Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tác động của tài sản có rủi ro đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán của ngân hàng TMCP việt nam kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TÚ KIM UYÊN

TÁC ĐỘNG CỦA TÀI SẢN CÓ RỦI RO ĐẾN TỶ SUẤT
SINH LỢI CHỨNG KHOÁN CỦA NGÂN HÀNG TMCP
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HCM, Tháng 11 Năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TÚ KIM UYÊN

TÁC ĐỘNG CỦA TÀI SẢN CÓ RỦI RO ĐẾN TỶ SUẤT
SINH LỢI CHỨNG KHOÁN CỦA NGÂN HÀNG TMCP
VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TẤN HOÀNG


TP.HCM, Tháng 11 Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả của quá trình học
tập, nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của Tôi. Các số liệu trong luận văn
là trung thực, chính xác và được thu thập từ những nguồn chính thống và đáng tin
cậy.
Tôi cam đoan rằng luận văn này chưa được công bố trên bất kỳ một công trình
nghiên cứu nào.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm
2013

Nguyễn Tú Kim Uyên


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT

................................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ......................................................................................... 2
1.1


Lý do nghiên cứu ............................................................................................ 2

1.2

Vấn đề nghiên cứu .......................................................................................... 4

1.3

Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 4

1.4

Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 5

1.5

Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................... 5

1.6

Kết cấu luận văn ............................................................................................. 6

CHƢƠNG 2. LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY .................... 7
CHƢƠNG 3. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 21
3.1

Phương pháp thu thập dữ liệu....................................................................... 21

3.2


Mô hình, biến và giả thiết nghiên cứu .......................................................... 22
3.2.1 Mô hình nghiên cứu............................................................................. 22
3.2.2 Biến nghiên cứu ................................................................................... 22
3.2.3 Giả thiết nghiên cứu ............................................................................ 29

3.3

Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 31

CHƢƠNG 4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................... 36
4.1

Thống kê mô tả các biến nghiên cứu ............................................................ 36


4.2

Kết quả nghiên cứu ....................................................................................... 41
4.2.1 Kiểm định giả thiết (H1) ..................................................................... 43
4.2.2 Kiểm định giả thiết (H2) ..................................................................... 52

CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN .......................................................................................... 55
5.1

Kết luận ........................................................................................................ 55

5.2

Hạn chế của bài nghiên cứu.......................................................................... 56


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HNX

: Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội

HOSE

: Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

NHTW

: Ngân hàng trung ương

TCTD


: Tổ chức tín dụng

VND

: Việt Nam đồng

TSCĐ

: Tài sản cố định

RWA

: Tài sản có rủi ro

TA

: Tài sản hữu hình

TCE

: Vốn cổ phần hữu hình

NPL

: Nợ xấu

ROAA

: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản trung bình


CAR

: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

FEM

: Mô hình hồi quy tác động cố định

REM

: Mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Danh sách các biến của bài nghiên cứu
Bảng 4.1. Danh sách chi tiết các ngân hàng lấy mẫu
Bảng 4.2. Thống kê mô tả dữ liệu các biến
Bảng 4.3. Các kỳ vọng về dấu của hệ số hồi quy
Bảng 4.4. Bảng hồi quy mô hình theo Pool
Bảng 4.5. Bảng hồi quy mô hình theo FEM
Bảng 4.6. Bảng hồi quy mô hình theo REM
Bảng 4.7. Bảng kết quả kiểm định Hausman test
Bảng 4.8. Ma trận hệ số tương quan giữa biến giải thích RWA/TA, TCE/TA và các
biến giải thích
Bảng 4.9. Ma trận hệ số tương quan giữa biến giải thích RWA/TA, Tier 1/TA và các
biến giải thích
Bảng 4.10. Ma trận hệ số tương quan giữa biến giải thích RWA/TA, Capital/TA và
các biến giải thích
Bảng 4.11. Bảng hồi quy tương tác giữa vốn và tính thanh khoản




1

TÓM TẮT
Qua bài học kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua cho
thấy cần hơn nữa những biện pháp cải cách hệ thống ngân hàng. Chất lượng hoạt
động, quản lý kinh doanh của nhiều tổ chức tín dụng cần phải được xem xét kỹ lưỡng
nhất là đối với các nhà đầu tư, để có kết quả hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả
đòi hỏi các nhà đầu tư phải đánh giá đúng hiệu quả tài chính của các ngân hàng dựa
trên nhiều yếu tố trong đó hệ số an toàn vốn là một yếu tố không thể thiếu, tài sản có
rủi ro là một trong những thành tố phản ảnh hệ số an toàn vốn, tỷ lệ vốn để kiểm soát
vốn của ngân hàng bao gồm tỷ lệ vốn cổ phần hữu hình, tỷ lệ vốn cấp 1, tỷ lệ vốn cấp
1 và vốn cấp 2. Luận văn sử dụng các lý thuyết và các nghiên cứu trước đây để nghiên
cứu vấn đề làm sao các nhà đầu tư có thể xem xét về độ rủi ro các tài sản tính theo độ
rủi ro của tài sản ngân hàng bằng cách kiểm tra các yếu tố quyết định đến tỷ suất sinh
lợi chứng khoán của một số ngân hàng TMCP đã niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.


2

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1. Lý do nghiên cứu:
Cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2007 đã cho thấy hàng loạt những điểm yếu
trong việc vận hành hệ thống ngân hàng. Thách thức mấu chốt là làm sao để xác định
những rủi ro tài sản ngân hàng một cách thích đáng. Nguyên tắc mà các quy định vốn
tối thiểu nên được gắn chặt với các rủi ro của ngân hàng đã được quốc tế thừa nhận và
chính thức hóa trong hiệp ước vốn Basel I năm 1988, và định nghĩa về vốn, hệ thống

đo lường các rủi ro tín dụng cũng phải trải qua hàng loạt rà soát sau thời gian đó. Hiệp
ước vốn Basel II, công bố năm 2004, khuyến nghị các ngân hàng nên nắm giữ lại
lượng vốn bằng ít nhất 8% của tổng tài sản tính theo độ rủi ro.
Tài sản tính theo độ rủi ro là một yếu tố quan trọng của các chỉ số vốn dựa trên
rủi ro. Thật vậy, các ngân hàng có thể nâng mức tỷ lệ vốn tương thích của họ theo hai
cách: (i) có thể nâng tử số của tỷ lệ nghĩa là tăng khoản vốn tối thiểu nắm giữ (vốn tự
có), hay (ii) giảm mẫu số của tỷ lệ, nghĩa là giảm tài sản tính theo độ rủi ro. Mối quan
tâm chủ yếu về các phương pháp xác định tài sản tính theo độ rủi ro đang dùng hiện
nay là nó có khe hở để các ngân hàng hoạt động riêng lẻ “tối ưu hóa” các quy định về
vốn thông qua việc đánh giá thấp các rủi ro và vì vậy, đươc phép nắm giữ mức vốn
thấp hơn. Jones (2000) đã thảo luận những phương pháp kỹ thuật mà các ngân hàng có
thể sử dụng để thực hiện các đầu cơ kiếm lời vốn tối thiểu đồng thời cũng cung cấp
các bằng chứng về tầm quan trọng của những hoạt động này ở nước Mỹ. Thậm chí
dưới hệ thống Basel I, hệ thống mà trong đó các hạng tài sản cụ thể đã được phân định
các hệ số rủi ro cụ thể, mẫu số tỷ lệ vốn cũng không được nhắc đến. Merton (1995) đã
đưa ra một ví dụ trong đó, thay cho một danh mục vốn đầu tư của các tài sản thế chấp,
một ngân hàng có thể giữ một giá trị kinh tế tương đương với danh mục đó tại một hệ
số rủi ro lớn bằng 1/8. Các đổi mới trong các sản phẩm tài chính từ hiệp ước vốn Basel
I cũng có khả năng giúp cho các cơ quan tài chính thao túng việc hệ số đo lường rủi ro
tối thiểu. Acharya, Schnabl và Suarez (2010) phân tích thương phiếu có tài sản bảo


3

lãnh và đã tìm ra các kết quả cho thấy các ngân hàng đã sử dụng hình thức chứng
khoán hóa này để tập trung các rủi ro thay vì phân tán chúng trong ngành ngân hàng
trong khi giảm các mức quy định vốn ngân hàng. Cùng với các lo ngại liên quan tới
việc đánh giá thấp rủi ro tài sản, các chênh lệch trong tính toán tài sản tính theo độ rủi
ro giữa các ngân hàng cũng có thể gây ra những tác động không mong đợi lên sự ổn
định tài chính.

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã
có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi
ro của các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo đó,
việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II được đặc biệt chú trọng, nhất là
sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua.
Mới đây, NHNN Việt Nam đã ban hành quy định mới về các tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày
20/5/2010, và ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày ngày 27/9/2010, Thông
tư số 22/2011/TT-NHNN ngày 30/8/2011 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010) và đang khẩn trương hoàn thiện một số quy
định mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc từng bước
áp dụng các chuẩn mực Basel II tại Việt Nam.


4

1.2. Vấn đề nghiên cứu:
Có thể thấy được áp lực cùng vai trò của ngành ngân hàng ngày càng nặng nề
trong nền kinh tế hiện nay. Việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí
khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát triển ban
đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn, thách thức và mất nhiều
thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính –
ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc áp dụng Basel II tại Việt
Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối
với các ngân hàng thương mại
Về phía các tổ chức tín dụng Việt Nam, Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc
nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc
tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn

thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện
hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của
Basel II.
Như vậy, quản trị rủi ro trở thành một trong những tiêu chí quan trọng để đánh
giá hiệu quả hoạt động cũng như sự tồn tại của ngân hàng trong xu thế hội nhập quốc
tế hiện nay. Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, tôi đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu đề
tài sau: “Tác động của tài sản có rủi ro đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán của một số
Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam”.
1.3. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là xem xét tác động của tài sản có rủi ro đến tỷ
suất sinh lợi chứng khoán của một số Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai
đoạn từ năm 2010 đến năm 2012 để tìm hiểu liệu tài sản tính theo độ rủi ro được các
ngân hàng báo cáo có phải là một hệ số đo lường rủi ro đáng tin cậy không, điều này
phản ánh hiệu quả hoạt động của ngân hàng như thế nào, từ những tác động đó rút ra
những nhận xét và đề xuất một số giải pháp trong việc quản lý tài sản có rủi ro nhằm
tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng TMCP.


5

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu này, đề tài tập trung trả lời những câu hỏi
nghiên cứu quan trọng sau đây:
 Có phải ngân hàng có tài sản tính theo độ rủi ro ít hơn thì có tỷ suất sinh lợi
chứng khoán cao hơn trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2012?
 Mối quan hệ giữa vốn và tỷ suất sinh lợi chứng khoán như thế nào?
1.4. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu một số ngân hàng
thương mại cổ phần có niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn
từ nằm 2010 đến năm 2012. Luận văn lựa chọn phạm vi nghiên cứu này vì đây là giai
đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát dữ dội vào tháng 9 năm 2008,

Việt Nam đã là một thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là giai
đoạn đòi hỏi hệ thống ngân hàng tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải cách trong quản trị
điều hành, quản lý rủi ro để nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước
ngoài.
Phạm vi lựa chọn các đại lượng đo lường trong nghiên cứu: nói đến hiệu quả
trong hoạt động ngân hàng và quản lý rủi ro thì có rất nhiều chỉ tiêu có thể sử dụng để
đo lường, tuy nhiên với mục tiêu nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung chính vào số
liệu tài sản có rủi ro, vốn của ngân hàng (capital) và tỷ suất sinh lợi chứng khoán
(stock return) và một số biến giải thích khác sẽ được giải thích kỹ hơn ở phần sau.
1.5. Ý nghĩa của đề tài:
Tác giả đã vận dụng những kiến thức từ những môn học như: phân tích tài chính
doanh nghiệp, quản trị rủi ro, quản trị ngân hàng, phân tích báo cáo tài chính… để
hoàn thành luận văn.
Bằng việc phân tích các chỉ tiêu: tài sản có rủi ro/tài sản hữu hình (RWA/TA),
Vốn/Tài sản hữu hình (Capital/TA), tỷ suất sinh lợi chứng khoán (stock return), tỷ suất
sinh lợi trên tổng tài sản trung bình (ROAA), nợ xấu/tổng nợ (NPL/Loans),… qua các
năm gần đây nhằm giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng, các nhà đầu tư của ngân hàng


6

thấy được tác động của tài sản có rủi ro đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thông
qua chỉ số stock return để có thể có những điều chỉnh hợp lý trong việc quản trị ngân
hàng của ban lãnh đạo cũng như đưa ra được những quyết định đầu tư hiệu quả của
các nhà đầu tư.
Mặt khác luận văn còn giúp ích cho khách hàng có được những thông tin bổ ích
về hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trên cơ sở đó khách hàng sẽ có sự lựa chọn phù
hợp với mục tiêu đầu tư giao dịch của mình một cách tốt nhất.
Luận văn góp thêm một phần tài liệu để các bạn học viên, sinh viên nghiên cứu
và so sánh với các nghiên cứu khác trong và ngoài nước.

1.6. Kết cấu luận văn:
Luận văn được chia thành 5 chương với nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Lý thuyết và các nghiên cứu trước đây
Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận


7

CHƢƠNG 2. LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
TRƢỚC ĐÂY
2.1. Tổng quan về cơ sở lý thuyết
Theo các khái niệm về quản trị ngân hàng thương mại, hoạt động ngân hàng là
các hoạt động rủi ro, có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường đối với công chúng và
nền kinh tế. Một ngân hàng hoạt động hiệu quả, an toàn nhưng vẫn có thể sụp đổ do
những tác động dây chuyền trong khủng hoảng tài chính.
Như vậy có thể thấy được áp lực cũng như vai trò của ngành ngân hàng ngày
càng nặng nề trong nền kinh tế như hiện nay. Tuy nhiên sự gia tăng sức ép cạnh tranh
sẽ tác động đến ngành ngân hàng như thế nào còn phụ thuộc vào khả năng thích nghi
và chịu đựng của từng ngân hàng để mang lại hiệu quả tài chính của ngân hàng đó.
Do vậy, các ngân hàng thương mại không những phải duy trì được sự ổn định
trong hoạt động của mình mà đòi hỏi các ngân hàng phải phải có một chiến lược quản
trị vốn, quản trị rủi ro hiệu quả. Theo lý thuyết một số mô hình xác định tỷ suất sinh
lợi chứng khoán thì yếu tố rủi ro là một trong những yếu tố quan trọng.
Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các Ngân
hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã tập hợp tại
thành phố Basel, Thụy Sĩ vào năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng này. Sau khi
nhóm họp, các cơ quan này đã quyết định hình thành Ủy ban Basel về giám sát ngân

hàng (Basel Committee on Banking Supervision), đưa ra các nguyên tắc chung để
quản lý hoạt động của các ngân hàng quốc tế.
Năm 1988, Ủy ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về
vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một
mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu
này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này
cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó.


8

Cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2007 tiếp tục phơi bày hàng loạt những điểm
yếu kém trong việc vận hành hệ thống ngân hàng. Điều quan trọng là làm sao để xác
định những rủi ro tài sản ngân hàng một cách thích đáng? Nguyên tắc mà các quy định
vốn tối thiểu nên được gắn chặt với các rủi ro của ngân hàng đã được quốc tế thừa
nhận và chính thức hóa trong hiệp ước vốn Basel I năm 1988, và định nghĩa về vốn, hệ
thống đo lường các rủi ro tín dụng cũng phải trải qua hàng loạt rà soát sau thời gian đó.
Hiệp ước vốn Basel II, công bố năm 2004, khuyến nghị các ngân hàng nên nắm giữ lại
lượng vốn bằng ít nhất 8% của tổng tài sản tính theo độ rủi ro. Thật vậy, tài sản tính
theo độ rủi ro là một yếu tố quan trọng của các chỉ số vốn dựa trên rủi ro.
Bên cạnh đó, vốn tự có lại chính là phòng tuyến hàng đầu của ngân hàng có khả
năng chống đỡ hay “thẩm thấu” các loại rủi ro khác nhau trong quá trình kinh doanh
của mình. Vốn tự có có chức năng chống đỡ hay bù đắp rủi ro. Một ngân hàng có vốn
tự có lớn có khả năng chống đỡ rủi ro tốt hơn các ngân hàng có vốn tự có nhỏ, đặc biệt
là đối với các rủi ro hệ thống.
Vốn tự có là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng. Người tiêu dùng sản phẩm dịch
vụ ngân hàng luôn quan tâm tìm hiểu khả năng, thanh danh và tiềm lực của ngân hàng
phục vụ mình. Quy mô tài sản, nguồn vốn trong đó có vốn tự có chính là những cơ sở
quan trọng cho sự lựa chọn đó.
Ngày 20/5/2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 13/2010/TTNHNN ngày 20/5/2010 Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ

chức tín dụng - có lẽ là một trong những bước tiến hết sức tích cực trong việc xây
dựng những nền tảng cần thiết về đảm bảo an toàn hệ thống, nhằm có một hệ thống tài
chính lành mạnh và ổn định, thực hiện tốt vai trò phân bổ vốn trong nền kinh tế. Thông
tư có quy định các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR (Capital
adequacy Ratio – CAR = Vốn tự có/ Tổng tài sản có rủi ro), đây là một chỉ tiêu quan
trọng phản ánh năng lực tài chính của các ngân hàng.
Về phía các nhà đầu tư để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận họ sẽ quan tâm
đến rủi ro và tỷ suất sinh lợi chứng khoán. Câu hỏi đặt ra liệu các nhà đầu tư làm thế


9

nào để có thể tính toán độ rủi ro các tài sản tính theo độ rủi ro của ngân hàng để xem
xét hệ số an toàn vốn, để đánh giá đúng đắn hiệu quả hoạt động của ngân hàng? Tác
giả Snali Das và Amadou đã có nghiên cứu thực nghiệm vấn đề này bằng cách kiểm
tra các yếu tố quyết định đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán và các hệ số đo lường rủi ro
thị trường.
Kế thừa kết quả nghiên cứu trên, bài nghiên cứu ứng dụng các lý thuyết, mô hình
và các biến tương tự liên quan đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán như tỷ lệ tài sản có rủi
ro và tài sản hữu hình (RWA/TA), các tỷ lệ vốn với tài sản hữu hình bao gồm 3 tỷ lệ:
vốn cổ phần hữu hình với tài sản hữu hình (TCE/TA), vốn cấp 1 với tài sản hữu hình
(Tier1/TA), vốn tự có với tài sản hữu hình (Tier1 + Tier 2/TA), tiền gửi của khách
hàng (Deposits), tỷ lệ chứng khoán đầu tư và tổng tài sản (Securities/Assets), Tỷ lệ nợ
xấu (NPL/Loans), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản trung bình (ROAA),… để làm cơ sở
kiểm tra các giả thiết và trả lời các câu hỏi của bài nghiên cứu.


10

2.2. Các nghiên cứu trƣớc đây

Các nghiên cứu trước đây được xây dựng trên hai xu hướng chính sau. Đầu tiên,
là xu hướng liên quan đến nghiên cứu khả năng ứng biến của ngân hàng trong cuộc
khủng hoảng tài chính gần đây. Asli Demirguc-Kunt, Enrica Detragiache, and
Ouarda Merrouche (2010) nhận thấy rằng vốn có liên quan tích cực với tỷ suất sinh
lợi chứng khoán của ngân hàng trong cuộc khủng hoảng qua bài viết Bank Capital:
Lessons from the Financial Crisis (Nguồn vốn ngân hàng: Bài học từ cuộc khủng
hoảng tài chính). Sử dụng kênh ngân hàng đa quốc gia, tác giả nghiên cứu liệu các
ngân hàng với nguồn vốn tốt hơn có thể đạt được lợi nhuận cổ phiếu cao hơn trong
suốt cuộc khủng hoảng tài chính hay không. Tác giả phân biệt giữa các loại tỉ lệ vốn
khác nhau: Tỉ lệ điều chỉnh rủi ro Basel; tỉ suất nợ; các tỉ lệ vốn cấp 1 và vốn cấp 2; tỉ
lệ vốn hữu hình. Tác giả đã tìm ra kết quả: (i) trước cuộc khủng hoảng, sự khác biệt về
nguồn vốn không có nhiều tác động lên tỷ suất sinh lợi chứng khoán; (ii) trong cuộc
khủng hoảng, tình trạng nguồn vốn mạnh hơn gắn liền với hoạt động của thị trường
chứng khoán tốt hơn, điển hình nhất ở các ngân hàng lớn hơn; (iii) mối quan hệ giữa tỷ
suất sinh lợi chứng khoán và nguồn vốn càng mạnh mẽ hơn khi nguồn vốn được đo
bởi tỉ lệ vay nợ hơn là tỉ lệ vốn điều chỉnh rủi ro; (iv) hình thức của vốn cũng quyết
định đến chất lượng vốn, như vốn cấp 1 và vốn cổ phần hữu hình, thì phù hợp hơn.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây đã dẫn đến các cuộc kêu gọi trên
diện rộng nhằm cải cách các quy định và giám sát của ngân hàng. Những thay đổi
trong điều tiết vốn của ngân hàng đang là tâm điểm của các cuộc thảo luận về chính
sách. Các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn vốn được thiết kế lại cùng với việc kết hợp các
bài học từ tình hình khủng hoảng gần đây, ủy ban giám sát Basel đã đối mặt với hai
vấn đề quan trọng trong số các vấn đề: Loại vốn mà ngân hàng nên duy trì để đảm bảo
rằng họ có thể đối phó tốt hơn trong giai đoạn suy giảm tài chính và kinh tế? Và tỉ lệ
vốn vay có nên được áp dụng nhằm giảm chênh lệch giá điều tiết và cải thiện tính
minh bạch không?


11


Bài viết của tác giả làm sáng tỏ cả hai vấn đề này bằng việc khảo sát lợi nhuận cổ
phiếu của các ngân hàng liệu có bị tác động khác nhau phụ thuộc vào tình hình vốn
của ngân hàng không. Cụ thể, tác giả sử dụng dữ liệu bảng hàng quý của ngân hàng
đối với 12 quốc gia từ 2006-2009 để nghiên cứu tác động của nguồn vốn ngân hàng và
các quy định, yếu tố tác động đến sự thay đổi giá trị thị trường của các ngân hàng. Sử
dụng cuộc khủng hoảng bắt đầu từ 08/2007 như một cú sốc bất ngờ, tác giả tìm hiểu
xem liệu người tham gia thị trường có nắm được các quy định vốn khác nhau để có sự
đo lường hiệu quả về khả năng của các ngân hàng để có thể ứng phó với sự suy giảm
hay không?
Tác giả thấy rằng trước cuộc khủng hoảng, sự chênh lệch nguồn vốn ban đầu
không ảnh hưởng liên tục đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán sau này của ngân hàng.
Mặt khác, tầm quan trọng của nguồn vốn trở nên rõ ràng hơn trong suốt giai đoạn
khủng hoảng, đặc biệt đối với các ngân hàng lớn theo minh họa của tác giả. Đây là
những ngân hàng có tầm quan trọng hơn trong hệ thống, cũng như những ngân hàng
nắm giữ nguồn vốn chất lượng thấp ở thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng. Kết quả
của tác giả cũng chỉ ra rằng trong suốt cuộc khủng hoảng, tỷ suất sinh lợi chứng khoán
của các ngân hàng lớn nhạy cảm với tỷ suất vốn vay hơn là so với tỷ suất vốn điều
chỉnh rủi ro. Điều này có thể là do những người tham gia thị trường đã xem xét kỹ việc
điều chỉnh rủi ro thông qua các quy định Basel để xử lý một cách khéo léo. Cuối cùng,
tác giả cũng thấy được mối liên hệ tích cực với tỷ suất sinh lợi chứng khoán càng
mạnh hơn với chất lượng nguồn vốn cao hơn (vốn vay cấp 1 và vốn cổ phần hữu hình).


12

Kết quả của tác giả có ý nghĩa tiềm năng đối với quá trình cải cách hiện tại. Thứ
nhất, tác giả tìm thấy sự hỗ trợ cho quan điểm rằng tình hình nguồn vốn mạnh hơn là
một tài sản quan trọng trong suốt cuộc khủng hoảng có tính hệ thống, đề nghị nhấn
mạnh việc tăng cường các yêu cầu về nguồn vốn là hoàn toàn phù hợp. Thứ hai, kết
quả của tác giả chỉ ra rằng việc đưa ra tỷ suất vốn vay tối thiểu để bổ sung vào các yêu

cầu vốn điều chỉnh rủi ro tối thiểu là rất quan trọng, như việc đo lường mức độ rủi ro
là đặc biệt rất khó đối với những tổ chức tài chính lớn và phức tạp. Cuối cùng, nghiên
cứu của tác giả chỉ ra rằng việc tập trung hơn đối với nguồn vốn chất lượng cao hơn ở
hình thức vốn cấp 1 hay vốn hữu hình là thích hợp.
Andrea Beltratti and Rene M.Stulz (2010) nhận thấy rằng các ngân hàng lớn
có nguồn vốn cao hơn, độ tín nhiệm tiền gửi cao hơn và trong khoảng thời gian ngắn
hạn của thời kỳ khủng hoảng năm 2006 thì lãi nhiều hơn, nhưng các yếu tố này không
tác động mạnh đến rủi ro của ngân hàng, được đánh giá bởi độ bất ổn định riêng và
khoảng cách dẫn đến vỡ nợ của ngân hàng thông qua bài viết The credit crisis around
the globe: Why did some banks perform better? (Cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu:
Tại sao một số ngân hàng hoạt động tốt hơn?)
Mặc dù toàn bộ hoạt động của ngân hàng từ 07/2007 đến 12/2008 là rất tồi tệ do
cuộc Đại suy thoái, tại các ngân hàng lớn trên thế giới trong giai đoạn đó tỷ suất sinh
lợi chứng khoán vẫn có sự dao động đáng kể. Tác giả sử dụng sự dao động này để
đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố được đưa ra như đã góp phần vào hoạt động
kém hiệu quả của các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng tín dụng. Bằng chứng của tác
giả mâu thuẫn với tranh luận rằng việc quản lý yếu kém của ngân hàng khiến cuộc
khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn, nhưng nó hỗ trợ cho các lý thuyết nhấn mạnh sự yếu
kém của các ngân hàng được tài trợ bởi nguồn ngân sách thị trường vốn ngắn hạn.
Đáng chú ý là sự khác nhau trong các quy chế ngân hàng trên thế giới nhìn chung
không tương quan với hoạt động của ngân hàng trong suốt cuộc khủng hoảng, ngoại
trừ những ngân hàng ở các quốc gia có sự hạn chế hơn đối với hoạt động ngân hàng thì
thực hiện tốt hơn. Các ngân hàng hoạt động tốt hơn có vốn vay ít hơn và lợi nhuận
thấp hơn trong năm 2006 là những ngân hàng hoạt động kém hiệu quả.


13

Trong bài viết này, tác giả khảo sát các yếu tố quyết định đến tỷ suất sinh lợi
chứng khoán của các ngân hàng lớn trên thế giới trong suốt giai đoạn từ đầu tháng

07/2007 đến cuối tháng 12/2008, giai đoạn này tương ứng với sự tàn phá ngân hàng
lớn nhất từ cuộc Đại khủng hoảng. Tác giả thấy rằng các ngân hàng lớn có mối quan
hệ mật thiết giữa hội đồng quản trị và các cổ đông thì sẽ hoạt động kém hơn trong suốt
giai đoạn này. Trái lại, các ngân hàng lớn với nguồn vốn cấp 1 nhiều hơn, nhiều khoản
tiền gửi hơn, và nhiều khoản nợ hơn thì hoạt động tốt hơn. Cũng như các ngân hàng ở
các quốc gia có giới hạn hoạt động ngân hàng lại có lợi nhuận cao hơn.
Nhìn chung, bằng chứng của tác giả chỉ ra rằng việc quản lý, quy định của ngân
hàng trước cuộc khủng hoảng đều rất hữu ích trong việc tìm hiểu hoạt động của ngân
hàng trong suốt cuộc khủng hoảng. Những phân tích trong cuộc khủng hoảng nhấn
mạnh tính yếu kém của các ngân hàng được cấp vốn ngắn hạn tăng lên, điều này cũng
nhấn mạnh vai trò của nguồn vốn ngân hàng. Các ngân hàng tại một số quốc gia có
thặng dư tài khoản thì tốt hơn trong suốt cuộc khủng hoảng, trong khi những ngân
hàng tại các quốc gia với hệ thống ngân hàng tiếp xúc nhiều hơn với Mỹ thì kém hơn.
Những kết quả sau này cho thấy sự mất cân bằng nền kinh tế vĩ mô liên quan đến hoạt
động của ngân hàng trong suốt cuộc khủng hoảng.
Theo đề nghị của Adam (2009), bằng chứng này phù hợp với quan điểm rằng các
ngân hàng hoạt động rủi ro hơn được thị trường đánh giá cao vì trước cuộc khủng
hoảng họ phải chịu đựng nhiều hơn khi những rủi ro này dẫn đến những thiệt hại lớn
không lường trước được. Bằng chứng thuyết phục hỗ trợ cho việc diễn giải sau này là
hoạt động của các ngân hàng lớn trong suốt cuộc khủng hoảng có liên quan tiêu cực
đến hoạt động của họ trong năm 2006. Mặt khác, các ngân hàng được thị trường ủng
hộ với tỷ suất sinh lợi chứng khoán lớn trong năm 2006 là những ngân hàng có cổ
phiếu phải chịu những thiệt hại lớn nhất trong suốt cuộc khủng hoảng. Các ngân hàng
tại các quốc gia có giới hạn hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tốt hơn, nhưng
những ngân hàng ở các quốc gia này ít rủi ro trước cuộc khủng hoảng khi rủi ro được
đo bằng việc sử dụng khoảng cách đối với việc không trả được nợ và vốn vay. Do đó,
việc giới hạn hoạt động của ngân hàng không đem lại kết quả ở những ngân hàng mạo


14


hiểm ít hơn, tuy nhiên có thể ngăn chặn được các ngân hàng hoạt động trong các
ngành nghề kinh doanh kém hiệu quả trong suốt cuộc khủng hoảng. Nghiên cứu sâu
hơn có đề nghị là nên cố gắng xây dựng các chỉ số phản ánh quan điểm của các nhà
quản lý. Các chỉ số quản lý là thước đo về quyền và nghĩa vụ chính thức của các nhà
quản lý cũng như của các ngân hàng, tuy nhiên các nhà quản lý linh hoạt có thể bị ảnh
hưởng rủi ro bởi các nhà quản lý thụ động tại các ngân hàng khác, ngay cả khi các nhà
quản lý khác nhau này có quyền lợi tương tự như nhau.
Ryo Kato, Shun Kobayashi, Yumi Saita (2010) tìm thấy dấu hiệu cho rằng, đối
với các ngân hàng lớn, tỷ suất sinh lợi chứng khoán từ 2007 đến 2008 không liên quan
đến tỷ suất vốn cấp 1 nhưng có liên quan tích cực với tỷ lệ tiền gửi chia cho nợ. Qua
bài viết Calibrating the Level of Capital: The Way We See It? (Hiệu chỉnh mức vốn:
cách chúng ta nhìn nhận vấn đề?)
Mục tiêu chính của bài viết này nhằm đề xuất khuôn khổ cho việc đánh giá các
mức vốn tối ưu tại các ngân hàng có triển vọng, xây dựng các yếu tố như tính thanh
khoản và điều kiện kinh tế vĩ mô. Đầu tiên, tác giả cố gắng sắp xếp lại sự đa dạng của
các đề xuất chính sách nhằm tăng cường quy định trong lĩnh vực tài chính. Trong viễn
cảnh rộng lớn của khung chính sách bảo đảm an toàn, tác giả thảo luận về vai trò của
nguồn vốn ngân hàng trong việc tăng cường khả năng phục hồi lĩnh vực ngân hàng.
Thứ hai, theo dự đoán của tác giả, tác giả áp dụng một hệ thống cảnh báo sớm để
dự báo cuộc khủng hoảng tài chính, nơi mà vai trò của nguồn vốn và thanh khoản chắc
chắn đạt được. Trong hệ thống hệ thống cảnh báo sớm, kết quả ước tính như sau: (i)
nguồn vốn và thanh khoản là những yếu tố thay thế không hoàn hảo với nhau trong
cuộc khủng hoảng, (ii) khả năng thanh toán khoản nợ dự báo được thống kê là quan
trọng trong cuộc khủng hoảng tài chính tiềm ẩn trong một vài năm tới.
Sau đó, tác giả áp dụng hệ thống cảnh báo sớm như một yếu tố phân tích hiệu
quả kinh tế để đo lường lợi nhuận từ việc huy động vốn và các yêu cầu thanh khoản,
như các điều tiết khan hiếm hơn được mong đợi để giảm khả năng xảy ra cuộc khủng
hoảng tài chính. Mặt khác, các điều tiết về mặt tài chính nên đi kèm với các chi phí cố



15

định. Để định lượng chi phí, tác giả sử dụng mô hình nền kinh tế vĩ mô hiện hữu để
ước tính chi phí huy động vốn và các yêu cầu thanh khoản. Kết hợp hệ thống cảnh báo
sớm (trong tính toán lợi nhuận) với mô hình kinh tế vĩ mô (trong tính toán chi phí), tác
giả đưa ra một khung hiệu quả kinh tế hoàn thiện có thể quyết định mức vốn tối ưu tác
động lên bảng cân đối chính thức giữa các chi phí và lợi nhuận của sự điều tiết tài
chính.
Các kết quả chính chỉ ra rằng mức vốn ngân hàng tối ưu có thể khác nhau đáng
kể phụ thuộc vào chỉ tiêu thanh khoản cả về tài sản và khoản nợ trong bảng cân đối tài
chính của ngân hàng cũng như điều kiện nền kinh tế vĩ mô, điển hình tượng trưng bởi
lạm phát thị trường nhà đất. Cuối cùng, khung hiệu quả kinh tế đề nghị các ngân hàng
nên điều tiết nguồn vốn phản chu kỳ tốt hơn để chuẩn bị tốt cho những khó khăn tiềm
ẩn.
Tác giả nhắc lại cả về lý thuyết và thực tế, hai khái niệm, (i) mức vốn tối ưu để
tối đa hóa khả năng phục hồi của ngân hàng và (ii) mức vốn tối thiểu quy định, cần
được bàn luận riêng biệt. Bất kì loại hiệu quả nào tiếp cận vớilợi ích của hiệu quả kinh
tế, bằng việc xây dựng, mức vốn “tối ưu” vượt quá bất kỳ sự điều tiết bổ sung nào đều
không có hiệu quả. Về mặt này, tác giả sử dụng hai phương án tiếp cận: (i) Khung hiệu
quả kinh tế để ước tính mức vốn tối ưu và (ii) khảo sát vĩ mô để tìm ra mức điều tiết
tối thiểu.
Có bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng lợi nhuận từ việc huy động vốn ngân
hàng (hoặc nguồn vốn của toàn bộ ngân hàng) không được quyết định độc lập và phụ
thuộc vào sức chịu đựng rủi ro của ngân hàng (điều này hoàn toàn không thể đạt được
bởi khuôn khổ hiện hữu về trọng số rủi ro của tài sản) được ủy nhiệm, sự ổn định cơ
cấu nợ của ngân hàng, có lẽ, các điều kiện ngoại sinh khác xung quanh lĩnh vực ngân
hàng. Điều này có thể sẽ kêu gọi việc kiểm soát khả năng xảy ra cuộc khủng hoảng (ví
dụ, Barell và những cộng sự năm 2009) bằng việc bổ sung các yếu tố tượng trưng cho
các nhân tố này nơi mà nguồn vốn, đối với một số phạm có thể được thay thế. Điển

hình, mức vốn tối ưu là cần thiết phải duy trì khi mức độ chịu đựng rủi ro của ngân


16

hàng được tăng lên. Theo đó, các ngân hàng có thể có khả năng khắc phục cuộc khủng
hoảng nghiêm trọng một cách dễ dàng hơn, nếu mức độ rủi ro của ngân hàng được
kiểm soát ở mức độ trung bình phù hợp. Nỗ lực của tác giả về mặt này nhằm đánh giá
khả năng phục hồi của lĩnh vực ngân hàng từ những góc độ đa chiều và tác giả hoan
nghênh bất kỳ bình luận nào nhằm cải thiện phương pháp tiếp cận của tác giả. Cuối
cùng, để phát triển và chia sẻ một khuôn khổ hữu ích và tiện lợi mang tầm quốc tế đối
với việc hiệu chỉnh mức độ nguồn vốn và công cụ chính sách để đảm bảo an toàn vĩ
mô được thiết kế tốt hơn.
Thứ hai, xu hướng nghiên cứu được xây dựng theo lối kinh nghiệm trong đó
nghiên cứu rủi ro ngân hàng tại Hoa Kỳ. Avery và Berger (1991b) và Bradley et al
(1991) nhận thấy rằng RWA đối với ngân hàng và tổ chức tiết kiệm, có liên quan tích
cực với ngân hàng hay xác suất thất bại của tổ chức tiết kiệm với các biện pháp kế toán
rủi ro, nhưng mối quan hệ này khá yếu. Cordell và King (1995) so sánh biện pháp thị
trường chứng khoán rủi ro với các biện pháp vốn dựa trên điều tiết rủi ro đối với các
ngân hàng và tổ chức tiết kiệm tại Hoa Kỳ trong năm 1990. Kết quả cho thấy các tiêu
chuẩn vốn thị trường và vốn dựa trên rủi ro phù hợp ở một vài phương diện nào đó
nhưng các biện pháp rủi ro tài sản không có liên quan tuyệt đối với nhau.
Quan trọng nhất là tác giả đã tạo sự tin cậy đối với RWA như hiện nay. Cuộc
tranh luận về vấn đề quy định mức vốn hợp lý cho các ngân hàng đã đi đến thỏa thuận
về các mức vốn cao hơn, tuy nhiên cuộc thảo luận về một hệ số đo lường rủi ro tài sản
thích hợp đã trở thành một vấn đề quan trọng hàng đầu trong thời gian gần đây.
Acharya (2011) lưu ý rằng mức độ quan trọng của nhà ở như một loại tài sản
ngày càng gia tăng để đáp ứng các hệ số rủi ro thấp về chứng khoán có tài sản thế chấp
là nhà ở trong các mức quy định vốn, mặc dù cuộc khủng hoảng cho thấy rằng các
ngân hàng rõ ràng là không nắm giữ đủ vốn so với các loại tài sản này, hệ số rủi ro tài

sản tương đối thấp lại tiếp diễn. Tầm quan trọng của vấn đề được thể hiện rõ nét trong
cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng Euro. Các hệ số rủi ro bằng không của cổ
phiếu các ngân hàng Châu Âu nắm giữ không đúng với các giá trị rủi ro hiện tại của


17

họ. Qua bài viết Securitization without risk transfer (2011). Tác giả phân tích các chỉ
dẫn trên báo thương mại về đảm bảo tài sản, mà nó có kinh nghiệm trong việc “điều
hành” ngân hàng ẩn và đóng vai trò trung tâm ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng
tài chính năm 2007-2009. Tác giả chỉ ra rằng việc kinh doanh chênh lệch giá điều tiết
là động cơ chính đằng sau việc thành lập cầu nối: bảo lãnh được cơ cấu như giảm các
yêu cầu vốn tự có, các ngân hàng với nguồn vốn ít hơn, trong khi vẫn cung cấp nguồn
cứu viện đối với bảng cân đối tài chính ngân hàng cho các nhà đầu tư bên ngoài. Nhất
quán với nguồn cứu viện này, tác giả thấy rằng các cầu nối đem lại sự chuyển nhượng
rủi ro ít trong suốt “kỳ hạn”: những thiệt hại từ các cầu nối còn lại ở các ngân hàng
hơn là đối với các nhà đầu tư bên ngoài và các ngân hàng tổn thất nhiều hơn đối với
các cầu nối có lợi nhuận cổ phiếu thấp hơn.
Trong bài viết này, tác giả phân tích và chỉ ra rằng cơ cấu chia sẻ rủi ro ở các chỉ
dẫn này hàm ẩn nguồn cứu viện trở lại đối với bảng cân đối tài chính ngân hàng. Tác
giả nhận thấy chứng cứ hỗ trợ cho quan điểm mức độ tổn thất đối với các cầu nối này
được cam kết bởi các ngân hàng thương mại nhằm tiến hành việc kinh doanh chênh
lệch giá điều tiết, ví dụ, đề giảm các yêu cầu nguồn vốn hiệu quả của họ. Tác giả cũng
thấy rằng các nhà đầu tư bên ngoài phải chịu những thiệt hại nhỏ ngay cả khi tài sản
thế chấp đảm bảo các cầu nối bị giảm chất lượng, hỗ trợ chính cho nghiên cứu của tác
giả đó là các cầu nối với hình thức chứng khoán hóa không có sự chuyển nhượng rủi
ro. Phù hợp với việc thiếu các chuyển nhượng rủi ro, việc suy giảm giá cổ phiếu của
các ngân hàng ở thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính kết hợp với mức độ tổn
thất cầu nối của họ liên quan tới nguồn vốn cổ phần. Một lần nữa, cuộc khủng hoảng
bùng nổ, mở rộng việc tăng giảm phát hành cổ phiếu, hơn nữa việc bảo lãnh yếu kém

hơn và các ngân hàng bảo trợ yếu hơn.
Phân tích của tác giả làm rõ rằng từ một cầu nối góc độ kinh tế là “các ngân hàng
ít điều tiết hơn” hoạt động trong thế giới ngân hàng ngầm, tuy nhiên nguồn cứu viện
đối với các tổ chức được điều tiết đầy đủ, chủ yếu là các ngân hàng thương mại, thì
được truy cập vào mạng lưới an toàn của chính phủ. Kết quả của tác giả cũng chỉ ra
rằng khi “các ngân hàng được điều tiết” không có nguồn cứu viện như vậy, họ phải


×