Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nội dung đảng lãnh đạo nhà nước trong hệ thống chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.8 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Từ năm 1930 đến nay, cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã vượt qua những khó khăn, thử thách và đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chấm dứt chế độ
phong kiến,thực dân lập nên Nhà nước dân chủ cộng hoà, mở đầu kỷ nguyên
mới của dân tộc; kỷ nguyên độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam bắt
nguồn từ nhiều nhân tố trong đó nhân tố quyết định nhất là sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam- Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo
và rèn luyện.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tròn 20 năm. Kể
từ khi Đảng ta ra đời và hoạt động đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, đặc biệt kể từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay,
tư duy lý luận của Đảng ta đã được đổi mới từng bước và có những tiến bộ
đáng kể. Những quan điểm cơ bản của Đảng chỉ đạo sự nghiệp đổi mới thể
hiện lập trường kiên định và sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và tưu tưởng Hồ Chí Minh.
Những thành tựu đã được tổng kết trong thực tiễn là những luận cứ khoa
học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, góp phần vào những thành công rất to lớn của Đảng và nhân dân ta
trong công cuộc đổi mới, tạo thế và lực mới cho đất nước. Điều đó đã được
khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo Nhà nước, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Vì vậy Đảng phải lãnh
đạo Nhà nước như thế nào để trên cơ sở hiến pháp và pháp luật của Nhà nước
và toàn xã hội mà vẫn đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân.
Làm rõ những nội dung cơ sở lý luận, thực trạng cũng như phương
hướng, biện pháp để xây dựng Đảng lãnh đạo Nhà nước ở nước ta hiện nay là

1



vấn đề lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn dạc biệt quan trọng, quyết định
thành công của công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới Đảng nói riêng.
Xuất phát từ tầm quan trọng của nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước, là
một sinh viên sau khi học xong môn học “ Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị”.,
bản thân em đã tiếp thu được những kiến thức cơ bản. Vì vậy em mạnh dạn
chọn đề tài “Nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước.”, góp phần của mình làm
sáng tỏ một phần nào lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tiểu luận gồm ba phần:
Phần thứ nhất: Mở đầu.
Phần thứ hai: Nội dung đề tài gồm hai mục:
Mục1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước.
Mục 2: Nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước.
Mục 3: Những nhiệm vụ và giải pháp để nâng cao nội dung lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.
Phần thứ ba: Kết luận.

2


NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước.
1. Đảng lãnh đạo là gì?
Có nhiều cách lý giải khác nhau nhưng khái quát có thể hiểu như sau:
Đảng lãnh đạo là vì Đảng là một tổ chức chính trị của một giai cấp, còn
Nhà nước là cơ quan thực hiện chức năng công quyền. Cho nên, khái niệm
đảng lãnh đạo là để phân biệt với chức năng của §ảng là lãnh đạo nhà nước,
còn chức năng của nhà nước là quản lý xã hội. Thực ra nói §ảng lãnh đạo
không có nghĩa là đảng không quản lý và nhà nước quản lý không có nghĩa là

nhà nước không lãnh đạo.Nhưng sự lãnh đạo của đảng khác với nhà nước
lãnh đạo, sự quản lý của nhà nước cũng khác với đảng quản lý(xét cả nội
dung và phạm vi). Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, bằng công tác cán
bộ…Trái lại nhà nước là công cụ của đảng cầm quyền, thực hiện chức năng
lãnh đạo trực tiếp xã hội, quản lý trực tiếp xã hội, quản lý trực tiếp xã hội trên
cơ sở lãnh đạo của đảng cầm quyền. khi nói tới đảng lãnh đạo nhà nước, lãnh
đạo chính quyền là nói tới quan hệ mật thiết giữa đảng cầm quyền với nhà
nước, bộ máy công quyền.
2. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ và hoàn thiện chính quyền
nhân dân.
Chính quyền Cách mạng đã phôi thai trong Xô Viết Nghệ Tĩnh vào
những năm 1930 – 1931 nhưng nó không thể hiện được khả năng tự bảo vệ do
các điều kiện chủ quan và khách quan cho việc giành chính quyền chưa chín
muồi. Cách mạng tháng Tám thắng lợi làm mốc lịch sử quan trọng đánh dấu
chính quyền nhân dân được thành lập. Trải qua các thời kỳ khác nhau chính
quyền nhân dân ngày càng được củng cố và hoàn thiện.
a. Cách mạng tháng Tám với sự ra đời của Nhà nước trong giai đoạn
1945 – 1954.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ chế độ thực dân phong kiến,
thiết lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân cùng lúc đó là sự hiện diện và chống
phá của các thế lực chống phá trong và ngoài nước. Trước tình hình đó, Đảng
3


ta xác định bảo vệ, củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng là nhiệm vụ
hàng đầu, là cơ sở cho công cuộc “kháng chiến” và “kiến quốc”.
Song song với việc xây dựng chính quyền Trung ương, Đảng ta rất chú
trọng xây dựng, củng cố chính quyền các cấp, từ xây dựng bộ máy đến vận
hành bộ máy Nhà nước. Chính phủ tổ chức thành công cuộc bầu cử hội đòng
nhân dân cấp xã và cấp tỉnh (tháng 4.1946); từng bước chấn chỉnh các hoạt

động của chính quyền địa phương; không ngừng cải tiến cách làm việc của
các uỷ ban địa phương; kiên quyết trừng trị các phần tử trục lợi, chống phá
cách mạng…
Những chính sách nêu trên đã tạo nên sức mạnh to lớn đưa nhà nước
cách mạng Việt Nam non trẻ vượt qua những thời điểm khó khăn nhất, khơi
dậy được tiềm năng cách mạng của nhân dân, giữ vững thành quả cách mạng
tháng Tám.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
chứng minh sự trưởng thành, lớn mạnh và vai trò tổ chức cuộc chiến tranh
nhân dân chống ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước của chính quyền
cách mạng.
b. Củng cố nhà nước của chính quyền nhân dân trên miền Bắc, thực
hiện nhiệm vụ chuyên chính vô sản (1954 – 1975)
Thời kỳ này Đảng và Nhà nước ta đã tạo dựng được một xã hội tốt đẹp.
Con người sống với nhau hoà thuận, quan hệ với nhau bình đẳng, thân ái,
không có sự rối loạn về chính trị và xã hội. Một xã hội sống trong trật tự và có
kỷ cương, đạo lý; một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân.
c. Xây dựng củng cố và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa trên
cả nước (1975 – 1998)
Nghị quyết Đại hội Đảng biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982)
đã khẳng định củng cố Nhà nước là nhiệm vụ hết sức trọng yếu của Đảng;
phải ohát huy vai trò, chức năng của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước từ
cơ quan dân cử đến Hội đồng bộ trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp. Tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu
lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động.
4


Mặc dù vậy, thời kỳ này Nhà nước ta cũng mắc phải khuyết điểm là
buông lỏng quản lý, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực. Một bộ phận cán bộ,

viên chức Nhà nước thoái hoá, biến chất, ngày càng xa rời quần chúng, xa rời
thực tế. Vì vậy Đảng đã tiến hành đổi mới từng phần và Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khẳng định yêu cầu
của việc mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới cơ chế quản lý, phá
bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đổi mới lề lối và phong cách làm việc,
thể chế hoá đường lối thành pháp luật và chính sách cụ thể, xây dựng một Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Qua tiến trình đổi mới, Đảng ta đã
làm rõ thêm những quan điểm xây dựng Nhà nước:
- Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động cảu
Nhà nước.
- Tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ nhân dân trong hơn 50 năm qua
đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học vô cùng quý báu.
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống tổ chức Nhà nước.

5



Lê nin đã viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân , là giáo dục
đội tiền phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính
quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ
chức một chế độ mới…”. Kinh nghiệm lịch sử phong trào cách mạnh xã hội
chủ nghĩa cũng đã khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước chỉ
được bảo đảm khi giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà
nước.
Khi đã trở thành Đảng cầm quyền, thì lãnh đạo chính quyền là một
nhiệm vụ trọng yếu nhất trong chức năng lãnh đạo của Đảng, thông qua chính
quyêndf để đưa đường lối vào cuộc sống. Từ khi giành được chính quyền đến
nay, Đảng ta luôn nắm trọn vai trò lãnh đạo Nhà nước. Trong điều kiện phức
tạp của thời kỳ 1945-1946, lúc mà thù trong giặc ngoài điên cuồng, chống phá
hòng lật đổ Nhà nước cách mạng non trẻ, “Đảng phải dùng mọi cách để sống
còn, hoạt động vàg phát triển, đ lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và để có
thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố mặt
trận dân tộc thống nhất”.
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội là điều
kiện tiên quyết để giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, bảo
đảm Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền với đổi mới phương thức lãnh đạo,
cải tiến lề lối làm việc.
Đảng ta với bản lĩnh chính trị vững vàng đã khẳng định dứt khoát: “Đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước nói riêng và cả hệ thống
chính tri nói chung là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệh lực
quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng
cường hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống
chính trị hoạt động năng động có hiệu quả hơn. Hiệu lực quản lý của chính
quyền là thước đo năng lực và trình độ lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là

điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa của nhân dân ta”.

6


Với tư cách là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội, trứơc hết Đảng vạch
ra những phương hướng lớn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, được xây dựng
thành cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, những quan điểm cơ
bản của chính sách đối nội, đối ngoại. Đường lối của Đảng phải là sản phẩm
của toàn bộ hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cách mạng của
Đảng, là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tộc. Trên cơ sở đường lối,
chính sách chủ yếu của Đảng, Nhà nước có nhiệm vụ thể chế hoá thành Hiến
pháp, pháp luật và chính sách cụ thể, thực hiện hoá đường lối của Đảng trong
đời sống hằng ngày. Để đường lối sát với thực tiễn cuộc sống và yêu cầu quản
lý của Nhà nước, đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực ra Nghị
quyết, bảo đảm đường lối của Đảng phản ánh được tâm tư , nghuyện vọng của
quần chúng, đáp ứng nhu cầu quản lý và điều hành đất nước trong từng thời
kỳ lịch sử.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, kiểm tra hoạt đông của Nhà nước có
vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo chính trị của
Đảng. Bởi lẽ, gắn liền với việc ra Nghị quyết, lãnh đạo Nhà nước thực hiện
thì phải kiểm tra, đánh giá xem hiệu lực thực tế của Nghị quyết trong quá
trình vận hành. Không kiểm tra hoạt động của Nhà nước thì coi như không
lãnh đạo. Thông qua kiểm tra của Đảng tổng kết thực tiễn, kịp thời bổ xung,
hoàn chỉnh đường lối, chính sách; đồng thời phát hiện những tổ chức, những
đơn vị và cá nhân vi phạm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xử lý
nghiêm khắc, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, uốn nắn những sai lệch trong
quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện; đồng thời phát hiện những điển hình,
những nhân tố mới từ đó nhân rộng ra, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý

của Nhà nước.
Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc là Đảng lãnh đạo tuyệt đối về
tổ chức bộ máy và công tác cán bộ. Đảng xây dựng chiến lược cán bộ, qui
hoạch công tác cán bộ, đề bạt những đảng viên có uy tín, vào bộ máy Nhà
nước. Quyền lực lãnh đạo của Đảng còn dựa vào uy tín đảng viên, do đó, khi
bố trí cán bộ vào bộ máy Nhà nước phải đảm bảo đứng tiêu chuẩn và sở
trường; có đủ cả tài và đức; xây dựng qui chế tuyển chọn cán bộ, tuyển chọn
7


nhân tài; làm tốt công tác từ qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, việc đề bạt
phải được tiến hành dân chủ, không gò ép.
Tóm lại, cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước sao cho có hiệu quả và phù hợp để vừa phát huy hiệu lực quản lý của
Nhà nước, vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
II. Nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước:
1. Tổ chức nhà nước
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đông thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam
(điều lệ Đảng), Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược,
các định hướng về chủ chương, chính sách và chủ trương công tác; bằng
tuyên truyền, vận động, thuyết phục…Đảng không làm thay công việc của các
tổ chức chính trị xã hội, trong đó có Nhà nước.
Hệ thống tổ chức Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức
hành chính của Nhà nước. Đây là hệ thống tổ chức cơ bản, đảm bảo sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói
riêng.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: là nhà nước của dân, do

dân và vì dân. Đặc điểm của Nhà nước ta là tổ chức thực hiện, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, bao gồm: Quốc hội ( cơ quan lập
pháp), Chính phủ (cơ quan hành pháp, là cơ quan hành chính Nhà nước cao
nhất), Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân (cơ quan hành pháp) .Nhà
nước có lực lượng vũ trang (quân đội, công an, biên phòng) để bảo vệ đất
nước và chế độ XHCN. Nhà nước ta có đủ ưuyền lực và đủ khả năng định ra
luật pháp, tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật; hệ thống
tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập
pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước.
Nhà nước có mối liên hệ mật thiết và thường xuyên, chặt chẽ với nhân
dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
8


dân… Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước theo nguyên tắc
tập trung, dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng
thời bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương.
Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với sự phân công giành mạch ba quyền đó.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua tổ chức của Đảng được lập trong cơ
quan Nhà nước (ban cán sự Đảng, Đảng đoàn); thông qua đội ngũ cấp uỷ viên
và đảng viên công tác trong các cơ quan Nhà nước. Lãnh đạo bằng nghị quyết
của Đảng, bằng công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra… Đảng lãnh đạo
lực lượng vũ trang truyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Trong những năm qua tổ chức, bộ máy của các cơ quan Đảng, Nhà nước
đã từng bước được điều chỉnh, bổ sung theo yêu cầu chuỷên từ cơ chế quản lý
kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang thực hiện chính sách phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, đã
sắp xếp một bước tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn
hơn, tập trung hơn, có hiệu lực hơn.

Đối với Quốc hội: Quốc hội do dân bầu, thực hiện nhiệm kỳ đại biểu
năm năm Quốc hội lập ra các uỷ ban, các Ban có bộ phận chuyên trách ở
Trung ương,có các đoàn đại biểu, có bộ phận chuyên trách địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã có sự đổi mới cả về nội dung
và phương thức hoạt động, tăng cường quan hệ phối hợp giữa Quốc hội, uỷ
ban thường vụ Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, mặt trận tổ quốc Việt Nam...Tất cả nhằm
đảm bảo vai trò lãnh đạo của đảng thông qua Đảng đoàn Quốc hội, các đại
biểu Quốc hội là những đảng viên. Lòng tin, sự tín nhiệm của Quốc hội ngày
càng được nâng lên.
Việc ban hành và xây dựng các bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hoá
đường lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hoá các qui định của Hiến pháp được
đảy mạnh theo hướng vừa nâng cao chất lượng nội dung vừa đổi mới , cải tiến

9


đổi mới qui trình xây dựng luật đã góp phần quan trọng từng bước xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng , Quốc hội đã từng bước nâng cao chất lượng
thảo luận, ra nghị quyết, về nhiệm vụ kinh tế- xã hội 5 năm và hằng năm, về
ngân sách nhà nước, điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, bầu cử và phê chuẩn một số chức vụ cấp cao của Nhà
nước, Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đối với Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước.
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá X đã xác định cơ cấu
tổ chức bộ máy của Chính phủ cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới, theo
hướng tinh gọn hơn, tổng hợp hơn, tiếp tục hình thành bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực, giảm đầu mối các bộ ngành, cơ quan ngang bộ, khắc phục tình
trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ ngành;

không giữ các cơ quan trực thuộc Chính phủ có chức năng quản lý Nhà nước,
chỉ duy trì một số cơ quan trực thuộc Chính phủ là đơn vị sự nghiệp. Theo
hướng này các bộ tập trung chức năng chủ yếu là xây dựng thể chế chính
sách, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển đối với các lĩnh vực được
phân công, tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành,
thực hiện phân cấp manhj hơn cho các cấp dưới.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương,
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng chính phủ đã chỉ đạo kiện toàn tổ chức
bộ máy nhà nước. Đã quyết định số bộ trực thuộc Chính phủ nhiệm kỳ 12 là
22 bộ và cơ quan ngang bộ (18 bộ, 04 cơ quan ngang bộ).
Chính phủ và các cơ quan hành chính Nhà nước đã có sự đổi mới chức
năng, cơ cấu tổ chức, bộ máy gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế, làm rõ hơn chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các Bộ; phân
biệt rõ hơn quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ tiến hành cải cách thể chế, tập trung
cải cách thủ tục hành chính nhất là trong lĩnh vực liên quan đến sản xuất,
kinh doanh và đời sống nhân dân. Chính phủ đã triển khai thực hiện Luật
10


khiếu nại, tố cáo, ban hành Nghị định về qui chế thực hiện dân chủ ở cơ sở để
phát huy quyền làm chủ của nhân dân và tăng cường mối liên hệ giữa chính
quyền với nhân dân.
Trên cơ sở đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đã
từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn về tổ chức, bộ máy, biên chế cơ quan
Đảng, Nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, giảm đầu mối trung gian,
khắc phục một bước sự chồng chéo về cơ cấu tổ chức, tăng cường sự chủ
động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các địa phương, đơn vị trên cơ sở
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đảm bảo
cho hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý và phát triển kinh tế xã hội.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức lãnh đạo, mối quan hệ,
của cơ quan Đảng, Nhà nước được qui định cụ thể, điều chỉnh bổ xung hợp
lý, phân định rõ ràng theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”, phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý
sản xuất kinh doanh, tách dần hoạt động hành chính với hoạt động của các
đơn vị kinh tế, sự nghiệp và dịch vụ công.
Các Nghị định của Chính phủ ban hành từng bước cụ thể hoá Cương
lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, cụ thể hoá các qui định của Hiến pháp,
làm cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị,
tăng cường pháp chế, bảo đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống pháp luật qui định về tổ chức và
hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát, tổ chức nhân dân
và uỷ ban nhân dân cũng đã từng bước được cụ thể hoá các quy định của Hiến
pháp, làm cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức, tăng cường pháp chế, bảo
đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
2. Những khuyết điểm, tồn tại chủ yếu
Cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian.
- Các cơ quan Đảng, tuy chức năng nhiệm vụ khác nhau, nhưng lại có
phần dập khuôn về mô hình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động ; các
địa phương có quy mô và đặc điểm khác nhau nhưng đầu mối tổ chức lại hình
11


thành như nhau. Hoạt động thiếu thông suốt, bị cách bức, gây phiền hà, chậm
chễ công việc, phát sinh nhiều tiêu cực.
- Tổ chức, bộ máy Nhà nước tuy được sắp xếp, kiện toàn một bước
nhưng cơ cấu bên trong của các cơ quan nhà nước vẫn chưa thật tinh gọn.
- Tổ chức, bộ máy hành chính Nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động thiếu
nhịp nhàng. Bộ máy Chính phủ đã giảm số bộ nhưng nhiều bộ chưa thực hiện

đúng chức năng quản lý Nhà nước trong phạm vi toàn xã hội, một số uỷ ban,
ban chỉ đạo, hội đồng có bộ máy riêng ở Trung ương và địa phương, không
phù hợp với phương thức hoạt động và phối hợp liên ngành. Cơ cấu bên trong
của các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương chưa được sắp xếp
hựp lý và có xu hướng tăng lên. Tổ chức, bộ máy của chính quyền tỉnh, thành
phố dập khuôn, chưa phân biệt thật hợp lý các địa phương có quy mô, tính
chất khác nhau; chưa tính toán hết đặc điểm khác nhau trong quản lý hành
chính ở đô thị và nông thôn. Cấp huyện chưa được xác định rõ về vị trí, trách
nhiệm và thẩm quyền trong hệ thống hành chính. Tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã chưa thực sự gắn với cộng đồng dân cư.
- Hệ thống toà án chưa được tổ chức thật hợp lý ở từng cấp, dẫn đến tình
trạng có những vụ xét xử kéo dài, qua nhiều cấp mà không giải quyết dứt
điểm, dồn quá nhiều việc cho Toà án tối cao xét xử phúc thẩm, làm cho toà
này không đủ điều kiện tâp trung vào giám đốc thẩm và tổng kết thực tiễn để
hướng dẫn thi hành pháp luật một cách thống nhất. Toà án cấp huyện được
tăng thẩm quyền nhưng số lượng thẩm phán còn rất thiếu, trình độ chuyện
môn, nghiệp vụ còn bất cập, có nơi xét xử không hết án, cơ sở vật chất phục
vụ cho xét xử và thi hành án còn nghèo nàn… Trong nội bộ mỗi cấp toà án,
cơ cấu tổ chức cũng chưa thật hợp lý.
III. Những nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước.
1. Những nhiệm vụ nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước
Trên tinh thần: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, đường lối,
quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn,
12


có ý nghĩa chính trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo
và tinh thần trách nhiệmcủa Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội theo

pháp luật. Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức
trong hệ thống chính trị.
Một là, Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, có hiệu quả. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, có phân
công, phân cấp hợp lý, tôn trọng, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan và người đứng đầu cơ quan. Đảng kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo và
kiểm tra bộ máy Nhà nước thông qua tổ chức Đảng và cá nhân đảng viên hoạt
động trong cơ quan Nhà nước.
Hai là, đối với Quốc hội, xây dựng cơ chế, quy chế cụ thể giải quyết tốt
hơn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo về quan điểm, phương hướng, chủ
trương , nguyên tắc, giải pháp lớn của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư(đối với các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại trọng đại của đất nước) với thẩm quyền quyết định của Quốc hội trên
những vấn đề này theo Hiến pháp và Luật tổ chức , hoạt động của Quốc hội.
Ba là, đối với Chính phủ, xác định rõ hơn thẩm quyền quyết định của
Chính phủ. Xác định rõ những loại việc ở tầm Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp quyết định; những loại việc Bộ Chính trị,
Ban Bí thư cho ý kiến định hướng; những loai việc Chính phủ chủ động quyết
định theo thẩm quyền.
Bốn là, đối với các cơ quan tư pháp, Đảng lãnh đạo công tác tư pháp,
lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tưu pháp, tôn trọng nguyên tắc
“Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lạp và chỉ tuân theo pháp luật”. Nâng
cao vai trò, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, ban cán sự đảngcủa các cơ quan
tư pháp, theo qui định của Đảng. Đề cao trách nhiệm của cơ quan điều tra,
viện kiểm sát nhâmn dân, toà án nhân dân.
Năm là, đối với chính quyền địa phương, định rõ những loại việc Ban
chấp hành đảng bộ, ban thường vụ cho ý kiến trước khi hội đồng nhân dân, uỷ
ban nhân dân quyết định thực hiện ; những loại việc do hội đồng nhân dân, uỷ
13



ban nhân dân quyết định theo thẩm quyền. Sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng là
định hướng và bảo đảm để hội đồng nhân dân quyết định các nhiệm vụ kinh
tế- xã hội ở địa phương, tạo điều kiện cho uỷ ban nhân dân, người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước địa phương quản lý, điều hành và tổ chức thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra.
2. Những giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước
* Đối với Quốc hội:
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu qủa hoạt động của Quốc hội
nhằm thực hiện tốt chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước; tăng cường hợp lý số đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách. Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội theo hướng
chuyên sâu hơn. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu
Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng luật, tiếp tục giảm việc ban hành pháp
lệnh. Hợp nhất văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội và văn phong hội đồng
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập
pháp, đổi mới quy trình xây dựng luật, nâng cao chất lượng luật, pháp lệnh
mới ban hành. Bảo đảm để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước, làm tốt chức năng quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách Nhà nước… hoàn
thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội chuyên trách,
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan của Quốc hội.
* Đối với Chính phủ:
Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ theo hướng
tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu qủa quản lý của cơ quan hành chính Nhà
nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý Nhà nước trong giại đoạn mới của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc

tế. Các bộ và cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đa
ngành, đa lĩnh vực; vừa bảo đảm sự ổn định cần thiết, vừa đổi mới để thực

14


hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước, phù hợp với thể chế chính trị nước ta,
có tính đến việc bảo đảm thuận lợi trong giao dịch quốc tế.
Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính và thực hiện tôt cơ chế “
một cửa”, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các cơ quan hành
chính Nhà nước các cấp.
Thực hiện triệt để việc tách quản lý hành chính Nhà nước với qủan lý
sản xuất, kinh doanh và quản lý hoạt động của tổ chức sự nghiệp, dịch vụ
công
* Đối với Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân
Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu qủa hoạt động, của Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp trong giai đoạn mới; bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật không bỏ lọt tội phạm và người có tội, hạn
chế tối đa các trường hợp oan sai.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng công tác xét xử của
Toà án các cấp, bảo đảm tính chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu công tác xét xử
hiện nay. Đổi mới tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị kiểm sát theo hướng đông
bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động để thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà.
Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban Cán sự đảng Chính phủ, Toà án
nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Đảng uỷ công an Trung
ương tiếp tục củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Toàn án,
Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra các cấp.


15


KẾT LUẬN
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Nhà nước cách mạng trong bối cảnh
hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cả hệ thống chính trị nói chung và
Nhà nước nói riêng càng trở nên quan trọng. Vì vậy, Đảng đòi hỏi ngày càng
phải nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của cơ quan dân cử, từ Quốc hội đến
Hội đồng nhân dân các cấp, đối với Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp.
Cần tạo lập các kênh tiếp thu ý kiến của nhân dân trong xây dựng các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội… Trên cơ sở đó phát hiện những gì chưa đúng,
chưa hợp lý để Nhà nước sửa đổi kịp thời phát hiện những sai trái của các cơ
quan, viên chức Nhà nước. Đặc biệt ở cơ sở phải thực hiện đúng phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” dựa vào dân để củng cố
chính quyền cách mạng.
Một Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân trước hết phải đảm
bảo vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, vận hành tuân thủ nguyên tắc tổ chức
Nhà nước theo học thuyết Mác – Lê Nin. Đảng ta đã khẳng định, Nhà nước ta
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vừa tập trung, thống nhất chỉ
đạo, quản lý Nhà nước ở cấp trung ương vừa tạo điều kiện cho chính quyền
các cấp địa phương phát huy khả năng chủ động sáng tạo.
Trong tình hình hiện nay, khi các thế lực chống chủ nghĩa xã hội thường
xuyên chống phá, thực hiện “diễn biến hoà bình” càng phải bảo đảm sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp và về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang
cách mạng.
Xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, chống nguy cơ quan
liêu hoá là vấn đề có tính thường xuyên và chuyên môn hoá của nhân dân ta.

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đảm bảo cho Nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; chống nguy cơ
16


quan liêu hoá, chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; nâng cao hiệu lực
quản lý của Nhà nước…Là cách làm tốt nhất để nâng cao uy tín và vai trò
lãnh đạo Đảng trong mọi thời điểm cách mạng./.
-----HẾT-----

17


Mục lục
Mở đầu............................................................................................................1
Nội dung..........................................................................................................3

I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nớc............3
1. Đảng lãnh đạo là gì.............................................................................3
2. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ và hoàn thiện chính
quyền nhân dân................................................................................3
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống tổ chức Nhà nớc...............5
II. Nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nớc................................................................7
1. Tổ chức Nhà nớc.................................................................................7
2. Những khuyết điểm, tồn tại chủ yếu..............................................10
III. Những nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nớc......................................................................................11
1. Những nhiệm vụ nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nớc..............................................................................................11

2. Những giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nớc..............................................................................................12
Kết luận........................................................................................................14

18


Danh mục tài liệu tham khảo

1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tập bài giảng Chuyên ngành xây dựng Đảng
3. Tạp chí cộng sản

4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG, HN 2006

19



×