Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đề thi Mac Lênin, có liên hệ thực tiễn, dùng để thi hết môn (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.29 KB, 43 trang )

Câu hỏi Mác- Lênin 1, có liên hệ thực tiễn. Phần 2
Câu 08: Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Ý nghĩa
phương pháp luận. Sự vận dụng của đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 09: Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Ý nghĩa
phương pháp luận. Sự vận dụng của đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 10: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý
nghĩa của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Câu 11: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Câu 12: Cơ sở hạ tầng là gì ? Liên hệ với cơ sở hạ tầng hiện nay ở
Việt Nam.
Câu 12b: Kiến trúc thượng tầng là gì ? Liên hệ kiến trúc thượng
tầng ở Viêt Nam hiện nay.
Câu 12c: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng trong quá trình đổi mới hiện
nay.
Câu 08: Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Ý nghĩa
phương pháp luận. Sự vận dụng của đảng cộng sản Việt Nam.
BÀI LÀM


Đây là 1 trong 6 cặp phạm trù cơ bản. Đề cập và giải quyết mối
quan hệ giữa những nhân tố ổn định ở bên trong sự vật với những yếu tố
thường xuyên biến đổi ở bên ngoài sự vật.
a. Khái niệm:
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên trong sự vật quy định sự vận động và phát triển
của sự vật.
- Hiện tượng là biểu hiện những mặt, những mối liên hệ đó ra bên


ngoài, là hình thức biểu hiện của bản chất.
* Chú ý:
+ Phạm trù bản chất gắn bó chặt chẽ với phạm trù cái chung, nói đến
bản chất là nói đến cái chung của sự vật. Tuy nhiên, không phải mọi cái
chung đều là bản chất mà chỉ có những cái chung tất yếu, đặc trưng
quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật.
Ví dụ:
+ Bản chất: Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
+ Cái chung: cái sinh học
+ Phạm trù bản chất là phạm trù quy luật là cùng bậc nhưng không
hoàn toàn đồng nhất, quy luật bao gồm các mối liên hệ tất nhiên, phổ
biến, được lặp lại ở nhiều sự vật khác nhau, còn bản chất là tổng hợp
những mối liên hệ tất nhiên, ổn định ở bên trong một sự vật. Trong bản
chất tổng hợp nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn, phong
phú hơn phạm trù quy luật.


b, Mối quan hệ giữa bản chất - hiện tượng:
- Bản chất và hiện tượng cùng tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ gắn
bó hết sức chặt chẽ với nhau và mỗi 1 sự vật là thể thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng. Bản chất bao giờ cũng được bộc lộ ra qua các hiện
tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức
độ nhất định, không có bản chất nào tồn tại 1 cách thuần tuý tự giấu kính
mình đến mức không bộc lộ ra bên ngoài bằng một hiện tượng nào cả.
Ngược lại, cũng không có 1 hiện tượng nào là trống rỗng, không chứa
đựng hoặc thể hiện bản chất hoặc một phần nào đó của bản chất.
Lênin đã khẳng định: “Bản chất thì hiện ra. Hiện tượng là có tính
bản chất”
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản
chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ

ra bên ngoài bằng những hiện tượng tương ứng, bản chất nào thì hiện
tượng như thế, bản chất khác nhau thì hiện tượng khác nhau, khi bản
chất thay đổi thì hiện tượng của nó cũng thay đổi theo, khi bản chất mất
đi thì hiện tượng thể hiện nó cũng không còn cơ sở để tồn tại. Vì vậy,
người ta có thể tìm ra được bản chất, phát hiện được quy luật trong vô
vàn những hiện tượng ở bên ngoài.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện
chứng của hai mặt đối lập, sự phù hợp của chúng là xét về căn bản, song


điều đó không có nghĩa là chúng hoàn toàn thống nhất với nhau bởi lẽ
bản chất của sự vật được thể hiện trong quá trình tương tác giữa nó với
các sự vật khác. Sự tương tác đó làm ảnh hưởng đến hiện tượng, làm
thay đổi và biến dạng những hiện tượng trong khi thay đổi bản chất. Vì
vậy hiện tượng tuy là biểu hiện bản chất nhưng không phải lúc nào cũng
thể hiện trung thành tuyệt đối, như bản chất vốn có. Do vậy, sự phù hợp
giữa chúng không phải hoàn toàn mà còn bao hàm cả sự mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn và sự không phù hợp giữa bản chất và hiện tượng thể
hiện trên các điểm sau:
+ Vì bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại
của sự vật, còn hiện tượng thì phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Vì vậy
cùng một bản chất song có thể hiểu hiện ra bên ngoài bằng vô số những
hiện tượng khác nhau tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh bên
ngoài. Vì vậy, bản chất là cái sâu sắc hơn hiện tượng nhưng hiện tượng
lại là cái phong phú, nhiều vẻ hơn bản chất.
+ Bản chất là mặt bên trong, là cái được ẩn giấu sâu xa của sự vật,
còn hiện tượng là bề mặt bên ngoài. Vì vậy, nó không biểu hiện dưới
dạng y nguyên mà dưới những hình thức đã được cải biến đi thậm chí

có khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Điều này tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh bên ngoài, vào không gian, thời gian, đặc điểm của những
mối quan hệ mà ở đó bản chất phải bộc lộ.
Mác đã từng nhận xét:” Nếu hình thái biểu hiện và bản chất của sự
vật trực tiếp đồng nhất với nhau thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”.


+ Bản chất là mặt tiêu biểu biến đổi chậm còn hiện tượng là luôn
luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn, linh hoạt hơn so với bản chất. Trong
hiện tượng một mặt thể hiện bản chất, mặt khác nó ghi dấu ấn của sự tác
động đó diễn ra thường xuyên vì vậy hiện tượng là hết sức linh hoạt.
Lênin đã khẳng định: “Cái không bản chất, cái bề mặt, cái bên
ngoài thường biến mất, không bám chắc, không trụ vững bằng bản
chất.”
Mác từng nhận xét: “Nếu các hình thái biểu hiện và bản chất của sự
vật trực tiếp đồng nhất với nhau thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”.
+ Bản chất tương đối ổn định và biến đổi chậm. Hiện tượng không
ổn định, luôn luôn trôi qua. Điều nàuy bắt nguồn ở chỗ hiện tượng
không đơn thuần chỉ phản ánh bản chất mà nó còn chịu sự tác động của
các yếu tố bên ngoài. Để bảo vệ bản chất đôi khi xuất hiện những giả
tượng (hiện tượng giả).
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Về mặt nhận thức: để đánh giá phát hiện đúng bản chất của sự vật
thì phải thông qua các hiện tượng, song không được dừng lại ở hiện
tượng mà phải biết xử lý chúng, hệ thống hóa chúng, đánh giá các hiện
tượng từ nhiều góc độ khác nhau. Nhận thức bản chất của sự vật là quá
trình phức tạp, khó khăn, đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít
sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Lênin nhấn mạnh: “Tư tưởng của
người ta đi sâu một cách vô hạn từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất
cấp 1 đến bản chất cấp 2 … và cứ như vậy mãi.



Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức khoa học nói
riêng là phải vạch ra được cái bản chất của sự vật.
Nếu muốn tìm ra bản chất của sự vật cần nghiên cứu các hiện tượng.
Nhưng bản chất và hiện tượng có thể không thống nhất nhau do sự tác
động nhiều nguyên nhân chủ quan. Những hiện tượng bao giờ cũng biểu
hiện bản chất dưới dạng đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc, nên khi nhận
thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau và
từ nhiều góc độ khác nhau, trong đó phải ưu tiên cho việc xem xét trước
hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Do đó, cần hết
sức thận trọng khi kết luận về bản chất của sự vật, phải tìm ra bản chất
thực sau hiện tượng đó.
- Trong hoạt động thực tiễn: cần dựa vào bản chất chứ không dựa
trên hiện tượng để xác định phương thức hoạt động. Cần biết thu thập,
sàng lọc, đánh giá, phát hiện và loại bỏ những hiện tượng giả, hết sức
thận trọng khi kết luận về bản chất của con người, của đối tượng, của sự
việc nào đó.
Câu 09: Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Ý nghĩa
phương pháp luận. Sự vận dụng của đảng cộng sản Việt Nam
BÀI LÀM
a, Một số khái niệm
Nội dung và hình thức là một trong 6 cặp phạm trù của phép biện
chứng duy vật, nêu lên mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật và
phương thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố đó.


- Nội dung là một phạm trù triết học tổng hợp tất cả những mặt,
những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là một phạm trù triết học để chỉ phương thức tồn tại và

phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững
giữa các yếu tố tạo thành sự vật.
Ví dụ: Nội dung của quá trình sản xuất là tổng hợp tất cả các yếu tố
vật chất như con người, công cụ lao động, đối tượng lao động, quá trình
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động.
Hình thức của quá trình sản xuất là trình tự kết hợp, thứ tự sắp xếp các
yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất, quy định vị trí của người sản
xuất đối với công cụ.
Chú ý: Mỗi một sự vật đều có hình thức bên ngoài của chúng, song
Triết học Macxit quan tâm chủ yếu đến hình thức bên trong của nội dung
và xem xét mối quan hệ bên trong với nội dung.
b, Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung – hình thức
+ Nội dung và hình thức thống nhất với nhau, gắn bó chặt chẽ với
nhau, không có hình thức nào không chức đựng nội dung, ngược lại
cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác
định nào đó, nôi dung nào thì hình thức đó, không có hình thức thuần
túy và cũng không có một nội dung thuần túy.
- Quan hệ giữa nội dung – hình thức mang tính đa dạng, phức tạp
thể hiện ở chỗ không phải lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp
tuyệt đối với nhau, cùng 1 nội dung nhưng trong những tình hình, hoàn


cảnh khác nhau có thể hiện ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngược
lại, cũng có thể cùng một hình thức nhưng lại biểu thị nhiều nội dung
khác nhau. Trong quá trình sản xuất xã hội có thể nội dung giống nhau
nhưng cách thức tổ chức phân công lao động lại khác nhau.
- Trong quan hệ giữa nội dung –hình thức thì nội dung bao giờ cũng
giữa vai trò quyết định. Nội dung là yếu tố động, khuynh hướng chủ đạo
là biến đổi không ngừng, hình thức là yếu tố tương đối bề vững, biến đổi
chậm hơn so với nội dung, khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định

tương đối. Dưới sự tác động của những mặt, những yếu tố bên ngoài sự
vật đã làm cho nội dung biến đổi trước hết. Còn những mối liên hệ giữa
yếu tố là hình thức, thì chưa biến đổi ngay. Đến một lúc nào đó, hình
thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và trởi thành nhân tố kìm
hãm sự phát triển của nội dung. Nó cần phải được điều chỉnh, được thay
thế theo yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển của nội dung.
Như vậy, sự biến đổi của nội dung đã quy định sự biến đổi của hình
thức. Chẳng hạn, trong quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội
dung, quan hệ sản xuất là hình thức.
Trong đó, lực lượng sản xuất bao giờ cũng biến đổi nhanh hơn so
với quan hệ sản xuất, dẫn đến kết cục đến một lúc nào đó quan hệ sản
xuất trở nên lạc hệu hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Để
giải quyết quá trình này cần phải điều chỉnh quan hệ sản xuất, thậm chí
phải thay quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất.


Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập tương đối so với nội dung
và tác động trở lại nội dung theo cả hai chiều hướng: Chiều hướng thứ
nhất nếu hình thức phù hợp với nội dung thì tác động của nó đối với nội
dung là mang tính tích cực, nó mở đường thúc đẩy cho sự phát triển của
nội dung. Trong trường hợp ngược lại nếu hình thức lạc hậu hơn so với
nội dung nó sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung. Chẳng hạn ởi Việt
Nam, trước thời kỳ đổi mới, những quan hệ sản xuất là không phù hợp
với lực lượng sản xuất cho nên không kích thích được tính năng động,
sáng tạo của người lao động, không tạo điều kiện cho sự phát triển các
yếu tố của lực lượng sản xuất. Sau đổi mới, chúng ta chủ trương xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo
định hướng XHCN, tức là có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù
hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, nhời vậy đã tạo điều

kiện cho sản xuất phát triển trong thời kỳ mới.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức, không được tách rời, tuyệt đối hóa nội
dung hay hình thức, đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức.
- Khi nghiên cứu xem xét sự vật trước hết cần căn cứ vào nội dung
của nó và để làm biến đổi 1 sự vật thì trước hết cần tác động vào những
yếu tố của nội dung.
- Trong hoạt động thực tiễn, cần sử dụng sáng tạo mọi loại hình thức
kể cả phải cải tạo, phải đổi mới những hình thức cũ, đồng thời phải lấy


hình thức này để bổ sung, thay thế cho hình thức khác tùy theo yêu cầu
phát triển của nội dung.
- Cần thường xuyên theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức để kịp thời phát hiện sự không đồng bộ, không phù hợp, không
tương xứng giữa nội dung – hình thức, kịp thời để kịp thời can thiệp vào
quá trình phát triển của chúng.
Câu 10: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý
nghĩa của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
BÀI LÀM
Trong lịch sử triết học, không phải mọi trào lưu đều hiểu được giá
trị của thực tiễn, đều có 1 quan niệm đúng đắn về thực tiễn. Chủ nghĩa
duy tâm hiểu thực tiễn như là 1 hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác rất coi thường, thậm chí xem đó như là
một hoạt động con buôn bẩn thỉu không có vai trò gì đối với nhận thức.
Vì vậy các nền triết học đó chủ yếu mới chỉ tập trung vào việc giải thích
thế giới bên ngoài là gì theo những cách khác nhau
Quan điểm của Mác: khắc phục những nhược điểm trước đây và kế
thừa những tiến bộ của các nền triết học về thực tiễn. C.Mác –

Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn khoa học về thực tiễn và
vai trò của nó đối với nhận thức, cũng như đối với sự phát triển của XH.
Phạm trù thực tiễn đã trở thành một trong những phạm trù nền tảng, cơ
bản của triết học Mác - Lênin nói chung, của lý luận nhận thức Mác-xít


nói riêng với việc đưa phạn trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, C.Mác –
Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước chuyển biến cách mạng trong triết học,
điều này cũng làm cho triết học Mác trở thành triết học của hành động,
triết học mang tính chiến đấu nó không chỉ giải thích một cách đúng đắn
bản chất của thế giới mà còn hướng dẫn hoạt động của con người nhằm
cải tạo thế giới khách quan đó.
V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.
* Thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những
hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ
thể và khách thể.
- Hoạt động thực tiễn khác với hoạt động tư duy ý thức, trong hoạt
động thực tiễn con người đã sử dụng những công cụ, những phương tiện
vật chất tác động vào những đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng,
do vậy hoạt động thực tiễn trước hết là hoạt động vật chất của con
người. Đó là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người.
- Hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có định hướng của
con người, nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng để thích nghi với
môi trường và thừa hưởng những gì có sẵn trong tự nhiên thì ở con
người hoạt động phải theo mục đích nhằm cải tạo thế giới và tạo ra của
cải vật chất thỏa mãn nhu cầu vật chất thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao



của mình. Con người không chỉ thỏa mãn với những gì mà tự nhiên có
sẵn bằng hoạt động thực tiễn mà trước hết là lao động sản xuất con
người đã sáng tạo ra những vật phẩm vốn đã không tồn tại trong thiên
nhiên.
Như vậy hoạt động thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của con người
và thwế giới bên ngoài, là tiêu chí để phân biệt con người với con vật.
- Vì vậy thực tiễn là phương thức tồn tại của bản thân con người và
xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con
người với giới tự nhiên.
- Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của mình cùng
với sự vận động phát triển của xã hội loài người. Trình độ phát triển của
thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của
con người. Mỗi một thời kỳ, một giai đoạn trình độ đó được biểu hiện
khác nhau. Do đó, về mặt nội dung cũng như phương thức thực hiện
thực tiễn có tính lịch sử xã hội.
- Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm 3 hình thức cơ
bản: hoạt động SX vật chất, hoạt động trong các lĩnh vực chính trị xã hội
và hoạt động thực nghiệm khoa học.
+ Hoạt động sản xuất của cải vật chất xã hội: đây là dạng hoạt động
cơ bản nhất, trong đó, con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cùng những điều kiện khác nhằm
duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Hoạt động này


được đáng giá là cơ bản nhất,nó giữ vai trò quyết định đối với những
dạng hoạt động thực tiễn khác.
+ Những hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các tổ chức
cộng đồng người khác nhau trong XH nhằm cải biến các quan hệ xã hội,

các chế độ xã hội có tác dụng trực tiếp trong việc thúc đẩy sự chuyển
biến sự thay đổi của các chế độ xã hội, đặc biệt là sự đấu tranh giai cấp
và cách mạng xã hội.
+ Những hoạt động thực nghiệm khoa học: đây là một dạng hoạt
động đặc biệt của thực tiễn được tiến hành trong môi trường trong điều
kiện nhân tạo gần giống với trạng thái tự nhiên và XH Nhằm xác định
các quy luật của đối tượng cần nghiên cứu, nhằm nhận thức và cải tạo tự
nhiên xã hội, dạng hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng trong sự
phát triển của xã hội đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng công nghệ hiện
nay.
Trong đó hoạt động SX vật chất là hoạt động có ý nghĩa quyết định
các hình thức khác, hoạt động trong các lĩnh vực chính trị xã hội là hình
thức cao nhất và hoạt động thực nghiệm KH là hình thức đặc biệt nhằm
thu nhận những tri thức về hiện thực khách quan.
- Lý luận với nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm
thực tiễn là tổng hợp các tri thức về tự nhiên, XH đã được tích lũy trong
quá trình lịch sử của con người.
Như vậy lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, là những tri thức về
bản chất, quy luật của hiện thực.


Là sản phẩm của quá trình nhận thực nên bản chất của lý luận là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đã được tri thức hóa.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Trong quan hệ với lý luận thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực
tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh
thần. Hoạt động thực tiễn làm các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc
tính, tính quy luật… Xét cho cùng, mọi tri thức về sự vật, hiện tượng
trực tiếp hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
* Thực tiễn có vai trò hết sức quan trọng đối với nhận thức, đó là

sơ sở, động lực, mục đích của nhận thức.
- Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.
Con người trong quan hệ với thế giới bên ngoài bắt đầu từ hoạt động
thực tiễn và cũng chính từ quá trình đó mà nhận thức, ý thức con người
được hình thành và phát triển. Bằng sự tác động của mình con người đã
buộc thế giới tự nhiên và xã hội bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm, tính
quy luật của nó để từ đó con người có ý thức và tri thức về hiện thực
khách quan. Vì vậy, chính nhờ hoạt động thực tiễn đã cung cấp những tư
liệu, tài liệu, tri thức làm cơ sở cho mọi tri thức có được ở con người dù
trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người khác, thế hệ này hay
thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay trình độ khoa học lý luận... xét
đến cùng đều từ thực tiễn.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức: Từ trong thực tiễn đã xuất
hiện những nhu cầu, những nhiệm vụ cần phải giải quyết. Điều đó vạch


ra phương hướng phát triển của nhận thức. Mặt khác, chính hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới để tổng kết những kinh nghiệm đã
có hình thành nên những lý luận mới, những phát minh mới... từ đó thúc
đẩy sự ra đời của các ngành khoa học cụ thể.
Thực tiễn đồng thời cũng tạo ra phương tiện, công cụ, dụng cụ ngày
càng tinh vi, hoàn thiện hơn. Điều đó tạo ra những thuận lợi để con
người đi sâu, tìm hiểu khám phá những bí mật của hiện thực bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn cũng làm biến đổi chính bản thân con người
theo hướng hoàn thiện hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn các giác quan
của con người ngày càng hoàn chỉnh hơn, nhanh hơn, nhạy hơn và qua
đó làm tăng thêm sức thu nhận những thông tin từ bên ngoài ở con
người.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức ở con người
không mang mục đích tự thân, tức là nhận thức để nhận thức mà để phục

vụ cho cuộc sống, cho hoạt động thực tiễn của chính con người. Kết quả
của quá trình nhận thức phải mang lại chỉ đạo, hướng dẫn hành động
thực tiễn của con ngừơi. Các khoa học lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi
nó phục vụ cho cuộc sống nâng cao hiệu quả hành động thực tiễn của
con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Quá trình nhận thức sẽ đưa đến
kết quả và hình thành nên những tri thức mới và những tri thức đó đứng
trước khả năng đúng, sai và gần đúng. Tiêu chí dùng để đánh giá các khả
năng này là thực tiễn. Chỉ có những tri thức được thực tiễn kiểm nghiệm


và khẳng định là phù hợp với hiện thực khách quan, nâng cao hiệu qủa
cho hoạt động con người thì nó mới trở thành chân lý.
Mác nhấn mạnh: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có đạt
tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải
chứng minh thực tiễn.”
Tóm lại, trong mối quan hệ với nhận thức thì thực tiễn có vai trò to
lớn, và mang ý nghĩa quyết định nó vừa là cơ sở cho việc hình thành
nhận thức vừa thúc đẩy nhận thức phát triển là mục đích của nhận thức
và đồng thời là tiêu chuẩn đánh giá kết qủa của nhận thức. Lênin khẳng
định: “quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là tính thứ nhất của nhận
thức” rằng: “ Thực tiễn cao hơn nhận thức bởi vì nó không chỉ có tính
phổ biến mà còn có tính hiện thực trực tiếp”.
* Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận song theo CNDV
biện chứng, lý luận có sự tác động trở lại đối với thực tiễn.
- Lý luận có vai trò trong việc xác định mục tiêu, khuynh hướng cho
hoạt động thực tiễn, vì thế, có thể nói, lý luận là kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn.
- Lý luận có vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn là cho hoạt động

thực tiễn có hiệu quả hợn.
- Lý luận CM có vai trò to lớn trong thực tiễn CM. Lênin viết:
“không có lý luận CM thì không thể có phong trào CM”.


Giữa lý luận và thực tiễn cò sự liên hệ, tác động qua lại tạo điều kiện
cho nhau cùng phát triển. Bởi vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là nguyên lý cao nhất của TH Mác-Lênin.
* Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng cộng sản
Việt Nam:
Trong hoạt động nhận thức: cần phải xây dựng và quán triệt quan
điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu để nhận thức thức về svht nào
cần xuất phát từ thực tiễn dựa trên cơ sở thực tiễn theo nhu cầu của thực
tiễn đi sâu vào thực tiễn và coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, khái
quát những kinh nghiệm của thực tiễn....
Việc nghiên cứu lý luận phải được gắn liền với thực tiễn, học đi đôi
với hành.
Cần kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống lý
luận từ thực tiễn và dùng thực tiễn để kiểm nghiệm, kiểm chứng lý luận
kịp thời bổ sung điều chỉnh, bổ sung lý luận khi nó không phù hợp với
thực tiễn.
Tích cực hoạt động trên phương diện nhận thức lý luận nhằm giải
đáp phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
Cần chống xu hướng quan liêu, giáo điều, xa rời thực tiễn. Đồng
thời cũng cần chống khuynh hướng tuyệt đối hóa thực tiễn, xem nhẹ lý
luận khoa học, rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm.
Quán triệt nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn giúp ta
tránh khỏi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều.



Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận, kinh
nghiệm chính là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm
là căn cứ để chúng ta không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát
triển lý luận. Tri thức lý luận hình thành tổng kết khái quát kinh nghiệm
nhưng lại phải thông qua tư duy trưù tượng của cá nhân nhà lý luận cho
nên nó cũng chứa đựng khả năng không chính xác xa rời thực tiễn. Vì
vậy tri thức lý luận phải được thể nghiệm trong thực tiễn để khẳng định,
bổ sung sửa đổi hoàn thiện. Mặt khác lý luận một khi đã được hình
thành nó không phải thụ động mà có vai trò độc lập tương đối của nó.
Lý luận tác động trở lại đối với thực tiễn hướng dẫn chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, dự báo dự đón tình hình và phương hướng hoạt động thực tiễn
trong tương lai…
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa
bệnh giáo điều chủ nghĩa. Nếu tuyệt đối hoá lý luận đồng thời coi
thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý
luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh
giáo điều.
Thực chất của những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều là vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cho nên trong
công tác lý luận cần từ bỏ lối nghiên cưú một cách kinh viện thuần túy
chỉ biết giải thích khái niệm bằng khái niệm chứng minh lý luận bằng lý
luận tức là hoàn toàn quanh quẩn trong vương quốc tư duy thuần túy,


cần chống đối lối tư duy bắt chước sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế
bất chấp những đặc điểm truyền thống và điều kiện cụ thể của đất
nước,của dân tộc. Trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình
hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắng những vấn đề mới nảy
sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường

tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây
dựng CNXH ở nước ta. Mỗi chủ trương chính sách biện pháp kinh tế xã hội dù là đúng đắn nhất thì trong quá trình thực hiện bên cạnh mặt
tích cực là chủ yếu cũng thường có những hệ quả tiêu cực nhất định,
những vấn đề mới nảy sinh, cần phải dự kiến trước và theo dõi để chủ
động ngăn ngừa, giải quyết. Tránh suy nghĩ giản đơn một chiều đến khi
thấy có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực mới xuất hiện thì hoang
mang hốt hoảng. Không vì gặp khó khăn mà dao động và quay lại những
cách là sai lầm cũ. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng
xuất hiện những vấn đề mới liên quan đến nhận thức về CNXH và con
đường xây dựng CNXH. Do đó tổng kết thực tiễn là phương pháp căn
bản trong hoạt động lý luận, là một phương pháp căn bản để khắc phục
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, để thực hiện sự thống nhất giữa lý
luận và thục tiễn. Lý luận xét cho cùng là từ thực tiễn đúc kết, khái quát
lên, không có thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn thì không có lý luận.
Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn không có nghĩa là xem nhẹ nghiên cứu cơ
bản, lý luận cơ bản càng tiếp cận với những vấn đề cụ thể bao nhiêu
càng phải có những quan điểm chung cơ bản bấy nhiêu.


Vì thế ĐH 7 ĐCS VN khẳng định: “chỉ có tăng cường tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự
giác, chủ động và sáng tạo, bớt được những sai lầm và những bước đi
quanh co, phức tạp”. Hơn lúc nào hết muốn lãnh đạo công cuộc đổi mới
đi đến thắng lợi Đảng ta phải nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực tổ
chức thực tiễn từ việc phát hiện và nắng vững quy luật vận động của đời
sống XH ta, của bản thân Đảng cho đến hiểu biết về thế giới về thời đại.
Tổng kết thực tiễn tổng kết những cái mới, đang hàng ngày hàng giờ
nảy sinh trong đời sống đất nước và cả thế giới tiếp thu những thành quả
trí tuệ của loài người. Chỉ trên cơ sở ấy Đảng mới có thể đưa ra được
đường lối chủ trương đúng đắng tránh được những sai lầm, khuyết điểm

và làm cho đường lối chủ trương được thực hiện thắng lợi.
Câu 11: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng của Đảng cộng sản
Việt Nam.
BÀI LÀM
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
là một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển
của XH loài người. Sự tác động của quy luật này cùng với các quy luật
khác đã đưa XH loài người phát triển từ thấp đến cao trong sự phát triển
của lịch sử nhân loại. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục tiêu, đề ra đường lối và
tìm các biện pháp thực hiện nhằm mang lại hiệu quả cao.


Như chúng ta đã biết, SX vật chất chính là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất
cho đời sống XH, Sản xuất vật chất là nền tảng của toàn bộ đời sống
XH, là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ XH khác và
cũng là cơ sở cho sự tiến bộ XH, quyết định sự vận động, sự vận động
phát triển XH. PTSX thống trị trong mỗi XH như thế nào thì tính chất
của chế độ XH như thế ấy, các giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của
các mối quan hệ giữa các giai cấp cũng như các quan điểm về chính trị,
pháp quyền, đạo đức… tất cả đều do phương thức sản xuất quyết định.
Nền SX xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ, trong đó nổi lên hai mối quan hệ cơ bản là LLSX và QHSX.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nói lên
năng lực thực tế của con người trong quá trình SX tạo ra của cải XH.
LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng của họ và tư liệu SX, trước
hết là công cụ lao động. Trong đó “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động”. Do đặc trưng sinh học – XH riêng

có của mình, con người ngày càng có ai trò to lớn trong nền SX XH.
Đặc biệt trong điều kiện của KH công nghệ hiện nay, con người đã trở
thành nguồn lực cơ bản, nguồn lực đặc biệt của SX.
Cùng với con người lao động, công cụ lao động cũng là một thành
tố cơ bản của LLSX. Theo Anghen, thì công cụ lao động là “ khí quan
của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”.
Bởi vậy, khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ tin học hoá, tự động


hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở nên vô cùng quan trọng.
Ngày nay, KH đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong XH và đời sống. Chính vì vậy, KH và công
nghệ hiện đại hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho LLSX hiện
đại, có vai trò rất quan trọng trong SX, làm cho LLSX của loài người đạt
đến trình độ tự động hoá cao và mang tính quốc tế hoá sâu sắc.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình SX vật chất.
QHSX là một chỉnh hể thống nhất bởi ba quan hệ sau: Các quan hệ sở
hữu đối với TLSX, các quan hệ trong tổ chức và quản lý SX, các quan
hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Trong hệ thống các quan hệ SX
xủa mỗi nền KT-XH xác định, quan hệ sở hữu về TLSX luôn luôn có vai
trò quyết định đối với tất cả các quan hệ XH khác. Quan hệ sở hữu là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ
XH. Còn các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý SX là các quan hệ quyết
định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi
nền SX cụ thể. Các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là
nhân tố có ý nghĩa to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền KT-XH.
Nó có thể thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu của SX và cũng có thễ có khả năng
kìm hãm SX, kìm hãm sự phát triển của XH.
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức SX. Chúng quy định,
chế ước, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển, trong đó LLSX

luôn giữ vai trò quyết định, QHSX phải phù hợp với trình độ phát
trei63n của LLSX.


Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
thể hiện trước hết ở vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX, LLSX
là nội dung, QHSX là hình thức. Nội dung quyết định hình thức. LLSX
ở trình độ nào, tính chất nào thì nó yêu cầu cao hơn hoặc thấp hơn.
Trình độ của LLSX nói lên khả năng của con người thông qua việc
sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên
nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình, thể hiện ở chổ:
trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động XH, trình độ
ứng dụng KH vào SX, kinh nghiệm, kỷ năng lao động của con người và
trình độ phân công lao động. Còn tính chất của LLSX là khi nền SX
được thực hiện với những công cụ ở trình độ thủ công, LLSX chủ yếu là
mang tính chất cá nhân. Còn khi SX đạt tới trình độ cơ khí hoá, LLSX
đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp tác XH rộng rãi trên cơ sở
chuyên môn hoá thì tính chất tự cấp, tự túc, cô lập của nền SX nhỏ lúc
đó phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
Vì vậy, mọi sự hình thành và tồn tại của QHSX phải dựa vào chính
cái LLSX hiện có, tính chất loại hình của QHSX như thế nào phải do
chính LLSX đó quyết định chứ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người. Mác khẳng định rằng: “Trong sự sản xuất XH ra đời của
mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tùy thuộc
vào ý muốn của họ, đó là những QHSX, những QHSX này phù hợp với
trình độ phát triển nhất định của các LLSX vật chất của họ”.


LLSX là yếu tố biến đổi trước năng động hơn, nhanh hơn, liên tục,
QHSX cũng biến đổi sau, chậm hơn, ổn định tương đối hơn, gián đoạn

trong liên tục và do sự biến đổi trước của LLSX chứ tự nó (QHSX )
không thể biến đổi trước, vượt lên trên LLSX nếu không có sự đòi hỏi
của LLSX. Ph.Ăngghen khẳng định rằng: “Xét đến cùng thì mọi sự thay
đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ chiếm hữu khác, từ chế độ XH
này sang chế độ XH khác đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những
LLSX mới.”
Tóm lại, mỗi bước phát triển của LLSX luôn luôn đặt ra yêu cầu
QHSX cũng phải biến đổi cho phù hợp, sự phù hợp của QHSX với trình
độ phát triển của LLSX là một trạng thái mà trong đó QHSX là “ hình
thức phát triển” tất yếu của LLSX. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu
tố cấu thành QHSX “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển. Ngày nay
trong điều kiện của cuộc cách mạng KH và công nghệ hiện đại, khi
LLSX của loài người đã đạt đến trình độ tự động hoá và mang tính chất
quốc tế hoá cao, sâu sắc thì nó càng quyết định xu hướng quốc tế hoá
của QHSX, của các quan hệ KT giữa các nước, các khu vực, các tập
đoàn KT lớn của thế giới cũng phải vận động, phát trei63n phù hợp với
trình độ, tính chất mới của LLSX, hình thành một xu thế tất yếu về KT
của thời đại: “Toàn cầu hoá KT”. Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết
vận dụng sáng tạo quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và
trình độ của LLSX, phải chống chủ nghĩa chủ quan trong công cuộc xây
dựng và phát triển KT, phải biết điều chỉnh, đổi mới QHSX theo yêu cầu


phát trei63n của LLSX. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò
quyết định của LLSX đối với QHSX, song cũng chỉ rõ rằng QHSX bao
giờ cũng thể hiện tính độc lập tuơng đối với LLSX, quy định mục đích
của sx, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ, từ đó hình
thành một hệ thống những yếu ố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
trei63n của LLSX. Sự tác động ấy diễn ra theo hai khả năng.
Trường hợp phù hợp là khi QHSX hình thành và ồn tại góp phần

làm cho các yếu tố của bản thân LLSX kết hợp được với nhau một cách
tốt hơn dẫn tới giải phóng được sức sản xuất XH, những tiềm năng sức
mạnh của tư liệu sản xuất, lòng nhiệt tình hăng say sáng tạo của người
lao động khá hơn, tăng trưởng KT, đời sống người lao động được cải
thiện, nảy sinh nhiều nhu cầu mới phong phú đa dạng hơn. Trường hợp
không phù hợp: biểu hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất là khi QHSX đã lạc
hậu rồi so với trình độ mới của LLSX lúc đó nó trở thành xiềng xích của
LLSX kìm hãm sự phát triển của LLSX trên tất cả các mặt của nó (quy
mô, tốc độ, nhịp độ, khối lượng của LLSX) nhưng không có nghĩa là
làm cho LLSX đứng yến tại chỗ mà chỉ làm giảm khả năng phát triển
của LLSX mà thôi. Thứ hai, khi QHSX vừa thiếu đồng bộ vừa có yếu tố
“vượt trước” so với thực trạng của LLSX do chủ thể áp đặt một cách chủ
quan. Đại hội VI ghi rõ: “kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: LLSX bị kìm hãm
không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà cả khi QHSX phát triển
không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của
LLSX”.


×