo điều kiện mở rộng
quy mô kinh doanh, tăng lợi nhuận.
Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn đã góp vào CTCP, mức thiệt hại
tối đa đối với các cổ đông chỉ dừng lại ở mức vốn mà họ đã góp vào công ty.
1


Cổ đông phổ thông-người sở hữu cổ phần phổ thông-được tự do chuyển nhượng
cổ phần của mình cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông. Như vậy,
loại hình CTCP có được khả năng “tự làm mới” mình cả về lượng và chất . Điều lưu ý
ở đây là tính linh hoạt trong việc chuyển quyền sở hữu cổ phiếu giữa các cổ đông phổ
thông với nhau hoặc giữa cổ đông phổ thông cũ với nhà đầu tư mới muốn trở thành cổ
đông của CTCP; còn quá trình đó diễn ra dễ dàng hay khó khăn còn tùy thuộc vào
nhiều yếu tố trong đó phải kể đến tính thanh khoản của loại cổ phiếu đó.
1.1.3. Cơ chế hoạt động của công ty cổ phần.
Trong nền kinh tế hàng hóa, muốn tồn tại, phát triển và đủ sức cạnh tranh, các
công ty phải tăng năng suất, giảm chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Muốn thế họ phải
không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để cải tiến máy móc-thiết bị, nâng cao trình độ kỹ
thuật, công nghệ. Để thực hiện mục tiêu này, các công ty cần phải có nhiều vốn.
Thấy được sự cần thiết đó, những công ty nhỏ đã thực hiện sáp nhập, liên kết lại
với nhau và kết quả dẫn đến quá trình tập trung tư bản, biểu hiện rõ rệt nhất là sự ra
đời của các CTCP. CTCP có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn.
Ưu thế này càng làm cho loại hình CTCP có khả năng rất lớn trong việc tăng vốn.

Ngoài những công ty hoạt động ở những ngành công nghiệp nặng cần đầu tư cho
máy móc, thiết bị, hoặc những công ty muốn đa dạng hóa các ngành nghề kinh doanh,
chiếm lĩnh thị trường, còn phải kể đến ngành kinh doanh tiền tệ là một trong những
lĩnh vực mà loại hình CTCP được xúc tiến mạnh nhất, và kết quả là sự ra đời của
hàng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần.
Ngày nay, các CTCP thống trị trong nhiều ngành kinh tế với phạm vi bao trùm từ
khâu cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất đến khâu sản xuất, lưu thông, dịch vụ,
vận tải, xuất-nhập khẩu, tư vấn…
Với các đặc điểm đã nêu, loại hình CTCP có lợi thế vượt bậc so với các hình thức
công ty khác về phương thức huy động và sử dụng vốn. Đây là hình thức tập trung tư
bản tiến bộ và hiệu quả. Quá trình tập trung tư bản có thể diễn ra giữa các nhà đầu tư
trong nước, hoặc giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài hay
thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước. Việc huy động
vốn cho một CTCP bằng cách phát hành cổ phiếu bán cổ phần cho các cổ đông, ở một
chừng mực nào đó, là biện pháp dễ dàng so với việc vay vốn ngân hàng.
2


1.1.4. Tác động của công ty cổ phần.
1.1.4.1. Tác động của CTCP đến nền kinh tế.
CTCP là mô hình kinh tế phổ biến và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế hàng
hóa. Không những nó ra đời sớm mà còn tồn tại và phát triển lâu dài cùng với sự tồn
tại của các thành phần kinh tế. Sự ra đời của loại hình công ty này đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, kết quả là nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Trên thế giới, điều này đã được minh chứng qua sự phát triển như vũ bão của nền
kinh tế các nước tư bản vào những năm đầu của thế kỷ 20.
Ngày nay, với những thành tựu vượt bậc của khoa học-kỹ thuật và công nghệ, đòi
hỏi phải xây dựng những công trình lớn, cơ sở hạ tầng hoàn thiện… thì không một
nhà tư bản riêng lẻ nào có thể đảm nhận được khi nguồn vốn có giới hạn. Cách giải
quyết hiệu quả nhất là tập trung vốn của nhiều nhà tư bản lại dưới hình thức thành lập

CTCP -Nhân tố tạo vốn.
Ngay cả trong kinh doanh, dưới áp lực cạnh tranh gay gắt trên thị trường, số lượng
công ty phá sản không ngừng tăng lên. Để tránh rủi ro, các công ty buộc phải đổi mới
công nghệ; đa dạng hình thức kinh doanh, ngành nghề kinh doanh thông qua góp vốn
với nhiều công ty khác nhau. Điều này không chỉ có ý nghĩa trong việc tập trung tư
bản mà còn có một lợi ích nữa đó là tập trung được năng lực trí tuệ, chất xám của
nhiều người từ nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Từ đó tổng hợp, khai thác được
nhiều thông tin, kinh nghiệm giúp cho việc quản lý và điều hành chiến lược đầu tư
của công ty đi đúng hướng- Nhân tố nguồn nhân lực & công nghệ.
Theo lý thuyết về tăng trưởng kinh tế thì các nhân tố của sự tăng trưởng là nguồn
nhân lực, nguồn tài nguyên, tạo vốn và đổi mới công nghệ. Sự xuất hiện của CTCP ở
nhiều lĩnh vực, ngành nghề cùng với sự thành công của nó đã tạo được phần lớn các
nhân tố cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Chủ trương định hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước
ta đã được nêu ra từ Đại hội VIII của Đảng và được khẳng định lại tại Đại hội IX,
Đại hội X của Đảng. Theo đó, sự ra đời của các CTCP sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế
tập thể, kinh tế cá thể; từng bước biến đổi làm gọn nhẹ kinh tế quốc doanh, cải thiện
bộ máy của thành phần kinh tế quốc doanh theo hướng từ nặng nề, bao cấp sang năng
động, tự chủ và hoạt động có hiệu quả. CTCP ra đời là một bước đệm cho quá trình
3


chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu, nó là một tất yếu nhằm đáp ứng không
những cho đòi hỏi tích tụ, tập trung vốn mà còn đáp ứng cho yêu cầu cấp bách trong
khâu tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế có hiệu quả.
1.1.4.2. Tác động của CTCP đến thị trường chứng khoán.
Để huy động và khơi thông mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích tiết kiệm
trong dân cư, thu hút mọi nguồn vốn đầu tư là phải tạo ra một thị trường tài chính
đồng bộ, bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường chứng khoán-một bộ phận của thị trường vốn-là nơi diễn ra các hoạt

động mua, bán các loại chứng khoán. Thông qua TTCK, vốn trong nền kinh tế sẽ
được tập trung và chuyển dịch từ nhà đầu tư này sang nhà đầu tư khác. Để các thị
trường này hoạt động được, trước tiên phải tạo ra hàng hóa-đó là các công cụ tài
chính, trong đó phải kể đến CP của các CTCP.
Khi trên TTCK chưa xuất hiện CP thì việc mua bán chứng khoán, sự dịch chuyển
vốn từ nhà đầu tư này sang nhà đầu tư khác xảy ra không thường xuyên. Hàng hóa lúc
đó chỉ giới hạn ở những trái phiếu, thương phiếu. Những nhà đầu tư thận trọng luôn
tìm kiếm thu nhập an toàn nên họ sẵn sàng tìm đến với trái phiếu của một vài công ty
nào đó. Tuy nhiên, mức thu nhập mang lại không cao, chưa làm thỏa mãn những nhà
đầu tư ưa thích mạo hiểm. Sự chuyển dịch vốn đầu tư của nhà đầu tư từ loại trái phiếu
này sang loại trái phiếu khác cũng không nhiều, bởi tính tương đối ngang bằng về mặt
lãi suất cũng như về mức độ an toàn của các loại trái phiếu.
Đối với những nhà đầu tư năng động, nếu chỉ giới hạn ở những hàng hóa như trái
phiếu, thương phiếu thì chưa đủ. Họ đòi hỏi trong danh mục đầu tư của mình không
chỉ những hàng hóa đa dạng về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mà còn phải đa dạng
về chủng loại.
Sự ra đời của loại hình CTCP với việc phát hành CP đã làm thay đổi bộ mặt của
TTCK. Điều đầu tiên có thể nói đến đó là thị trường đã được bổ sung thêm một loại
hàng hóa mới, nó bao trùm hầu hết các ngành nghề trong nền kinh tế; tiếp đến là sự
xuất hiện của các nghiệp vụ phái sinh từ các hàng hóa này như mua/bán quyền được
mua CP; quyền chọn mua; quyền chọn bán, hợp đồng tương lai… Điều này đã thỏa
mãn được kỳ vọng và tính ưa mạo hiểm của những nhà đầu tư năng động. Họ dễ dàng
đầu tư vào CP ở những thời điểm khác nhau, với những mức giá khác nhau, dưới
4


nhiều hình thức khác nhau: có thể chỉ đơn thuần là kinh doanh để hưởng chênh lệch
giá, hay có ý định đầu tư lâu dài nhưng nếu cần thì sẵn sàng bán… mục đích cuối
cùng vẫn là làm sao thu được mức lợi nhuận kỳ vọng.
Trên TTCK, nhà đầu tư nào tiên đoán được diễn biến của tình hình kinh tế-chính

trị cũng như xu hướng phát triển của ngành, lĩnh vực mà họ đang đầu tư thì nhà đầu
tư đó sẽ có quyết định đúng đắn trong quá trình tập trung vốn của mình, kể cả việc
đầu cơ để chờ cơ hội. Các nhà đầu tư đều kỳ vọng vào thu nhập mang lại từ khoản
đầu tư: Thứ nhất, mức doanh lợi hay còn gọi là lãi vốn, đây là sự kỳ vọng vào một
mức tăng trưởng về giá trị đối với công ty mà họ đang nắm giữ CP, khi đó nhà đầu tư
sẽ bán số CP thuộc sở hữu của mình với giá cao hơn mức giá đã mua; Thứ hai, khoản
cổ tức mà họ có thể nhận được vào cuối năm, nếu công ty kinh doanh có lãi. Chính sự
phân tích, tiên đoán và kỳ vọng của những nhà đầu tư đã làm cho giá CP gia tăng gấp
nhiều lần mệnh giá của nó, đây luôn là gợi ý đầu tư hấp dẫn mọi người.
Mặc dù mức độ quan tâm đến doanh lợi và cổ tức là khác nhau đối với mỗi nhà
đầu tư nhưng hoạt động của họ đều dẫn đến việc phát sinh một khối lượng các giao
dịch mua/bán, chuyển nhượng hàng hóa trên TTCK. Lúc này, đối tượng tham gia vào
thị trường không còn giới hạn ở những nhà đầu tư chuyên nghiệp mà mở rộng ra các
thành phần, tầng lớp trong xã hội, làm cho ngày càng tập trung và tận dụng được
những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Như vậy, với tư cách là nhà tạo nguồn cung hàng hóa cho TTCK, có thể nói
CTCP đã làm thay đổi căn bản hoạt động của TTCK, làm cho thị trường này hoàn
thiện và phát triển không ngừng. Ngày nay, CP-sản phẩm của CTCP- gần như trở
thành mặt hàng chủ đạo và thống trị trong các phiên giao dịch mua/bán trên TTCK.
1.2. Ngân hàng thương mại cổ phần.
1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần.
Theo Luật số 20/2004/QH11 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức
tín dụng, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này
và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng được
thành lập theo pháp luật Việt Nam bao gồm tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín
dụng cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng
100% vốn nước ngoài.
5



Cũng theo Luật này, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Như vậy, ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình tổ chức tín dụng cổ phần,
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Do
là doanh nghiệp cổ phần nên các NHTMCP có đặc điểm, cơ chế hoạt động như một
công ty cổ phần và chịu chi phối bởi các quy định của Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra,
trong quá trình hoạt động, các NHTMCP còn chịu sự chi phối của các văn bản quy
phạm pháp luật chuyên ngành.
1.2.2. Hoạt động chính của ngân hàng thương mại cổ phần.
Theo Luật số 20/2004/QH11, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này
để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Do đó, hoạt động chính của một NHTMCP cũng không nằm ngoài phạm vi hoạt
động ngân hàng do Luật số 20/2004/QH11 quy định. Một số hoạt động cơ bản của
một NHTMCP:
- Huy động vốn: là việc NHTMCP nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ
chức tín dụng khác dưới các hình thức: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và
các loại tiền gửi khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác
để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc
NHNN chấp thuận; vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và
của tổ chức tín dụng nước ngoài; vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp
vốn; các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.
- Hoạt động tín dụng: Là việc NHTMCP sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy
động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc NHTMCP thỏa thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Là việc một NHTMCP thực hiện cung ứng các
phương tiện thanh toán; thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ; thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách
hàng; thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép; thực hiện các

dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN.
6


- Các hoạt động khác: Một NHTMCP còn được thực hiện các hoạt động khác
như:
+ Dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và
của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
+ Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín dụng liên
doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức
tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của NHNN.
+ Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế
khi được NHNN cho phép.
+ Ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động
ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo hợp đồng ủy thác và đại lý.
+ Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh
để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
+ Cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính và tiền tệ trực tiếp cho khách hàng hoặc

qua các công ty trực thuộc được thành lập theo quy định của pháp luật; bảo quản hiện
vật quý và các giấy tờ có giá; cho thuê tủ két; nhận cầm cố và các dịch vụ khác theo
quy định của pháp luật.
+ Thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện các hoạt động kinh doanh có liên
quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.
1.3. Thị trường chứng khoán.
1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán.
TTCK là một bộ phận của thị trường vốn, là nơi diễn ra các hoạt động mua/bán,
chuyển nhượng, trao đổi các loại chứng khoán trung và dài hạn; là nơi các nhà đầu tư,

kinh doanh chứng khoán gặp gỡ để thương lượng, đấu giá, mua/bán chứng khoán và
kết quả là hình thành nên thị giá chứng khoán.
Sự tồn tại của TTCK, một mặt tạo điều kiện cho các công ty tiếp cận dễ dàng cũng
như tranh thủ được các nhà đầu tư chiến lược và tiềm năng, mặt khác nó giúp cho các
nhà đầu tư những phương tiện để chuyển dịch hay thu hồi vốn một cách dễ dàng

7


thông qua việc bán các chứng khoán mà họ đang nắm giữ. Đây cũng là hoạt động
chính của TTCK, nó phản ánh bản chất của thị trường là nơi tập trung và phân phối
các nguồn tiền nhàn rỗi; là nơi thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư
mà ở đó, giá cả của hàng hóa chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn
đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
TTCK có thể là TTCK tập trung hoặc không tập trung. Tính tập trung được hiểu
theo nghĩa các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái
điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán. SGDCK có thể được tổ
chức dưới các hình thức:
• Tự tổ chức và quản lý, không có sự can thiệp của Nhà nước; các thành viên
chính là các công ty môi giới. Đây là hình thức ban đầu khi TTCK chưa phát
triển.
• Tổ chức dưới dạng CTCP, với cổ đông là các công ty chứng khoán thành viên,
các ngân hàng hoặc một số tổ chức tài chính phi ngân hàng. SGDCK dưới hình
thức này hoạt động theo Luật công ty và chịu sự giám sát của UBCK quốc gia.
• Tổ chức dưới dạng CTCP nhưng có sự tham gia trực tiếp của Nhà nước trong
việc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc. Đây là mô hình
SGDCK được các nước châu Á áp dụng.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu, để đảm bảo an toàn, Chính phủ đã quyết định
thành lập và đưa vào hoạt động Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Thành phố Hồ
Chí Minh (tháng 07/2000) và tại Hà Nội (tháng 03/2005). Hoạt động của hai trung

tâm này giống như hoạt động của SGDCK nhưng ở mức độ thấp hơn.
Ngày 08/08/2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM được chuyển thành
Sở giao dịch chứng khoán TPHCM theo Quyết định số 599/2007/QĐ-TTg ngày
11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo Luật chứng khoán Việt Nam:
¾ SGDCK, TTGDCK là pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc CTCP theo quy định của Luật chứng khoán.
¾ Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ
chức, hình thức sở hữu của SGDCK, TTGDCK theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Tài chính.
8


¾ SGDCK, TTGDCK có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch
chứng khoán niêm yết tại SGDCK, TTGDCK.
¾ SGDCK, TTGDCK chịu sự quản lý và giám sát của UBCKNN.
¾ Ngoài SGDCK và TTGDCK, không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức
thị trường giao dịch chứng khoán.
1.3.2. Chức năng của thị trường chứng khoán.
1.3.2.1. Kênh giao lưu vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Thứ nhất, do là nơi diễn ra hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài
hạn, nên thông qua TTCK mà các nguồn vốn từ nhỏ, lẻ của các nhà đầu tư cá nhân
đến các nguồn vốn lớn của các tập đoàn tài chính được tập trung và đáp ứng cho các
mục đích đầu tư khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Không chỉ có các công ty,
doanh nghiệp mới cần đến TTCK với chức năng như một kênh dẫn vốn dài hạn mà
ngay cả Chính phủ, khi thực hiện những dự án quan trọng, mang ý nghĩa kinh tế-xã
hội cũng cần đến TTCK như một phương tiện hữu hiệu để huy động nguồn vốn cho
đầu tư.
Thứ hai, TTCK tạo cho các đối tượng “cấp vốn” cho CTCP môi trường thuận lợi
và lành mạnh để đầu tư. Về phần mình, các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm có nhiều

khả năng chọn lựa hơn như CP của các công ty, quyền chọn mua, quyền chọn bán,
hợp đồng tương lai… và tất nhiên, với danh mục đầu tư phong phú, đa dạng thì rủi ro
xảy ra cũng sẽ ít đi và thu nhập từ các khoản đầu tư này sẽ nhiều hơn so với cách
truyền thống mà những nhà đầu tư thận trọng thường làm. Nói cách khác, TTCK tạo
ra môi trường có thể đáp ứng được sở thích và “khẩu vị” của mỗi nhà đầu tư.
1.3.2.2. Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Là nơi giao lưu, gặp gỡ giữa các nhà đầu tư với các công ty, giữa các nhà đầu tư
với nhau; là nơi thương lượng để hình thành giá cả chứng khoán theo quy luật cungcầu… nên thông qua TTCK, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển dịch vốn đầu tư
của mình từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ công ty này sang công ty khác tùy
theo khả năng quan sát và phân tích của mỗi người. Tương ứng với mỗi sự chuyển
dịch vốn là sự chuyển quyền sở hữu các chứng khoán từ nhà đầu tư này sang nhà đầu
tư khác. Hơn nữa, sở thích của các nhà đầu tư không giống nhau, thậm chí là hoàn
9


toàn trái ngược nhau, tất yếu sẽ có nhà đầu tư muốn bán và nhà đầu tư khác lại muốn
mua cùng loại chứng khoán. Điều đó làm cho việc mua/bán diễn ra dễ dàng, tính
thanh khoản của các chứng khoán được nâng lên rất nhiều so với lúc chưa có TTCK.
Như vậy, TTCK với chức năng tạo tính thanh khoản cho các CK, có thể tích tụ,
tập trung phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế, tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Tính
thanh khoản của chứng khoán càng cao, càng phản ánh tính linh hoạt của thị trường
và mức độ an toàn trong các hoạt động đầu tư; khi đó càng thu hút được nhiều nhà
đầu tư mạnh dạn tham gia vào thị trường.
Tuy TTCK có chức năng tạo được tính thanh khoản cho các chứng khoán, nhưng
mức độ thanh khoản cao hay thấp còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: những vấn đề
nội tại liên quan đến bản thân chứng khoán đó; xu hướng phát triển của ngành, lĩnh
vực đầu tư; những biến động về kinh tế-chính trị nơi mà TTCK đang hiện diện…
Điều này cũng dễ nhận thấy qua thực tế TTCK của Việt Nam trong thời gian qua.
1.3.2.3. Chấm điểm, xếp loại chứng khoán của các công ty.

Thật không quá, nếu chúng ta nói TTCK là nơi “chấm điểm” các công ty. Thật
vậy, thông qua TTCK, kết thúc mỗi phiên giao dịch, chúng ta thấy được chỉ số chứng
khoán chung đồng thời cũng thấy được khối lượng giao dịch và mức giá giao dịch đối
với từng loại chứng khoán riêng lẻ. Những thông số đó của thị trường là kết quả của
quá trình đánh giá, phân tích từng loại chứng khoán của các nhà đầu tư. Nếu một công
ty làm ăn hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh, công bố thông tin đầy đủ, công ty
hoạt động vì mục đích và lợi ích của cổ đông thì cổ phiếu của công ty đó là đối tượng
để các nhà đầu tư săn lùng; dĩ nhiên là mức cầu đối với loại cổ phiếu này tăng lên và
mức giá cao sẽ được hình thành bởi quy luật cung-cầu.
Ngược lại, cổ phiếu của công ty nào đó bị giảm giá hoặc không có giao dịch trong
nhiều phiên liên tiếp là điều đáng để công ty đó xem xét lại hoạt động của mình; từ đó
có những bước chấn chỉnh kịp thời, cũng như đổi mới phương hướng hoạt động và
kinh doanh. Như vậy, TTCK làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng cơ hội kinh
doanh cho các công ty trong nước.

10


Khi xem xét TTCK với chức năng “chấm điểm và xếp loại chứng khoán của công
ty”, chúng ta chỉ xét đến những nhân tố “nội sinh” của công ty và tạm thời cố định
những nhân tố khác có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của công ty như xu hướng phát
triển của ngành, tốc độ phát triển của nền kinh tế, sức mua của người tiêu dùng, tình
hình lạm phát, tình hình chính trị…. Có như thế mới thấy được TTCK “đo sức khỏe”
của từng công ty như thế nào và qua đó giúp cho nhà đầu tư có được một lượng thông
tin chung, một cái nhìn tổng quát trong việc đưa ra quyết định đầu tư.
1.3.2.4. Thước đo “sức khỏe” của nền kinh tế.
Ở mỗi TTCK, người ta áp dụng phương pháp khác nhau để tính chỉ số chứng
khoán, nhưng có một điểm chung là chỉ số chứng khoán được tính toán nhằm phản
ánh khá chính xác tình hình biến động của nền kinh tế. Về cơ bản, chỉ số chứng khoán
được tính trên một số chứng khoán đại diện cho các ngành, lĩnh vực tiêu biểu trong

nền kinh tế, nó là con số bình quân giá của các loại chứng khoán giao dịch trên thị
trường tại cuối mỗi phiên giao dịch. Do đó, chỉ số chứng khoán nói lên được xu thế
của thị trường, thông tin về nền kinh tế và người ta thường ví rằng chỉ số chứng khoán
là “phong vũ biểu” để đo tình trạng sức khỏe của nền kinh tế- xã hội. Thông thường,
khi nền kinh tế tăng trưởng thì chỉ số này tăng và ngược lại. Có thể nói TTCK cung
cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai và được xem là thị
trường quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô để định hướng cho
đầu tư, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự thay đổi của chỉ số giá chứng khoán là tổng hợp của nhiều yếu tố
như biến động kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư, tâm lý đầu tư… Do đó, khi xem xét
ảnh hưởng của một nhân tố nào đó đến chỉ số giá chứng khoán, chúng ta phải cố định
các nhân tố còn lại.
1.3.3. Phân loại thị trường chứng khoán.
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, TTCK được chia thành 2 loại:
• Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua/bán các chứng khoán mới phát hành. Ở
đó, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành, là nơi duy nhất mà
các chứng khoán đem lại vốn cho nhà phát hành.

11


• Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp nâng cao tính thanh khoản cho các chứng
khoán đã phát hành. Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán
chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ
không thuộc về nhà phát hành.
Căn cứ vào phương thức hoạt động, người ta chia TTCK thành:
• Thị trường tập trung: Còn gọi là TTCK chính thức, là thị trường ở đó việc mua
bán CK thông qua SGDCK - tức sàn giao dịch.
• Thị trường không tập trung: Là nơi hoạt động mua bán CK diễn ra tự do, phân

tán không qua SGDCK.
Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường, người ta chia TTCK thành thị trường cổ phiếu,
thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
1.3.4. Các thành phần tham gia vào TTCK.
1.3.4.1. Nhà phát hành.
Là những tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát
hành các chứng khoán. Cụ thể:
• Chính phủ: phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư.
• Chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án và các nhu
cầu chi tiêu của chính quyền địa phương.
• Các CTCP: phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp.
• Các DNNN và Công ty TNHH: phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
• Các quỹ đầu tư CK và công ty quản lý quỹ: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.
Nhà phát hành giữ vai trò tạo hàng cho TTCK.
1.3.4.2. Nhà đầu tư.
Là những người mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể là cá
nhân hoặc tổ chức như các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với
số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể là các công ty đầu tư, công ty
bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, ngân hàng thương mại, công ty chứng
khoán…

12


1.3.4.3. Các công ty chứng khoán.
Là một định chế tài chính trên TTCK với bộ máy tổ chức phù hợp, có đội ngũ
nhân viên lành nghề và nghiệp vụ chuyên môn cao, có thể đảm nhận một hoặc nhiều
trong số các nghiệp vụ chính là trung gian môi giới mua-bán chứng khoán, quản lý
quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả
người đầu tư lẫn tổ chức phát hành, hay tự doanh.

1.3.4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán.
Cơ quan quản lý, giám sát TTCK: Tùy theo mỗi nước mà các cơ quan này được
thành lập và hoạt động theo những mô hình khác nhau nhưng đều nhằm mục đích
đảm bảo cho TTCK hoạt động trật tự, an toàn, lành mạnh và ổn định; mặt khác nhằm
bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư.
Sở giao dịch chứng khoán: Là cơ quan thực hiện vận hành TTCK và ban hành
những quyết định điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán tại SGDCK phù hợp
với quy định của Pháp luật và của Ủy ban chứng khoán.
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: Là công ty cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực
thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng hạn theo những điều khoản đã cam kết của
công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
1.4. Niêm yết cổ phiếu.
1.4.1. Khái niệm niêm yết.
Niêm yết cổ phiếu là việc đưa một CP vào giao dịch chính thức tại SGDCK sau
khi đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đó quy định.
Theo Luật chứng khoán Việt Nam, niêm yết CP là việc đưa các CP có đủ điều
kiện vào giao dịch tại SGDCK hoặc TTGDCK.
1.4.2. Phân loại niêm yết.
• Niêm yết lần đầu: Là việc cho phép CP của tổ chức phát hành được đăng ký niêm
yết, giao dịch lần đầu tiên sau khi chào bán ra công chúng và đáp ứng được các tiêu
chuẩn về niêm yết.
• Niêm yết bổ sung: Là việc chấp thuận cho một công ty niêm yết được niêm yết các
CP phát hành thêm với mục đích tăng vốn hay sáp nhập, chi trả cổ tức bằng CP,
thực hiện chuyển đổi các trái phiếu chuyển đổi thành CP…
13


• Thay đổi niêm yết: Việc thay đổi niêm yết xảy ra khi công ty niêm yết thay đổi tên
giao dịch, khối lượng, mệnh giá hoặc tổng giá trị CP được niêm yết của mình.
• Niêm yết lại: Là việc cho phép một công ty phát hành được niêm yết trở lại các CP

đã bị hủy bỏ niêm yết do không đáp ứng được các tiêu chuẩn duy trì niêm yết.
• Niêm yết cửa sau: Là trường hợp một tổ chức niêm yết chính thức sáp nhập, liên kết
hoặc tham gia vào hiệp hội với một tổ chức không niêm yết và kết quả là tổ chức
không niêm yết đó lấy được quyền kiểm soát tổ chức niêm yết.
• Niêm yết đa thị trường: Là việc công ty niêm yết có CP được niêm yết ở nhiều thị
trường trong và ngoài nước.
• Niêm yết từng phần: Là việc công ty chỉ niêm yết một phần CP đang lưu hành của
mình.
1.4.3. Điều kiện niêm yết tại Sở Giao Dịch chứng khoán.
Thông thường, điều kiện niêm yết do SGDCK của mỗi quốc gia quy định, nó bao
gồm các ràng buộc về tài chính của công ty hoặc tùy vào chính sách khuyến khích
hay hạn chế niêm yết… Điều kiện niêm yết ở các quốc gia có TTCK phát triển và
hoàn thiện thường chặt chẽ hơn so với các TTCK mới hình thành. Điều kiện niêm yết
được quy định dưới hình thức là tiêu chuẩn định tính và tiêu chuẩn định lượng.
1.4.3.1. Điều kiện niêm yết của một số nước trong khu vực.
• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Singapore-SES.
SES là nơi giao dịch chứng khoán duy nhất tại Singapore. Thị trường được chia
làm 3 khối: Thị trường chính, thị trường giao dịch tự doanh và đặt lệnh tự động, thị
trường chứng khoán thứ cấp. Các điều kiện cơ bản để niêm yết tại thị trường chính là:
- Không yêu cầu vốn;
- Lợi nhuận tích lũy của 3 năm gần nhất phải ít nhất là 7,5 triệu đôla Singapore, và
lợi nhuận trước thuế phải ít nhất 1 triệu đôla trong mỗi năm; hoặc lợi nhuận tích lũy
trước thuế phải ít nhất 10 triệu đôla Singapore trong vòng 1 hay 2 năm gần nhất;
- Phải đạt 25% cổ phần do 1.000 người đầu tư nắm giữ;
- Phải đáp ứng chuẩn mực kế toán theo tiêu chuẩn kế toán Singapore, Mỹ, quốc tế;
- Phải có báo cáo tài chính được kiểm toán không quá 6 tháng kể từ ngày đăng ký
niêm yết; nếu quá 9 tháng thì phải kèm theo báo cáo tài chính quý không quá 3 tháng.
14



• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Hàn quốc-KSE.
KSE là Sở Giao dịch chứng khoán duy nhất ở Hàn Quốc. Hơn 99% tổng giá trị
giao dịch CP ở Hàn Quốc diễn ra ở đây, phần còn lại được giao dịch trên thị trường
KOSDAQ-thị trường giao dịch bảng 2 chịu sự quản lý của Hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán Hàn Quốc. Các điều kiện cơ bản để niêm yết tại KSE là:
- Có số năm thành lập từ 3 năm trở lên;
- Vốn chủ sở hữu từ 10 tỷ Won trở lên;
- Tình trạng vốn với tỷ lệ thặng dư từ 50% trở lên;
- Doanh thu năm gần nhất từ 30 tỷ won trở lên; 3 năm gần nhất bình quân mỗi năm
phải đạt từ 20 tỷ won trở lên;
- Kết quả kinh doanh phải thỏa 1 trong các điều kiện: ROE năm gần nhất từ 5% trở
lên và tổng của 3 năm tài chính gần nhất phải đạt từ 10%; hoặc lợi nhuận năm tài
chính gần nhất phải đạt từ 2,5 tỷ won và tổng của 3 năm gần nhất phải từ 5 tỷ
won;
- Trường hợp giá trị thuần lớn hơn 100 tỷ won, ROE của năm tài chính gần nhất
phải đạt ít nhất 3% hoặc lợi nhuận đạt ít nhất là 5 tỷ won và lưu chuyển tiền tệ từ
hoạt động kinh doanh trong năm tài chính gần nhất phải dương;
- Tỷ lệ cổ phần của cổ đông nhỏ lẻ từ 30% trở lên; số cổ đông nhỏ lẻ từ 1.000 cổ
đông trở lên;
- Hạn chế tăng vốn trước khi niêm yết;
- Khi niêm yết trên TTCK sơ cấp, hạn chế thay đổi cơ cấu cổ phần của cổ đông lớn,
cổ đông giữ từ 5% cổ phiếu trở lên; cổ đông lớn phải giữ cổ phần của mình trong
vòng 6 tháng;
- Ý kiến của kiểm toán ở năm gần nhất;
- Một năm trước khi niêm yết phải giải quyết các vấn đề phát sinh nợ đọng;
- Không có vụ kiện tụng lớn nào.
• Tại Sở Giao dịch chứng khoán Malaysia-KLSE.
Bursa Malaysia là một trong những thị trường chứng khoán lớn nhất châu Á với
khoảng 1.050 công ty niêm yết thuộc 15 lĩnh vực hoạt động. Để được chấp thuận
niêm yết tại Bursa Malaysia, các doanh nghiệp phải:

15


- Có vốn điều lệ từ 2 triệu RM.
- Lợi nhuận sau thuế ít nhất đạt 60 triệu RM/năm.
- Đảm bảo tình hình tài chính lành mạnh, có đủ vốn hoạt động vào thời điểm đăng
ký;
- Hoạt động tối thiểu 3 năm liên tục trên lĩnh vực đăng ký, đáp ứng các tiêu chuẩn
kế toán - kiểm toán được phía đối tác công nhận hoặc các tiêu chuẩn quốc tế;
Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị hồ sơ gồm: dự báo dòng tiền mặt
và lợi nhuận, bảng đối chiếu nợ có, báo cáo kết quả kinh doanh để trình lên Ủy ban
Chứng khoán. Sau khi đăng ký, các công ty sẽ trình báo cáo quý cho Bursa Malaysia
trong vòng 2 tháng kể từ khi kết thúc một quý, báo cáo kiểm toán tài chính thường
niên trong vòng 4 tháng kể từ khi kết thúc năm. Các báo cáo tài chính phải tuân theo
tiêu chuẩn Malaysia.
1.4.3.2. Điều kiện niêm yết của Việt Nam.
1.4.3.2.1. Tiêu chuẩn định lượng.
Theo Luật Chứng khoán Việt Nam, ngày để được niêm yết CP trên SGDCK, các
công ty phải thỏa mãn các điều kiện sau:
a) Là CTCP có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng
Việt Nam trở lên, tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Căn cứ vào tình hình phát
triển thị trường, mức vốn có thể được Bộ Tài chính điều chỉnh tăng hoặc giảm trong
phạm vi tối đa 30% sau khi xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ;
b) Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và
không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết;
c) Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp
luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám
đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
d) Tối thiểu 20% CP có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm

giữ;
đ) Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty

16


phải cam kết nắm giữ 100% số CP do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ
ngày niêm yết và 50% số CP này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số CP
thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ.
Đối với lĩnh vực ngân hàng, để có thể đăng ký niêm yết CP, tại Quyết định số
787/2004/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 06 năm 2004 của NHNN quy định các
NHTMCP phải có thêm các điều kiện sau:
i. Vốn điều lệ thực có tối thiểu phải bằng mức vốn pháp định được quy định theo
từng thời kỳ;
ii. Có thời gian hoạt động tối thiểu là 05 năm và hoạt động kinh doanh có lãi liên
tục trong 2 năm gần nhất kể từ thời điểm xin niêm yết CP;
iii. Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay liên tục trong 02 năm gần nhất dưới 3%;
iv. Không vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng và các quy
định khác của pháp luật, không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
tiền tệ và hoạt động ngân hàng với mức xử phạt trên 1.000.000 đồng trong thời
gian ít nhất 01 năm tính đến thời điểm xin đăng ký niêm yết CP;
v. Tuân thủ giới hạn sở hữu cổ phần theo quy định của Thống đốc NHNN;
vi. Được xếp loại A theo quy định của Thống đốc NHNN về xếp loại đối với
NHTMCP liên tục trong hai năm gần nhất kể từ thời điểm xin đăng ký niêm yết;
vii. Có đủ hồ sơ theo quy định.
1.4.3.2.2. Tiêu chuẩn định tính.
- Đánh giá về triển vọng của công ty;
- Phương án khả thi về sử dụng vốn của đợt phát hành;
- Ý kiến kiểm toán về các báo cáo tài chính;

- Cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty;
- Lợi ích mang lại đối với ngành, nghề trong nền kinh tế;
- Mẫu chứng chỉ cổ phiếu;
- Tổ chức công bố thông tin: Các quy định về đối tượng công bố thông tin; yêu
cầu thực hiện công bố thông tin; người được ủy quyền công bố thông tin;
phương tiện và hình thức công bố thông tin; bảo quản, lưu giữ thông tin...

17


×