Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Hiệu ứng fisher ở các quốc gia đông nam á là mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Duy Hùng

HIỆU ỨNG FISHER Ở CÁC QUỐC GIA

ĐÔNG NAM Á LÀ MỐI QUAN HỆ TUYẾN
TÍNH HAY PHI TUYẾN ?

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Duy Hùng
HIỆU ỨNG FISHER Ở CÁC QUỐC GIA
ĐÔNG NAM Á LÀ MỐI QUAN HỆ TUYẾN
TÍNH HAY PHI TUYẾN ?
Chuyên ngành : Tài chính ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn
(ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Duy Hùng


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT ....................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................... 2
1.1

Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 2

1.2

Mục tiêu nghiên cứu: .......................................................................................... 3

1.3


Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................. 3

1.4

Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 4

1.5

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4

1.6

Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 4

CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN HỌC THUẬT – KẾT QUẢ CÁC NGHIÊN CỨU
TRƢỚC ........................................................................................................................... 5
2.1

Hiệu ứng Fisher .................................................................................................. 5

2.2

Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về sự tồn tại của hiệu ứng Fisher ............ 7

2.2.1

Các nghiên cứu ở Mỹ ................................................................................... 7

2.2.2


Các nghiên cứu ở các nước phát triển OECD ............................................ 10

2.2.3

Các nghiên cứu ở các nước đang phát triển ............................................... 11


CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 15
3.1

Mô hình lý thuyết ............................................................................................. 15

3.2

Các phương pháp ước lượng ............................................................................ 16

3.2.1

Kiểm định nghiệm đơn vị .......................................................................... 17

3.2.2

Uớc lượng theo phương pháp bình phương bé nhất – OLS ...................... 21

3.2.3

Kiểm định đồng liên kết Johansen ............................................................. 22

3.2.4


Thuật toán ACE ......................................................................................... 24

3.2.5

Mô hình vector hiệu chỉnh sai số - VECM ................................................ 26

3.3

Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................... 27

CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................... 29
4.1

Ước lượng mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất bằng OLS .......................... 29

4.2

Kiểm định mối quan hệ đồng liên kết của lạm phát và lãi suất bằng phương

pháp Johansen và mô hình VECM ............................................................................. 33
4.3

Ước lượng mối quan hệ phi tuyến giữa lãi suất và lạm phát theo hiệu ứng

Fisher .......................................................................................................................... 45
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACE

Kỳ vọng có điều kiện xen kẽ (Alternating Conditional
Expectation)

ADF

Dickey-Fuller Hiệu chỉnh (Augmented Dickey-Fuller)

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic
Co-operation and Development)

OLS

Phương pháp Bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square)

PPP

Ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity)

UIP

Ngang giá lãi suất không phòng ngừa (Uncovered Iterest rate
Parity)

USD


Đồng đô la Mỹ (United States dollar)

VECM

Mô hình vetor hiệu chỉnh sai số (Vector Error Correction Model)

VND

Đồng Việt Nam (Vietnam Dong)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1:

Thời gian nghiên cứu tại Brunei, Campuchia, Indonesia, Malaysia và
Myanmar ............................................................................................. 28

Bảng 3.2:

Thời gian nghiên cứu tại Philippines, Singapore, Thái Lan, Đông
Timor và Việt Nam ............................................................................. 28

Bảng 4.1:

Kiểm định Unit root cho lạm phát cho Singapore và Đông Timor .... 29

Bảng 4.2:

Kiểm định Unit root cho lãi suất cho Singapore và Đông Timor ....... 29


Bảng 4.3:

Kết quả hồi quy OLS tại Singapore .................................................... 30

Bảng 4.4:

Kết quả kiểm định Ramsey Reset Test ............................................... 31

Bảng 4.5:

Kết quả hồi quy OLS tại Đông Timor ................................................ 32

Bảng 4.6:

Kiểm định ADF đối với biến lạm phát ở 6 quốc gia còn lại ............... 33

Bảng 4.7:

Kiểm định ADF đối với biến lãi suất ở 6 quốc gia còn lại ................. 34

Bảng 4.8:

Kiểm định ADF(1) đối với biến lạm phát ở 6 quốc gia còn lại .......... 35

Bảng 4.9:

Kiểm định ADF(1) đối với biến lãi suất ở 6 quốc gia còn lại ............ 35

Bảng 4.10:


Kiểm định Johansen tại Brunei, Campuchia, Malaysia và Indonesia
............................................................................................................. 36

Bảng 4.11:

Kiểm định Johansen tại Philippines, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam
............................................................................................................. 37

Bảng 4.12:

Kết quả VECM tại Campuchia ........................................................... 39

Bảng 4.13:

Kết quả VECM tại Indonesia .............................................................. 40

Bảng 4.14:

Kết quả VECM tại Philippines ........................................................... 40

Bảng 4.15:

Kết quả VECM tại Malaysia ............................................................... 41

Bảng 4.16:

Kết quả VECM tại Thái Lan ............................................................... 41

Bảng 4.17:


Kết quả VECM tại Việt Nam .............................................................. 42

Bảng 4.18:

Kết quả từ VECM ............................................................................... 42

Bảng 4.19:

Kết quả hiệu chỉnh sai số .................................................................... 43


Bảng 4.20:

Kiểm định ADF đối với biến lạm phát điều chỉnh ở Brunei và
Myanmar ............................................................................................. 48

Bảng 4.21:

Kiểm định ADF đối với biến lãi suất điều chỉnh ở Brunei và Myanmar
............................................................................................................. 48

Bảng 4.22:

Kiểm định ADF(1) đối với biến lạm phát điều chỉnh ở Brunei và
Myanmar ............................................................................................. 49

Bảng 4.23:

Kiểm định ADF(1) đối với biến lãi suất điều chỉnh ở Brunei và

Myanmar ............................................................................................. 49

Bảng 4.24:

Kiểm định đồng liên kết đối với Myanmar ......................................... 50

Bảng 4.25:

Kiểm định đồng liên kết đối với Brunei ............................................. 51

Bảng 4.26:

Kết quả VECM tại Brunei sau chuyển đổi ......................................... 52


DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1:

Đồ thị biến lãi suất sau chuyển đổi tại Brunei .................................... 46

Hình 4.2:

Đồ thị biến lạm phát sau chuyển đổi tại Brunei .................................. 46

Hình 4.3:

Đồ thị biến lạm phát sau chuyển đổi tại Myanmar ............................. 47

Hình 4.4:


Đồ thị biến lãi suất sau chuyển đổi tại Myanmar ............................... 47


1

TÓM TẮT
Hiệu ứng Fisher, được lập luận bởi Fisher (1930), từ lâu đã trở thành một trong những
chủ đề gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tài chính quốc tế. Nhiều nhà khoa học đã thực
hiện nghiên cứu vấn đề này ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, kết quả thu được
là không giống nhau. Bài nghiên cứu này kiểm chứng thực nghiệm mối quan hệ giữa
lạm phát và lãi suất trên 10 quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á (bao gồm
Campuchia, Brunei, Malaysia, Indonesia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan,
Đông Timor và Việt Nam) bằng cách sử dụng các phương pháp kiểm định kinh tế
lượng. Chuỗi dữ liệu lạm phát và lãi suất trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2013
được chọn làm thời kì nghiên cứu. Kết quả từ kiểm định nghiệm đơn vị ADF cho thấy
lạm phát và lãi suất là chuỗi thời gian dừng bậc 0 tại Singapore và Đông Timor và là
chuỗi dừng bậc 1 ở các quốc gia còn lại. Kiểm định đồng liên kết Johansen đưa ra
những bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ tuyến tính dài hạn giữa lạm phát và lãi
suất ở một số quốc gia. Tuy nhiên, các tiếp cận bằng thuật toán ACE chỉ ra mối quan
hệ này là phi tuyến ở quốc gia khác. Hơn nữa, mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM
cho thấy sự điều chỉnh mức cân bằng trong dài hạn của hai biến vĩ mô này. Nhìn
chung, bài nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về hiệu ứng Fisher tồn tại ở
hầu hết các quốc gia Đông Nam Á.


2

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, để đạt được

hiệu quả kinh doanh và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các
doanh nghiệp, nhà đầu tư cần phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt và hiểu rõ các vấn đề
kinh tế. Trong đó, lạm phát là một khái niệm quan trọng trong nền kinh tế vĩ mô đồng
thời là mối quan tâm lớn đối với các nhà hoạch định chính sách của chính phủ, các
công ty, người làm thuê và các nhà đầu tư. Tình trạng lạm phát đã có những tác động
rất lớn không chỉ đến đời sống của người dân mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Cụ thể lạm phát cao làm cho suy giảm chất lượng tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam rõ rệt, không những vậy tình trạng lạm phát cao còn đẩy các
doanh nghiệp Việt Nam vào tình hình sản xuất khó khăn do giá các nguyên vật liệu đầu
vào tăng cao và sự sụt giảm từ doanh thu thực tế do tình hình lạm phát. Bên cạnh đó
lạm phát cao còn làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và làm tiềm ẩn các
nguy cơ bất ổn xã hội. Một trong những biện pháp của chính phủ dùng để kiểm soát
lạm phát là công cụ chính sách tiền tệ và đặc biệt là công cụ lãi suất. Lãi suất là một
phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác và
đóng vai trò như là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén trong mỗi doanh nghiệp và
đời sống cá nhân, có ảnh hưởng trực tiếp đến chính các hoạt động của các doanh
nghiệp và cá nhân, và hơn cả là một công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc
gia.
Do tầm quan trọng của hai yếu tố lạm phát và lãi suất, đề tài nghiên cứu về mối quan
hệ giữa lạm phát và lãi suất trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng được các nhà
kinh tế học nghiên cứu. Điển hình là lý thuyết hiệu ứng Fisher. Tuy nhiên, các bài
nghiên cứu trước đây vẫn đưa ra những kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa lạm
phát và lãi suất. Một số tìm thấy bằng chứng ủng hộ hiệu ứng Fisher nhưng một số


3

khác lại không đưa ra các phát hiện về mối quan hệ này. Nguyên nhân từ sự thất bại
này được một vài nhà kinh tế học gần đây lý giải bằng đặc tính không dừng của chuỗi
dữ liệu – unit root process. Thế nhưng chuỗi dữ liệu lạm phát và lãi suất lại cho thấy

một xu hướng tương đối giống nhau, đặc biệt một vài nghiên cứu dùng phương pháp
hồi quy lại phát hiện sự tương quan cùng chiều giữa hai biến kinh tế này. Điều này
được gọi là price puzzle.
Chính vì những lý do trên, tôi nhận thấy mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất là một
đề tài cấp thiết. Do đó tôi chọn đề tài “Hiệu ứng Fisher ở các quốc gia Đông Nam Á
là mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến ?” làm luận văn thạc sĩ với mục tiêu tìm các
bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa hai biến kinh tế quan trọng này. Trên cơ
sở đó, có thể giúp các nhà đầu tư, các nhà chính sách có cái nhìn mới để có những giải
pháp, chính sách thích hợp trong việc điều hành nền kinh tế Việt Nam.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Bài nghiên cứu thực hiện kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng Fisher ở các quốc gia Đông
Nam Á (bao gồm Brunei. Campuchia, Malaysia, Singapore, Myanmar, Philippines,
Indonesia, Thái Lan, Đông Timor và Việt Nam) và xác định mối quan hệ giữa lạm phát
và lãi suất là mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến, từ đó phát hiện mối quan hệ trong
dài hạn giữa hai chuỗi dữ liệu này.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất, chúng ta cần xem xét
và thực hiện kiểm định nhằm tìm được kết quả cho các vấn đề sau:
 Lạm phát và lãi suất là chuỗi dữ liệu dừng hay không dừng ?
 Liệu lạm phát và lãi suất có hiện tượng đồng liên kết hay không?
 Mối quan hệ đồng liên kết này là đồng liên kết tuyến tính hay phi tuyến?


4

1.4 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu và kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất trong giai đoạn
từ năm 2000 đến 2013 tại 10 quốc gia Đông Nam Á , bao gồm Brunei. Campuchia,
Malaysia, Singapore, Myanmar, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Đông Timor và Việt
Nam.

1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu theo tháng của lãi suất và lạm phát. Sau đó dựa vào các
kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey–Fuller để xác định đặc tính của 2 chuỗi
dữ liệu là dừng hay không dừng. Bài nghiên cứu thực hiện kiểm định đồng liên kết
được đề xuất bởi Johansen (2000) nhằm xác định mối quan hệ tuyến tính trong dài hạn
của lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp quan hệ đồng liên kết tuyến tính không tồn
tại, cách tiếp cận bằng thuật toán ACE sẽ cho phép chuyển đổi dữ liệu để kiểm định
đồng liên kết phi tuyến giữa hai biến kinh tế tại 10 quốc gia Đông Nam Á. Cuối cùng,
mô hình VECM được sử dụng để xác định sự điều chỉnh trong cân bằng dài hạn giữa
lạm phát và lãi suất.
1.6 Cấu trúc luận văn
Bài nghiên cứu được trình bày như sau. Chương 1 là phần giới thiệu, trong đó trình bày
lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi, phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết và kết quả các nghiên cứu thực nghiệm về sự tồn tại
của hiệu ứng Fisher. Chương tiếp theo, chúng tôi thực hiện xây dựng mô hình lý thuyết
và tập trung vào phương pháp nghiên cứu. Chương 4 xem xét và phân tích kết quả
nghiên cứu về mối quan hệ đồng liên kết giữa lạm phát và lãi suất ở các quốc gia Đông
Nam Á. Từ đó đưa ra nhận định về sự tồn tại của hiệu ứng Fisher ở các nước này.
Chương 5, phần cuối của bài, sẽ tổng hợp lại những phát hiện của bài nghiên cứu và
kết luận.


5

CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN HỌC THUẬT – KẾT QUẢ CÁC
NGHIÊN CỨU TRƢỚC
2.1 Hiệu ứng Fisher
Hiệu ứng Fisher là một trong những chủ đề mang đến nhiều ý kiến khác nhau trong
lĩnh vực tài chính quốc tế. Trong nhiều năm qua, nhiều giả thiết được đặt ra và nhiều
phương pháp được áp dụng để kiểm định điều này.

Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát, đầu tiên đưa ra bởi Fisher (1930), mặc nhiên
cho rằng lãi suất danh nghĩa trong giai đoạn bất kỳ bằng tổng của lãi suất thực tế và tỷ
lệ lạm phát kỳ vọng. Điều này được gọi là hiệu ứng Fisher. Fisher (1930) đưa ra giả
thuyết rằng lãi suất danh nghĩa có thể được chia thành hai thành phần. Theo Fisher, lãi
suất danh nghĩa sẽ tương đương với lãi suất thực và lạm phát. Tức: (1+lãi suất danh
nghĩa) = (1+lãi suất thực)(1+ lạm phát). Đẳng thức trên cho thấy lãi suất danh nghĩa có
thể thay đổi do ba nguyên nhân: lãi suất thực thay đổi, tỷ lệ lạm phát thay đổi, hay cả
hai cùng thay đổi.Với giả định thị trường vốn là hoàn hảo và các dòng vốn có thể
chuyển dịch tự do, lãi suất thực ở các nước sẽ tiến về mức cân bằng. Lúc này một sự
chênh lệch trong lãi suất danh nghĩa thể hiện chênh lệch trong lạm phát. Một cách diễn
đạt khác: Hiệu ứng Fisher cho rằng: trong dài hạn, tỷ lệ lạm phát tác động vào lãi suất
danh nghĩa theo tỷ lệ 1:1.Điều này có nghĩa lãi suất danh nghĩa trong dài hạn sẽ hoàn
toàn di chuyển cùng hướng với lạm phát kì vọng. Và Fisher nhấn mạnh rằng trong dài
hạn, lãi suất thực là không đổi và sẽ không chịu tác động của cả lạm phát lẫn lãi suất
danh nghĩa. Kết luận trên cho thấy lãi suất thực sẽ không bị ảnh hưởng bởi các chính
sách tiền tệ. Với vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ trong điều hành nền kinh tế vĩ
mô, mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất đã trở thành chủ đề nóng cho nhà nghiên cứu
kinh tế. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu trước đây lại tìm ra những bằng chứng khác
nhau về hiệu ứng Fisher.


6

Fisher (1930) đã kiểm tra mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát của
Mỹ và Anh với giả thiết rằng kỳ vọng lạm phát được hình thành trên cơ sở của một cấu
trúc độ trễ phân phối. Bằng việc sử dụng dữ liệu theo năm trong thời kì 1890 – 1927
với Mỹ và thời kì 1820 – 1924 với Anh. Fisher thấy rằng kỳ vọng lạm phát không được
ngay lập tức phản ánh vào lãi suất. Đối với Mỹ, mối tương quan cao nhất (0.86) giữa
lãi suất dài hạn và thay đổi giá thu được khi sau hơn 20 năm (với độ trễ là 20) , trong
khi đối với Anh, hệ số tương quan 0,98 thu được sau hơn 28 năm. Nghiên cứu về lãi

suất chứng chỉ có giá ngắn hạn trong mối quan hệ với sự thay đổi giá hằng quý ở Mỹ
đã ủng hộ những bằng chứng về mối quan hệ dài hạn giữa lãi suất và lạm phát.
Fisher(1930) đã kết luận:
“Chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng tổng quá và củ thể… rằng sự thay đổi giá cả ảnh
hưởng đến lãi suất theo cách mà được đề cập trong thuyết tiên nghiệm. Nhưng việc
tiên nghiệm là không hoàn hảo, tác động sẽ nhỏ hơn lý thuyết và độ trễ của sự thay đổi
giá, ở vài thời kì, là khá lớn. Khi ảnh hưởng của sự thay đổi giá đến lãi suất được phân
phối qua nhiều năm, chúng tôi phát hiện hệ số tương quan cao, và điều này cho thấy
rằng lãi suất sẽ theo sau sự thay đổi giá, mặc dù sau một khoảng thời gian”. (Trích
Fisher(1930,tr.451)
Mặc dù nhiều nghiên cứu thực nghiệm tìm thấy mối tương quan cùng chiều giữa lạm
phát và lãi suất ở Mỹ, Canada và Anh, một số nghiên cứu không tìm thấy tỷ lệ 1:1
được đề cập bởi Fisher. (Mishkin, 1981, 1984, 1988, 1992; Bonham, 1991; Jacques,
1995; Peng, 1995; Malliaropulos, 2000; Atkins and Coe, 2002; Bajo et al., 2003;
Clemente et al., 2004; and Granville and Mallick, 2004). Tuy nhiên, bằng chứng về
hiệu ứng Fisher đối với các nước phát triển như Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ, Nhật và Úc
được nghiên cứu bởi Peng (1995), Yuhn (1996), Olekalns (1996), Hawtry (1997), và
Koustas & SerMishkin (1999) cũng chưa thật sự rõ ràng.


7

2.2 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về sự tồn tại của hiệu ứng Fisher
2.2.1 Các nghiên cứu ở Mỹ
Sargent (1969), Gibson (1970), Yohe và Karnosky (1969), Lahiri (1976) nghiên cứu
kiểm định kết quả của Fisher đối với sự tồn tại của một cấu trúc phân phối độ trễ trong
việc hình thành kỳ vọng với.Sargent (1969) và Gibson (1970) đã sử dụng tỷ trọng hình
học giảm dần, hay còn gọi là độ trễ Koyck, được đề xuất bởi Koyk(1954); trong khi
Yohe và Karnosky (1969) sử dụng kỹ thuật độ trễ Almon để tránh các vấn đề về đa
cộng tuyến. Các nghiên cứu của Sargent và Gibson, dựa trên dữ liệu từ thời kỳ trước

chiến tranh, khẳng định kết quả nghiên cứu của Fisher về tác động đáng kể của phân
phối độ trễ đến các chỉ số kì vọng. Ngoài ra, Gibson quan sát thấy rằng dường như có
một yếu tố mang tính chu kỳ trong việc hình thành giá kỳ vọng, gợi ý của một mô hình
bậc cao mô phỏng cho thay đổi giá trong quá khứ. Một ý nghĩa quan trọng từ nghiên
cứu của ông là các chính sách được đề ra nhằm tác động đến lãi suất sẽ được thể hiện
trên những kỳ vọng giá, hay nói cách khác sự thay đổi giá sẽ tác động đến lãi suất.
Từ những năm 1960s, các nghiên cứu của Yohe và Karnosky (1969), Gibson (1972) và
Lahiri ( 1976) đã tìm thấy bằng chứng về việc giảm độ trễ trong hình thành kì vọng.
Yohe và Karnosky phát hiện sự thay đổi giá có tác động lớn trong thời kì 1961-1969
hơn thời kì 1952-1960. Gibson (1972) quan sát thấy rằng có một điểm điều chỉnh trong
lãi suất danh nghĩa từ sự thay đổi trong lạm phát trong thời kì 1959-1970, với độ trễ là
6 tháng. Kết quả cho thấy độ trễ ngắn hơn và có tác động lớn hơn đến lãi suất sau 1959,
điều này ủng hộ cho nghiên cứu của Yohe và Karnosky. Lahiri, sử dụng 4 phương
pháp tiếp cận khác nhau đến lạm phát kì vọng – trung bình cộng, điều chỉnh, ngoại suy
và phương pháp Frenkel – và ông tìm thấy bằng chứng về sự hình thành kì vọng nhanh
hơn trong thời kì sau 1960, phù hợp với phát hiện của Yohe và Karnosky và Gibson.
Nhìn chung, một mối quan hệ tích cực giữa lãi suất và lạm phát với một rút ngắn đáng
kể độ trễ từ những năm 1960 trở đi được chứng minh bằng những nghiên cứu trên.


8

Thuyết kì vọng hợp lý được phát biểu bởi Muth (1961) và thuyết thị trường hiệu quả
được phát triển bởi Fama (1970) đã bác bỏ quan điểm của Fisher. Nếu Fisher cho rằng
những thay đổi của giá trong quá khứ sẽ phản ánh trong lãi suất hiện tại thì Fama
(1975) cho rằng thay đổi giá tương lai đã được phản ánh trong lãi suất hiện tại rồi. Điều
này được giải thích bằng những bằng chứng về thị trường hiệu quả. Fama sử dụng dữ
liệu lãi suất trái phiếu chính phủ kì hạn 1 tháng đại diện cho biến lãi suất và sự thay đổi
trong chỉ số giá tiêu dùng CPI để đại diện cho lạm phát, ông kiểm định giả thiết Thị
trường trái phiếu chính phủ Mỹ là hiệu quả và lãi suất thực của trái phiếu chính phủ kì

hạn 1-6 tháng là hằng số. Sử dụng độ trễ từ 1 đến 12 cho giai đoạn 01/1953 – 07/1971,
kết quả cho tất cả các kì hạn cho thấy thị trường sử dụng tất cả các thông tin về tỷ lệ
lạm phát trong việc thiết lập lãi suất danh nghĩa, từ đó hỗ trợ cho giả thuyết thị trường
hiệu quả. Tuy nhiên, nghiên cứu của Fama cũng phần nào cho thấy mối quan hệ giữa
lạm phát và lãi suất.
Mishkin (1992) nỗ lực tìm bằng chứng về việc tại sao tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ
về hiệu ứng Fisher ở một số giai đoạn này nhưng lại không tìm thấy ở giai đoạn khác.
Ông chỉ ra rằng hiệu ứng Fisher sẽ chỉ xuất hiện trong các mẫu mà lạm phát và lãi suất
có xu hướng ngẫu nhiên. Với dữ liệu của Mỹ từ 01/1953 đến 12/1990 và kiểm định
nghiệm đơn vị Dickey Fuller và Phillips, ông nhận thấy lạm phát và lãi suất đều chứa
nghiệm đơn vị, hay nói cách khác , chúng không dừng. Kiểm định đồng liên kết giữa
lạm phát và lãi suất được thực hiện đã phát hiện hiệu ứng Fisher trong dài hạn. Như dự
đoán, hiệu ứng Fisher được nhận thấy cho thời kì sau chiến tranh đến 10/1979 , giai
đoạn mà lạm phát và lãi suất co xu hướng ngẫu nhiên. Ông không tìm thấy bằng chứng
về hiệu ứng Fisher cho thời kì trước chiến tranh và từ 10/1979 đến 09/1982.
Nghiên cứu của Bonham (1991), Jacques (1995) và Wallace và Warner (1993) sử dụng
dữ liệu cùng kì với Mishkin cũng tìm thấy kết quả về nghiệm đơn vị của chuỗi dữ liệu
lạm phát. Áp dụng phương pháp cấu trúc kì hạn, Wallace và Warner (1993) kiểm định
tác động của lạm phát đến lãi suất. Bằng phương pháp kiểm định đồng liên kết


9

Johansen và Juselius (1990) cho dữ liệu theo quý từ 01/1948 đến 04/1990, họ nhận
thấy lạm phát và lãi suất là chuỗi dừng bậc 1 trong hầu hết các trường hợp. Họ tìm ra
mối quan hệ đồng liên kết và ủng hộ hiệu ứng Fisher. Giả thiết về mối quan hệ 1:1 giữa
lãi suất và lạm phát là không thể bác bỏ. Bonham (1991) áp dụng kiểm định Dickey
Fuller cho dữ liệu theo tháng từ 01/1955 đến 03/1990 cũng phát hiện kết quả thống
nhất với Wallace và Warner (1993). Trong khi đó, giả thiết H0: không có đồng liên kết
không thể bác bỏ ở mức 5% đối với dữ liệu trong thời kì 01/1995 – 01/1986.

Pelaez (1995) kiểm định hiệu ứng Fisher tại Mỹ bằng cả hai phương pháp Engle
Granger 2 bước và VECM Johansen cho thời kì 01/1959-04/1993. Mặc dù kết quả
thống nhất với các kết quả trước của Bonham (1991) và Wallace và Warner (1993) –
cả lãi suất và lạm phát là chuỗi không dừng, ông không tìm được bằng chứng về mối
quan hệ Fisher.
Trái với các kết quả kiểm định tính dừng ở trên, Rose (1988) tìm thấy lạm phát là chuỗi
dừng bậc 0 và lãi suất là chuỗi dừng bậc . Với dữ liệu theo năm của Mỹ trong 2 giai
đoạn 1982-1970 và 1901-1950, ông phát hiện ra giả thiết H0 (có nghiệm đơn vị) bị bác
bỏ đối với lạm phát. Để làm tăng tính chắc chắn cho kết quả, ông tiếp tục kiểm định dữ
liệu theo quý ở 18 nước OECD. Giả thiết H0 bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 5% cho tất cả 18
nước. Ông cũng tìm được kết quả tương tự với dữ liệu theo tháng của Mỹ trong thời
gian 01/1947 – 06/1986, bỏ 10/1979 – thời điểm có sự thay đổi trong chính sách tiền
tệ. Ông kết luận rằng đã có điểm gãy cấu trúc ở thời điểm này. Khác với Rose, Jacques
(1995) dùng dữ liệu từ 12/1958 đến 12/1991 và kết quả là lạm phát là chuỗi dừng bậc 1
trong khi lãi suất là chuỗi dừng bậc 0.
Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu ở Mỹ đều cung cấp bằng chứng ủng hộ mối tương
quan tích cực giữa lãi suất và lạm phát nhưng chúng không tìm thấy mối quan hệ 1:1
được đưa ra bởi Fisher. Do đó, nhiều nghiên cứu gần đây kiểm chứng hiệu ứng Fisher
ở những quốc gia khác.


10

2.2.2 Các nghiên cứu ở các nƣớc phát triển OECD
Những nghiên cứu về hiệu ứng Fisher ở các nước OECD đã được thực hiện bởi
Mishkin (1984), Peng (1995) và MacDonald và Murphy (1989). Mishkin (1984)
nghiên cứu sự thay đổi của lãi suất thực ở 7 nước OECD trong giai đoạn 02/196702/1979 trên thị trường tiền gửi euro và ông đã tìm được mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi
suất danh nghĩa và lạm phát kì vọng ở Anh, Mỹ và Canada. Đồng thời, hiệu ứng Fisher
yếu hơn được phát hiện ở Đức, Hà Lan và Thụy Sĩ. Kết quả nghiên cứu bởi Peng
(1995) cũng thống nhất với Mishkin (1984), Peng dùng phương pháp Johansen (1988)

và Johansen Juselius (1990) và tìm được mối quan hệ dài hạn giữa lãi suất và lạm phát
kì vọng ở Pháp, Anh và Mỹ trong giai đoạn 1957-1994. Mối quan hệ này là yếu hơn ở
Đức và Nhật. Tương tự, MacDonald và Murphy (1989) cũng tìm thấy bằng chứng về
hiệu ứng Fisher ở Mỹ, Bỉ, Canada và Anh đối với giai đoạn từ 1955 đến 1986. Mẫu
được chia làm 2 cơ chế : cơ chế tỷ gái cố định và tỷ giá thả nổi. Điều thú vị đó là đồng
liên kết được tìm thấy ở Mỹ và Canada với cơ chế tỷ giá cố định và không có phát hiện
gì cho những quốc gia này trong cơ chế tỷ giá thả nổi.Trái với kết quả nghiên cứu của
Peng, MacDonald và Murphy, Yuhn (1996) phát hiện được bằng chứng về hiệu ứng
Fisher ở Mỹ, Đức và Nhật nhưng rất ít bằng chứng tại Anh và Canada. Kết quả cũng
chỉ ra rằng hiệu ứng Fisher không thật sự rõ rệt khi chính sách thay đổi. Ngược với
Mishkin (1992), hiệu ứng Fisher mạnh đối với giai đoạn 04/1974 – 02/1993 trong khi
không có phát hiện đối với giai đoạn 04/2982 – 02/ 1983. Dutt và Ghosh (1995) kiểm
định tính khả thi của Fisher dưới 2 cơ chế tỷ giá cố định và thả nổi ở Canada nhưng
không có bằng chứng cụ thể (tương tự như Yuhn).
Kiểm định hiệu ứng Fisher ở Úc được thực hiện bởi Mishkin và Simon (1995), Atkins
(1989), Olekalns (1996), Hawtrey (1997) và Inder và Silvapulle (1993). Không giống
với trường hợp ở Mỹ, trong khi kết quả nghiên cứu tương đối đồng nhất, kết quả ở Úc
khá khác biệt với bằng chứng yếu về hiệu ứng Fisher. Mishkin và Simon (1995) sử
dụng dữ liệu từ 03/1962 đến 04/1993, đã phát hiện được mối quan hệ dài hạn nhưng


11

không có mối quan hệ ngắn hạn. Atkins (1989) sử dụng lãi suất danh nghĩa thuế của
trái phiếu như là biến phụ thuộc cho Úc đã đưa ra kết quả phù hợp với công thức của
Fisher. Trong khi đó, Olekalns (1996) sử dụng dữ liệu gộp từ trước và sau giai đoạn cải
cách, chỉ tìm được một phần điều chỉnh trong lãi suất ứng với thay đổi trong lạm phát
kì vọng. Điều chỉnh hoàn toàn chỉ đúng đối với dữ liệu sau cải cách. Những cú sốc
cung tiền tác động đến lãi suất thực được xem là một trở ngại đối với sự điều chỉnh này
trong thời kì trước cải cách.

Tương tự, Hawtrey (1997) áp dụng phương pháp Johansen không tìm thấy bằng chứng
ủng hộ hiệu ứng Fisher trước cải cách tài chính, nhưng sau cải cách tài chính thì có.
Inder và Silvapulle (1993) dùng dữ liệu lãi suất trái phiếu hậu nghiệm làm biến phụ
thuộc, đã tìm thấy kết quả ngược với lý thuyết Fisher.
Do đó, trong khi bằng chứng ở Mỹ dường như ủng hộ hiệu ứng Fisher, kết quả ở các
quốc gia khác là không rõ ràng.
2.2.3 Các nghiên cứu ở các nƣớc đang phát triển
Các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu ứng Fisher ở các quốc gia đang phát triển là khá
ít. Phylaktis và Blake (1993), Garcia (1993), Thornton (1996) và Mendoza (1992) đã
tiến hành kiểm định đối với dữ liệu ở các nước Mỹ Latin. Một kết luận thú vị được rút
ra khi tập hợp các bài nghiên cứu là họ đều tìm được kết quả thống nhất về bằng chứng
của hiệu ứng Fisher, tuy nhiên mức độ thống nhất này lại không phát hiện được ở các
quốc gia đang phát triển khác.
Phylaktis và Blake (1993) thực hiện kiểm định hiệu ứng Fisher tại 3 nền kinh tế có lạm
phát cao như Argentina, Brazil và Mexico từ những năm 1970 đến những năm 1980.
Họ đã sử dụng kĩ thuật kiểm định nghiệm đơn vị và đồng liên kết và phát hiện ra mối
quan hệ dài hạn giữa lãi suất danh nghĩa và lạm phát cho cả 3 quốc gia này. Họ cho
rằng điều này khác với các nước có lạm phát thấp vì tại các quốc gia có lạm phát cao,
việc đầu tư dự báo lạm phát nhiều hơn dẫn đến sự truyền dẫn vào lãi suất. So sánh tốc


12

độ phản ứng của lãi suất với thay đổi lạm phát ở các nước Úc và Mỹ, họ nhận thấy đối
với các quốc gia có lạm phát cao thì độ trễ sẽ dài hơn.
Garcia (1993) đã sử dụng dữ liệu lãi suất tiền gửi ngân hàng ở Brazil trong giai đoạn
1973 – 1990 và ông tìm được bằng chứng ủng hộ cho lý thuyết của Fisher. Lạm phát kì
vọng có vai trò giải thích 99% sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Tương tự,
Thornton (1996) tìm hiểu mối quan hệ giữa lãi suất tín phiếu kho bạc và lạm phát ở
Mexico cho thời kì 1978 – 1994 với phương pháp kiểm định tính dừng và kiểm định

đồng liên kết. Ông cũng phát hiện được kết quả giống với Phylaktis và Blake. Chỉ số
thống kê likelihood với β=1 không thể bác bỏ tại mức ý nghĩa 5%, điều này đồng nghĩa
với sự tồn tại của hiệu ứng Fisher. Ông kiểm định đồng liên kết giữa 2 chuỗi dữ liệu
này và kết luận rằng lãi suất tín phiếu kho bạc phản ứng hoàn toàn khi có cú sốc lạm
phát. Mendoza (1992) kiểm định hiệu ứng Fisher ở Chile trong đang bối cảnh đang
thực hiện cải cách chỉ số tài chính một phần. Và ông cũng phát hiện bằng chứng phù
hợp lý thuyết của Fisher. Mặc dù những bài nghiên cứu trên sử dụng những cách tiếp
cận và cấu trúc khác nhau, các kết quả thu được đều ủng hộ mạnh mẽ cho hiệu ứng
Fisher tại các nước Mỹ Latin đang phát triển.
Điều này không được chứng minh tại các quốc gia đang phát triển khác. Kim (1989),
Ham và Choi (1991), Nam (1993) đã thực hiện kiểm định tại Hàn Quốc. Với dữ liệu
thu thập trong giai đoạn 01/1974 – 02/1991 và phương pháp tự hồi quy, Nam cho rằng
hiệu ứng thanh khoản (hiệu ứng làm giảm lãi suất khi tăng cung tiền) lấn át hiệu ứng
Fisher trong dài hạn. Kết quả này ngược với các nghiên cứu của Kim, Ham và Choi khi
họ phát hiện hiệu ứng Fisher lấn át hiệu ứng thanh khoản. Zilberfarb (1989) khảo sát
giai đoạn 01/1980-02/1988 nhằm kiểm định tác động của hiệu ứng thanh khoản, lạm
phát và cú sốc cung hàng hóa đến lãi suất tại Israel. Ông kết luận rằng hiệu ứng thanh
khoản và lạm phát có tương quan ngược chiều với lãi suất trong khi cú sốc cung hàng
hóa lại có tác động tích cực. Điều này dường như ngược lại với những gì được nêu ra
bởi Fisher.


13

Hai nhà nghiên cứu khác là Payne và Ewing (1997) đã dùng phương pháp Johansen
(1988) và Johansen và Juselius (1990) để kiểm định hiệu ứng Fisher ở 9 quốc gia đang
phát triển. Kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy lãi suất và lạm phát là chuỗi dừng bậc 1
cho tất cả 9 quốc gia. Cách tiếp cận bằng Johansen và Juselius chỉ ra sự tồn tại của mối
quan hệ dài hạn giữa lạm phát và lãi suất danh nghĩa ở Sri Lanka, Malaysia, Singapore
và Pakistan. Mối quan hệ 1:1 được phát hiện ở Malaysia, Sri Lanka và Pakistan trong

khi không có bằng chứng gì về hiệu ứng Fisher ở Argentina, Fiji, Ấn Độ, Niger và Thái
Lan. Ngoài ra, Cooray (2002) tìm thấy bằng chứng yếu cho hiệu ứng Fisher ở Srilanka.
Những kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất là không giống
nhau. Mặc dù các nghiên cứu ở Mỹ phần lớn đưa ra mối tương quan cùng chiều giữa
lãi suất và lạm phát nhưng họ không thể xây dựng quan hệ 1:1 giữa chúng. Tuy nhiên,
các bằng chứng ở Mỹ dường như khá thống nhất trong khi ở các quốc gia khác thì
không rõ ràng. Các nghiên cứu cho những quốc gia đang phát triển có mức độ đồng
nhất cao với dữ liệu tại các nước Mỹ Latin nhưng mức độ này lại không tìm thấy ở các
nước đang phát triển khác, phát hiện về hiệu ứng Fisher là khá ít. Nhiều tranh luận cho
sự thất bại của hiệu ứng Fisher đã được nêu ra nhưng bằng chứng cho những tranh luận
này là không mạnh mẽ. Vì thế nó đã hình thành một câu đố: tại sao hiệu ứng Fisher lại
mạnh ở một số quốc gia nhưng lại không phát hiện ở các quốc gia khác.
Trong nghiên cứu gần đây, Bierens (2000) tìm thấy lời giải thích cho câu đố này. Ông
tranh luận rằng sự khác biệt trong kết quả nghiên cứu trước là bởi xu hướng phi tuyến
của lạm phát và lãi suất. Kể từ Phillips và Perron (1988), ông nhận thấy việc mô hình
hóa các biến kinh tế thành tuyến tính là không chính xác, khi chúng bị lệ thuộc vào cú
sốc đáng kể, bất thường, điều này làm ảnh hưởng đến tính hữu dụng của kết quả thống
kê. Cụ thể, nếu một chuỗi dữ liệu thời gian và là chuỗi dừng, giả thiết H0 trong kiểm
định nghiệm đơn vị dễ dàng bị bác bỏ. Tuy nhiên, mối quan ngại lớn của các nhà
nghiên cứu là khả năng bác bỏ thấp của các phép kiểm định thống kê trong tài chính
quốc tế; hay nói cách khác, các biến vĩ mô thường là chuỗi không dừng. Hơn nữa, nếu


14

một chuỗi dữ liệu có điễm gãy cấy trúc, cái được gây ra bởi những cú sốc ngoại sinh,
các phép kiểm định đơn vị thông thường và kiểm định đồng liên kết có xu hướng chấp
nhận giả thiết H0 ; trong khi nếu xem xét đến sự xuất hiện của điểm gãy thì kết quả sẽ
bác bỏ H0. Gần đây, Bierens (1997) đã tổng quát hóa điều này bằng cách lập luận rằng
các biến kinh tế vĩ mô có thể dừng quanh một xu hướng phi tuyến xác định. Bierens

(2000) đã phát triển một phương pháp kiểm định đồng liên kết phi tuyến để kiểm định
liệu những biến này liệu có mối quan hệ phi tuyến với nhau hay không. Maghyereh và
Al-Zoubi (2006) đã áp dụng phương pháp của Bierens (2000) trong việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất ở 6 quốc gia đang phát triển là Argentina, Brazil,
Malaysia, Mexico, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kì. Dữ liệu theo tháng tại Argentina, Brazil
và Hàn Quốc lần lượt thu thập trong giai đoạn 03/1979 – 12/2003; 11/1979 – 10/2003;
01/1976 – 12/2003 với lãi suất danh nghĩa là lãi suất trên thị trường tiền gửi. Đối với
Malaysia và Mexico, lãi suất tín phiếu kho bạc kì hạn 3 tháng được thu thập lần lượt từ
01/1974 – 12/2003 và 01/1978 – 12/2003. Và Thổ Nhĩ Kì , dữ liệu lãi suất tiền gửi
ngân hàng kì hạn 3 tháng trong thời kì 12/1978 – 12/2003. Trong bài nghiên cứu của
họ, lạm phát được tính bằng chênh lệch chỉ số giá tiêu dùng CPI theo năm. Nhiều
phương pháp kiểm định tính dừng khác nhau được thực hiện như kiểm định Philips,
kiểm định Philips Perron, kiểm định ADF, HOAC, KPSS… Kết quả từ kiểm định
nghiệm đơn vị không đồng nhất giữa các quốc gia. Maghyereh và Al-Zoubi biện luận
lãi suất và lạm phát không hẳn là một chuỗi dừng thuần túy và cũng không hẳn là một
chuỗi không. Sự khác biệt này có thể lý giải rằng các chuỗi dữ liệu thời gian này có thể
dừng quanh một xu hướng phi tuyến xác định. Điều này phù hợp với những lập luận
của Bierens (1997) và Bierens (2000). Maghyereh và Al-Zoubi thực hiện phương pháp
Bierns (2000) để kiểm định mối quan hệ phi tuyến này và tìm được những bằng chứng
mạnh mẽ cho mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và lãi suất ở cả 6 quốc gia trên.


15

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình lý thuyết
Mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được đề cập đầu tiên bởi Ivring
Fisher (1930) như một phần lý thuyết của ông ấy trong việc đầu tư. Theo Fisher, với
giả định thị trường vốn là hoàn hảo và các dòng vốn có thể chuyển dịch tự do, lãi suất
thực ở các nước sẽ tiến về mức cân bằng. Lúc này một sự chênh lệch trong lãi suất

danh nghĩa thể hiện chênh lệch trong lạm phát, hay nói cách khác lãi suất danh nghĩa
trong dài hạn sẽ hoàn toàn di chuyển cùng hướng với lạm phát kì vọng. Và Fisher nhấn
mạnh rằng trong dài hạn, lãi suất thực là không đổi và sẽ không chịu tác động của cả
lạm phát lẫn lãi suất danh nghĩa. Mô hình của Fisher được xây dựng như sau:

1 + Rt = [1 + Et-1(Rt*)] [ 1 + Et-1(πt)]

(1)

 Trong đó:
Rt là cho lãi suất danh nghĩa của trái phiếu đáo hạn tại thời điểm t.
Et-1(Rt*) là lãi suất kì vọng tại thời điểm t-1 của trái phiếu đáo hạn tại thời điểm t
Et-1(πt) là lạm phát kì vọng cho thời điểm t từ thời điểm t-1
Từ phương trình (1), ta có:

1 + Rt = 1 + [Et-1(Rt*)] + [Et-1(πt)] + [Et-1(Rt*)] [Et-1(πt)]
 Rt =[Et-1(Rt*)] + [Et-1(πt)] + [Et-1(Rt*)] [Et-1(πt)]

(2)

Lãi suất và lạm phát thường có giá trị không cao nên Et-1(Rt*) Et-1(πt) sẽ có giá trị gần
bằng 0 nên có thể loại bỏ khỏi phương trình (2). Ta có phương trình mới như sau:

Rt =[Et-1(Rt*)] + [Et-1(πt)]
Theo phương trình trên, người cho vay sẽ yêu cầu một lãi suất danh nghĩa có thể bù
đắp phần sự mất giá của đồng tiền do khoảng thời gian dài của nợ vay, khoảng bù đắp
này được tính bằng lạm phát kì vọng. Vì thế, nếu chúng ta nhận thấy có sự mất giá


16


đồng tiền, ngay lập tức một sự thay đổi trong lạm phát kì vọng sẽ được chuyển hoàn
toàn vào lãi suất danh nghĩa để lãi suất thực là không đổi. Thông tin từ phương trình
trên cung cấp thật sự hữu ích cho cả các nhà nghiên cứu và các nhà làm chính sách. Ví
dụ, nếu hiệu ứng Fisher tồn tại, lạm phát kì vọng sẽ là một thước đo tốt dùng để dự
đoán lãi suất danh nghĩa. Vi thế, nhiều nghiên cứu được thực hiện để kiểm định mối
quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lạm phát, hay nói chính xác hơn là kiểm định sự
tồn tại của hiệu ứng Fisher. Mô hình tổng quát đo lường mối quan hệ này như sau :

R t = α + β π t + εt
Trong đó ta ngầm giả định kì vọng hợp lý (tức πt = [Et-1(πt)]). Nếu hệ số ước lượng β có
ý nghĩa, điều này đồng nghĩa vời sự tồn tại của mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
và tồn tại hiệu ứng Fisher. Nếu hiệu ứng Fisher hoàn toàn, hệ số ước lượng β sẽ bằng 1
và phương trình ước lượng sẽ tương đương với phương trình (1) của Fisher. Nhiều bài
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy ít bằng chứng về hiệu ứng Fisher hoàn toàn và sự tồn
tại của hiệu ứng Fisher vẫn còn nhiều tranh cãi. Bài nghiên cứu này sẽ áp dụng các
phương pháp kiểm định tính dừng ADF, kiểm định đồng liên kết Johansen cũng như
mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM, kiểm định đồng liên kết phi tuyến bằng cách
chuyển đổi xử lý số liệu bởi thuật toán ACE để phát hiện mối quan hệ giữa lạm phát và
lãi suất.
3.2 Các phƣơng pháp ƣớc lƣợng
Tiến trình kiểm định được thực hiện như sau:
Kiểm định tính dừng của 2 chuỗi dữ liệu lạm phát và lãi suất ở 10 quốc gia khu vực
Đông Nam Á bằng cách sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị ADF. Nếu cả
2 chuỗi dữ liệu là dừng – I(0), chúng ta sẽ thực hiện hồi quy OLS để tìm ra mối quan
hệ giữa lạm phát và lãi suất. Ngược lại, khi cả 2 chuỗi dữ liệu là không dừng, chúng ta
tiếp tục thực hiện lại kiểm định ADF cho chuỗi dữ liệu sau khi lấy sai phân bậc 1 để
xác định đây là chuỗi dừng bậc 1 – I(1).



×