Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 88 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

VN èNH MINH

TộI GÂY RốI TRậT Tự CÔNG CộNG
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

VN èNH MINH

TộI GÂY RốI TRậT Tự CÔNG CộNG
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. C HNG H

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Văn Đình Minh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT
TỰ CÔNG CỘNG ............................................................................. 8
1.1.

Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng .......................................... 8

1.2.


Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm khác..... 12

1.2.1.

Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội phá rối an ninh ......... 12

1.2.2.

Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội giết người, cố ý
gây thương tích và hủy hoại tài sản .................................................. 12

1.2.3.

Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội chống người thi
hành công vụ ..................................................................................... 16

1.3.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội
gây rối trật tự công cộng ................................................................. 16

1.3.1.

Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985 .................. 16

1.3.2.


Giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự
năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật Hình
sự năm 1999 ...................................................................................... 19

1.4.

Quy định của Bộ luật Hình sự một số nước về tội tương tự
tội gây rối trật tự công cộng ........................................................... 22

1.4.1.

Quy định của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga về tội tương tự tội
gây rối trật tự công cộng ................................................................... 23


1.4.2.

Quy định của Bộ luật Hình sự Nhật Bản về tội tương tự tội gây
rối trật tự công cộng .......................................................................... 24
1.4.3. Quy định của Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về
tội tương tự tội gây rối trật tự công cộng .......................................... 25
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG
CỘNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH ......................................................... 29
2.1.
2.1.1.
2.1.2.

2.1.3.

Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội
gây rối trật tự công cộng ................................................................. 29
Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết
định tội gây rối trật tự công cộng ...................................................... 29
Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết
định khung đối với tội gây rối trật tự công cộng .............................. 34
Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về hình phạt
và khung hình phạt đối với tội gây rối trật tự công cộng .................. 38

2.2.

Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999
về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ......... 43
2.2.1. Một số kết quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999
về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ................ 43
2.2.2. Một số tồn tại, vướng mắc khi áp dụng quy định của Bộ luật Hình
sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh và nguyên nhân của tồn tại, vướng mắc này ............................... 47
Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 55
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH .............................................. 56
3.1.

Yêu cầ u của việc hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về
tội gây rối trật tự công cộng ........................................................... 56



3.2.

Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội gây rối trật tự
công cộng và một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện .................... 59

3.3.

Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của Bộ luật Hình sự về tội gây rối trật tự công cộng ................... 62

3.3.1.

Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ
luật Hình sự trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về
hành vi gây rối trật tự công cộng ...................................................... 62

3.3.2.

Chú trọng tổng kết xét xử tội gây rối trật tự công cộng và công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân ........ 63

3.3.3.

Đẩy mạnh phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức với các cơ quan
bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử
nghiêm minh tội gây rối trật tự công cộng ........................................ 69

Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Bảng 2.1: Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội gây rối trật
tự công cộng với tổng số vụ án và bị cáo đã xét xử sơ
thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Tĩnh trong 6 năm (2010 - 2015)

44

Bảng 2.2: Số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm về tội gây rối trật tự
công cộng so với nhóm tội xâm phạm an toàn, trật tự
công cộng của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Hà
Tĩnh trong 6 năm (2010 - 2015)

45

Biểu đồ 2.1: So sánh số vụ án tội gây rối trật tự công cộng với tổng
số vụ án đã xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân
dân cấp huyện và Tòa án nhân tỉnh Hà Tĩnh trong 6
năm (từ năm 2010 đến năm 2015)


45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo hệ quả là sự gia tăng của các
hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Xét riêng đối với
các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và đặc biệt là tội gây
rối trật tự công cộng, có thể thấy rằng, đây là một trong những loại tội phạm
thuộc nhóm có tính nguy hiểm cho xã hội không cao so với các nhóm tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, hay xâm phạm sở hữu… Tuy nhiên, xét
dưới góc độ an ninh, trật tự an toàn xã hội thì hành vi gây rối trật tự công
cộng đã vi phạm quy tắc xử sự được đặt ra cho mỗi công dân ở nơi công
cộng, xâm phạm tình trạng ổn định sinh hoạt chung của toàn xã hội, gây tổn
hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, người thực
hiện hành vi biểu hiện ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà
nước. Hành vi gây rối trật tự công cộng có tính phổ biến, và đa dạng về hình
thức thể hiện như: Dựng lều, tụ tập nơi giao thông, dùng lời nói, cử chỉ thiếu
văn hóa lăng mạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của một hoặc nhiều
người; hò hét, tạo tiếng động gây ầm ĩ; hành hung người làm nhiệm vụ hoặc
người tự nguyện tham gia bảo vệ trật tự nơi công cộng; tụ tập ẩu đả, đánh
nhau ở nơi công cộng...
Trong bối cảnh đó, pháp luật hình sự mà cụ thể là Bộ luật Hình sự đã
và đang trở thành một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu nhất trong việc
kiểm soát tình hình tội phạm nói chung và loại tội phạm này nói riêng. Theo
pháp luật hình sự Việt Nam, hành vi gây rối trật tự công cộng có thể bị coi là
tội phạm - Tội gây rối trật tự công cộng. Tội danh này được quy định trong
luật hình sự Việt Nam kể từ khi có Bộ luật Hình sự năm 1985. Đến Bộ luật
Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 các nhà làm luật đã từng bước


1


quy định rõ để xác định ranh giới giữa gây rối trật tự công cộng là tội phạm
với gây rối trật tự công cộng chỉ là hành vi vi phạm phi hình sự.
Tuy nhiên, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn xét xử liên quan đến tội
gây rối trật tự công cộng thì còn chứa đựng nhiều hạn chế, vướng mắc.Điều
này đưa tới hệ quả là sự lúng túng của các cơ quan có thẩm quyền trong vấn
đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại tội này, dẫn đến bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội.
Địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, hiện tượng gây rối trật tự công cộng đang là một
trong những vấn đề nhức nhối ở địa phương, nhất là từ thời điểm xảy ra sự cố
môi trường đặc biệt nghiêm trọng bởi hành vi xả thải trên biển và trên đất liền
của FORMOSA thì cùng với nhiều hệ lụy của ô nhiễm kéo theo sự phức tạp
tình hình mà trong đó phải kể đến là xảy ra nhiều vụ việc gây rối trật tự công
cộng nhằm gây áp lực cho các cấp chính quyền, riêng năm 2016 từ ngày 2/4
đến 26/4 đã có 25 vụ tụ tập, tuần hành đông người, ít nhất khoảng 25
người/vụ và nhiều nhất là 5000 người/vụ với các hình thức như: Tụ tập, tuần
hành đông người tại nơi giao thông huyết mạch (đường quốc lộ 1A), trụ sở
các cấp chính quyền, trường học, bệnh viện… một số đối tượng đã dùng gạch,
đá ném vào nhà cán bộ xã, cán bộ thôn làm hư hỏng một số tài sản, gây mất
ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương; hay một số khác đã dùng dao,
cưa, ống tuýp sắt, gậy gộc đuổi đánh cán bộ, công nhân đi liền với các tội như
cố ý gây thương tích, hủy hoại tại sản, chống người thi hành công vụ gây cản
trở, gián đoạn đến công việc của một số cơ quan, đơn vị, gây ảnh hưởng xấu
đến trật tự trị an…
Từ thực tra ̣ng pháp luâ ̣t, thực tiễn xét xử cùng những yêu cầ u trong viê ̣c
đảm bảo an ninh , trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i ta ̣i đi ̣ a bàn Hà Tiñ h , tôi cho ̣n đề tài :
“Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực
tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)”.


2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài liên quan đến tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt
Nam đã thu hút sự chú ý của không it́ các ho ̣c giả , nhà nghiên cứu . Qua tim
̀
hiể u, hiê ̣n nay có mô ̣t số giáo trình, bài viết, nghiên cứu, luận văn thạc sĩ, sách
chuyên khảo… về chủ đề này như:
- Lê Cảm (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật Hình
sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thanh Hải (2011), Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trần Long Nhi (2015), Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội gây rối trật
tự công cộng và thực tiễn xét xử tại tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, (Tập
II), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Vũ Thế Công (2007), Trật tự công cộng và một số biện pháp phòng
chống gây rối trật tự công cộng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Phan Vũ Linh (2011), phòng ngừa tội gây rối trật tự công cộng tại
tỉnh Cần Thơ, Luận văn Thạc sỹ luật học.
- Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các
tội phạm), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS.Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến
Việt và tập thể tác giả (2010), Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã

3


hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb. Lao
động, Hà Nội.
- Trần Minh Hưởng (2002), Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật
tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Trương Quang Vinh (2008), Bình luận các điều 241 đến 256, Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (tái bản có sửa chữa, bổ
sung), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đức Mai(2001), Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 1999, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong số các công trình kể trên, có một số
công trình nghiên cứu được tiến hành khá lâu, do vậy về mặt lý luận cũng như
thực tiễn sẽ có phần hạn chế. Mặt khác, có những công trình nghiên cứu lại
chỉ thiên về mặt lý luận, pháp lý như: dấu hiệu pháp lý hình sự, trách nhiệm
hình sự… của tội gây rối trật tự công cộng theo Bộ luật Hình sự năm 1999 mà
chưa gắn nó với thực tiễn xét xử, cũng như các quy định có liên quan tại Bộ
luật Hình sự năm 2015.
Mặt khác, xét riêng đối với tỉnh Hà Tĩnh, cho tới nay chưa có một công
trình nào nghiên cứu về tội gây rối trật tự công cộng gắn với thực tiễn xét xử
tại tỉnh này, trong khi đó diễn biến của loại tội này ngày càng phức tạp, khó
lường. Do đó việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận và
thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và tội gây rối trật tự công cộng nói riêng địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ
bản của các tội xâm phạm trật tự công cộng, đồng thời đi sâu vào phân tích

4


thực tiễn xét xử đối với tội gây rối trật tự công cộng theo từng thời gian cụ thể
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật và giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của Bộ luật Hình sự về tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tội gây rối trật tự công cộng như:
Khái niệm, dấu hiệu pháp lý, hình phạt...
- Nghiên cứu các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật
tự công cộng, nhất là những quy định bất cập của Bộ luật Hình sự năm 1999.
-Nghiên cứu thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây (từ năm 2010 đến năm 2015), nhất là
những vướng mắc, tồn tại trong định tội, định khung và quyết định hình phạt
và nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại đó trong thực tiễn xét xử loại
tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp khác bảo đảm áp
dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng xử lý đối với
Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, những vấ n đề

gây ảnh hưởng đế n loa ̣i tô ̣i này từ thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự, thời gian 06 năm (từ năm 2010 đến năm 2015), trên phạm vi địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh.
5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học
pháp lý như: lịch sử, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật,
luật hình sự, tội phạm học và triết học, những luận điểm khoa học trong các
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí
trong và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chủ trương,
chính sách của đảng và nhà nước trong đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật
hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình… để phân tích các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm rõ các vấn đề chung của tội gây rối trật tự công cộng
trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của các quy định trong luật hình sự nước ta về tội phạm này từ năm 1945

đến nay, làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây
rối trật tự công cộng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và về các tội tương tự
trong Bộ luật Hình sự một số nước trên thế giới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng địa bàn

6


tỉnh Hà Tĩnh (từ năm 2010 đến năm 2015), qua đó chỉ ra những vướng mắc và
nguyên nhân, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp khác
bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này.
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên,học viên cao học và nghiên cứu sinh
chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và
hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự Việt Nam liên quan đến tội gây
rối trật tự công cộng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm này, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội
hiện nay ở nước ta, đặc biệt là địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, nơi mà loại tội phạm này
ngày càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội gây rối trật tự công cộng.
Chương 2: Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội
gây rối trật tự công cộng và thực tiễn áp dụng các quy định này trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội gây rối trật
tự công cộng và một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định
này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
1.1. Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2009), các nhà làm luật nước ta đã ghi nhận khái niệm tội phạm như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [33, Điều 8].
Khái niệm tội phạm cụ thể - Tội gây rối trật tự công cộng, là sự cụ thể hóa
khái niệm tội phạm (chung), hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam còn
nhiều quan điểm khác nhau, mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.
Có tác giả cho rằng: "Tội gây rối trật tự công cộng xâm hại đến trật tự
chung, vi phạm quy tắc, nếp sống văn minh cũng như cản trở hoạt động bình
thường của những người khác nơi công cộng" [57, tr. 649]. quan điểm này có
ưu điểm là đã nêu bật được khách thể của tội phạm xâm phạm đến, nhưng vẫn
chưa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
Quan điểm lại cho rằng: "Gây rối trật tự công cộng là hành vi làm náo
loạn trật tự nơi công cộng" [29, tr. 261]. Quan điểm này mới chỉ nêu định
nghĩa hành vi gây rối trật tự công cộng chứ chưa làm rõ khái niệm tội gây rối


8


trật tự công cộng, hơn nữa, hành vi phạm tội khác tội phạm, vì khái niệm tội
phạm đòi hỏi phải đầy đủ như khái niệm trong Điều 8 Bộ luật Hình sự năm
1999 hiện hành.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự và những điểm hợp lý của các
quan điểm trên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, rút ra khái niệm tội gây rối
trật tự công cộng như sau: Tội gây rối trật tự công cộng là hành vi hò hét, làm
náo động, phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối
loạn các hoạt động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an toàn
công cộng do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm. Từ khái niệm nêu trên, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội
gây rối trật tự công cộng như sau:
Một là, tội gây rối trật tự công cộng nằm trong nhóm tội xâm phạm
trật tự công cộng, do đó, xâm phạm đến trật tự công cộng. An toàn công
cộng, trật tự công cộng là những lĩnh vực gắn bó mật thiết với nhau. Theo
đó, các lĩnh vực an toàn công cộng, trật tự công cộng gắn liền với việc bảo
đảm các lợi ích vật chất,tinh thần của toàn xã hội cũng như của mỗi người
với tư cách là từng thành viên sống trong xã hội và là một trong những tiêu
chí để đánh giá sự ổn định, phát triển và văn minh, dân chủ của một quốc
gia. Do đó, để có an toàn, trật tự công cộng - một trạng thái xã hội lành
mạnh, ổn định, có tổ chức, có kỷ luật đòi hỏi Nhà nước, các cơ quan, tổ chức
và mỗi thành viên trong xã hội phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và
bảo vệ các quy tắc của trật tự sinh hoạt chung trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Đi ngược lại điều này là xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự
công cộng và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Hai là, tội gây rối trật tự công cộng là hành vi hò hét, làm náo động,


9


phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối loạn các hoạt
động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã
bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Ba là, tội gây rối trật tự công cộng do người có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi với hình
thức cố ý trực tiếp. Người thực hiện tội gây rối trật tự công cộng không có
mục đích chống chính quyền nhân dân mà mục đích là gây áp lực với chính
quyền để thỏa mãn yêu cầu của mình.
Tội gây rối trật tự công cộng xâm phạm trực tiếp đến những quy tắc,
luật lệ, điều lệ, nội quy...về trật tự công cộng, vi phạm nếp sống văn minh,
quy tắc cuộc sống, gây ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mọi người
ở nơi công cộng. Ngoài ra, tội gây rối trật tự công cộng còn gây khó khăn, trở
ngại cho hoạt động của những người trong cơ quan nhà nước và xã hội làm
nhiệm vụ bảo vệ trật tự công cộng.
Tội gây rối trật tự công cộng thể hiện bằng hành vi gây rối trật tự công
cộng được mô tả trong điều luật là hành vi của một người có lời nói, cử chỉ
tiếp xúc với người khác ở nơi công cộng với thái độ tỏ ra coi thường trật tự xã
hội chung, gây mất trật tự hoặc là những hành vi càn quấy, hành hung người
khác nhưng chưa gây thương tích, gây lộn xộn, náo loạn ở nơi công cộng như:
rạp hát, vườn hoa, nhà ga, bến tàu, công viên, quảng trường; v.v... Nơi công
cộng là những chỗ tập trung đông người như rạp hát, rạp chiếu bóng, nhà văn
hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục,
thể thao, trụ sở cơ quan, xí nghiệp, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, hợp tác
xã, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên các
phương tiện giao thông, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi

công cộng khác có những quy tắc thành văn hoặc bất thành văn mà buộc mọi

10


người có mặt phải có văn hóa ứng xử và chấp hành, tôn trọng người khác.
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau
như: Tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất trật tự
công cộng; đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động ở nơi công cộng; đập phá
các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản trong các quán ăn, quán
giải khát có đông người. v.v… Hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng
là thiệt hại vật chất và phi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội.
Hậu quả vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội
phạm này, là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành
chính về hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc
tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích. Không phải là dấu hiệu
bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã
bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Ngoài hành vi,
hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, nhà làm luật không quy định dấu hiệu
khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội phạm nói chung
và chủ thể của tội gây rối trật tự công cộng nói riêng là con người cụ thể, đang
sống - thể nhân. Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật Hình sự 1999 quy
định: "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng" [33, Điều 12]. Trên cơ sở quy định tại Điều 245 và Điều 12 Bộ
luật Hình sự cho thấy, tội gây rối trật tự công cộng - khoản 1 là tội phạm ít
nghiêm trọng, khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng, do đó, chủ thể của tội phạm

này là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp,

11


cụ thể là: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi gây rối trật tự công cộng của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi gây rối trật tự
công cộng của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu
quả xảy ra.
1.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm khác
Căn cứ vào dấu hiệu pháp lý của tội gây rối trật tự công cộng có thể
phân biệt được tội phạm này với các tội phạm khác; cụ thể như sau:
1.2.1. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội phá rối an ninh
Trường hợp một người có hành vi gây rối trật tự công cộng, xâm
phạm các quy định của Nhà nước về trật tự xã hội, an toàn xã hội, hoạt động
bình thường, ổn định của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng có mục
đích chống chính quyền nhân dân, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
phá rối an ninh (Điều 89 Bộ luật Hình sự).
Điều 89. Tội phá rối an ninh
1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà kích
động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi
hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, nếu không
thuộc trường hợp qui định tại Điều 82 của Bộ luật này, thì bị phạt tù
từ năm năm đến mười lăm năm.
2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm [33, Điều 89].
1.2.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội giết người, cố ý

gây thương tích và hủy hoại tài sản
Trường hợp một người ngoài có hành vi gây rối trật tự đã cấu thành
tội phạm còn có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của

12


người khác thì người phạm tội còn có thể bị xử lý thêm về các tội giết người
(Điều 93), tội cố ý gây thương tích... (Điều 104) hoặc tội hủy hoại tài sản...
(Điều 143 Bộ luật Hình sự) trên những cơ sở chung.
Điều 93. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ
của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô
giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm
một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp qui định tại khoản 1
Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm [33, Điều 93].

13


Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới
11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy
hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với
nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô
giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ

của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11%
đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp qui định tại các
điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết

14


người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường
hợp qui định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này,
thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai
mươi năm hoặc tù chung thân [33, Điều 104].
Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của
người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;

d) Để che giấu tội phạm khác;
đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
e) Tái phạm nguy hiểm;
g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng
đến dưới hai trăm triệu đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng
đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

15


4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng [33, Điều 143].
1.2.3. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội chống người thi
hành công vụ
Trường hợp một người có hành vi gây rối trật tự công cộng nhằm
chống người thi hành công vụ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống
người thi hành công vụ (Điều 257 Bộ luật Hình sự) trên những cơ sở chung.
Điều 257. Tội chống người thi hành công vụ
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ
đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ
hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm [33, Điều 257].
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt
Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần
thứ hai - Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng
1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Với thắng lợi to lớn mang ý nghĩa chính trị - lịch sử này, bên

16


cạnh việc hình thành một Nhà nước kiểu mới thì cũng đánh dấu một mốc
quan trọng và phát triển trong lịch sử lập pháp nói chung, lịch sử lập pháp
hình sự nói riêng ở nước ta. Theo đó, ngay từ khi mới giành được chính
quyền, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời ban hành nhiều văn bản không chỉ
bảo vệ các thành quả của cách mạng, mà còn bảo vệ an toàn công cộng, trật tự
công cộng, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, tài
sản của công dân, đồng thời còn bảo vệ hoạt động bình thường, ổn định xã hội
ở những nơi công cộng, mặc dù chưa đề cập trực tiếp đến tội gây rối trật tự
công cộng, như Điều lệ tạm thời số 329-TTg ngày 17/9/1954 của Thủ tướng
Chính phủ về quản lý các loại vũ khí; Thông tư số 55-TTg ngày 24/12/1958
của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sự lãnh đạo đối với việc bắt giữ,
truy tố và xét xử, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: "... Nhiệm vụ thứ ba của Công
an, Công tố và Tòa án là bảo vệ trật tự, trị an của xã hội... ".
Sau đó, để bảo đảm pháp chế, bảo vệ trật tự công cộng và tài sản công

cộng, Hiến pháp Việt Nam năm 1959 đã quy định: "Công dân nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao
động, trật tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt xã hội" (Điều 39) và "Tài
sản công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là thiêng liêng không thể
xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng"
(Điều 40) [34, tr. 42].
Giai đoạn từ năm 1960 -1975 là giai đoạn miền Bắc song song tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là hậu phương vững chắc để chi
viện cho miền Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, do đó công tác
quản lý kinh tế có gặp khó khăn, việc tuyên truyền, giáo dục và phát động
quần chúng nhân dân bảo vệ tài sản công cộng chưa thực sự tốt, việc trừng trị
những hành động xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, tổ chức và của hợp tác
xã chưa được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác
này, ngày 12/8/1974, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 1417


TATC hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết số 228 ngày 12/1/1974 của Bộ
Chính trị, trong đó chỉ rõ: "... tăng cường quản lý lao động, quản lý thị trường
và giữ vững trật tự trị an xã hội... " [44, tr. 92].
Đặc biệt, để điều chỉnh trực tiếp một số loại tội phạm nghiêm trọng,
phổ biến trong đó có tội gây rối trật tự công cộng, Hội đồng Chính phủ Cách
mạng lâm thời đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định
Các tội phạm và hình phạt, trong đó đã quy định tại Điều 9 - Tội xâm phạm
đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe nhân dân với việc bảo
vệ các khách thể - trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe nhân dân
tránh khỏi sự xâm phạm của tội phạm như sau: Phạm một trong các tội sau
đây: Tụ tập đông người nhằm gây náo động trong dân chúng và quấy rối trật
tự ngoài đường phố hoặc ở các nơi công cộng chống lại nhân viên nhà nước
khi làm nhiệm vụ; vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng; tổ
chức du đãng có hành động càn quấy, đe dọa tính mạng người khác và an toàn

xã hội; cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và các chất độc
khác thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm trọng, thì bị
phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trường hợp, có thể bị phạt tiền đến 1.000 đồng
ngân hàng [44, tr. 237].
Về sau, Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự để
điều chỉnh kịp thời các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, vừa phục vụ
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm
chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, mà còn nhằm duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời
pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục
người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, việc ban hành

18


×