Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tác phẩm kinh điển vấn đề tự phê bình và phê bình trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.19 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………...........................
B. NỘI DUNG……………………………………………. ……………..
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ, HOÀN CẢNH RA
ĐỜI, MỤC ĐÍCH, KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI
LÀM VIỆC” ………………………………………………………
1.1 Tác giả………………………………………………………………….
1.2 Hoàn cảnh ra đời tác phẩm……………………………………………..
1.3 Mục đích của tác phẩm………………………………………………...
1.4 Kết cấu của tác phẩm………………………………………………….

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG
ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”.
2.1 Khái niệm Tự phê bình và phê bình trong Đảng………………………
2.2 Tính tất yếu của tự phê bình và phê bình trong Đảng…………………..
2.3 Nội dung, tự phê bình và phê bình trong Đảng…………………………
2.3.1 Mục đích, đối tượng của tự phê bình và phê bình…………………..
2.3.2 Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình……………………..
2.3.3 Phê bình kịp thời, thường xuyên và liên tục………………………….
2.3.4 Ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong Đảng…………………

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ
PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI


LÀM VIỆC” CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG
ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY……………………
1.

Quan điểm của Đảng ta về vận dụng nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay………………………



2.

Thực trạng thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng trong công tác Xây
dựng Đảng hiện nay……………………………………………………….

3.

Ưu điểm…………………………………………………………………

4.

Hạn chế………………………………………………………………….

5.

Nguyên nhân……………………………………………………………

6.

Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình
trong Đảng trong giai đoạn hiện nay………………………

C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
“ Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người

có tự phê bình mới tiến bộ. Đảng cũng thế”
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình, coi
đó là quy luật tồn tại, phát triển Đảng, là vũ khí tư tưởng sắc bén để xây dựng
Đảng, làm cho tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo, Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến
chống ngoại xâm thắng lợi, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những thành quả
đạt được, Đảng ta cũng có những sai lầm, khuyết điểm. Đảng ta không che giấu
khuyết điểm, sai lầm đó. Đảng công khai thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm
ấy, đánh giá đúng những gì đã làm được và chưa làm được và đề ra những biện
pháp sửa chữa, khắc phục nhằm không ngừng xây dựng và chỉnh đốn Đảng, vun
đắp niềm tin của cán bộ, đảng viên và của nhân dân. Một trong những biện pháp có
tác dụng tích cực phát hiện những sai lầm, khuyết điểm và sửa chữa kịp thời trong
Đảng là thực hiện dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, dựa vào dân để xây
dựng và chỉnh đốn Đảng.
Tuy nhiên, hiện nay, trong thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về
nhận thức và cách tiến hành, nên việc thực hiện tự phê bình và phê bình còn nhiều
yếu kém,chưa phát huy được hết ý nghĩa to lớn của nó trong xây dựng Đảng. Trước
thực tế đó, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những
sai lầm, khuyết điểm mà cán bộ, đảng viên đang mắc phải,nguyên nhân của nó và
chỉ đạo việc thực hiện tự phê bình và phê bình , sửa chữa thường xuyên, nề nếp và


có hiệu quả trong Đảng. Hơn một nửa thế kỉ trôi qua, nhưng những lời căn dặn ấy
của Người vẫn còn vẹn nguyên giá trị,mang tính thời sự và mang tính thực tiễn sâu
sắc cho công tác của các cán bộ, đảng viên nói chung và bản thân tôi trong các
công tác, phong trào nói riêng.
Tâm huyết với vấn đề trên nên tôi đã chọn đề tài: “Vấn đề tự phê bình và phê
bình trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên

cứu của mình. Nhằm mục đích tiếp cận nghiên cứu khoa học, rèn luyện khả năng
vận dụng những kiến thức vào trong thực tiễn, bằng phương pháp nghiên cứu logic
học, phương pháp lịch sử, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp tổngphân- hợp, tôi đã đi sâu giải quyết vấn đề với những nội dung chính như sau:
Chương 1: Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, mục đích, kết cấu
của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
Chương 2: Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” của Hồ Chí Minh.
Chương 3: Vận dụng nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng giai
đoạn hiện nay.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ, HOÀN CẢNH RA ĐỜI,
MỤC ĐÍCH, KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM
VIỆC”.


Tác giả.
Hồ Chí Minh – một vĩ nhân đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của dân

tộc và nhân loại. Sự vĩ đại và cao quý của Người tỏ rõ trên nhiều phương diện từ
cuộc đời, sự nghiệp đến tư tưởng, đạo đức, phong cách. Tất cả được thể hiện trong
sự thống nhất đến hoàn hảo của Hồ Chí Minh- nhà tư tưởng, nhà văn hóa, nhà đạo
đức, nhà nhân văn, nhà chính trị. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Ở Hồ Chí
Minh, nhà chính trị (bao gồm cả nhà chiến lược, nhà tổ chức, nhà văn hóa) hình
thành một diện mạo, một nhân cách riêng của Hồ Chí Minh”.
Ở Người:
“Là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời
mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam”, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam, từ thân phận nô lệ trở thành dân
tộc tự do, độc lập.
“Là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản
sắc của mình”, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người đầu tiên lãnh đạo nhân
dân ta thi hành Bản án chế độ thực dân ở nước ta mà còn cùng nhân dân các dân
tộc thuộc địa thực hiện bản án đó, xóa đi sự áp bức, nô dịch của chủ nghĩa thực dân
trên hành tinh của chúng ta.


“Là biểu tượng cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam thực hiện mục tiêu hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, đồng thời Người cũng góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, tiến bộ.
“Là vị anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”,
cuộc đời, sự nghiệp và di sản của Người không chỉ có giá trị đối với dân tộc Việt
Nam mà còn có ý nghĩa đối với nhân dân tiến bộ thế giới ở thời đại ngày nay.
Mùa xuân năm 1930, Người đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã
xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một đảng matxit- lenin- nit kiên cường, giàu
bản lĩnh và kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng cũng như trong xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh. Trong đó, Người đặc biệt coi trọng vấn đề đạo đức cách
mạng: cái gốc, cái nền của cán bộ, Đảng viên.


Hoàn cảnh ra đời tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân

lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng từ trong nhân dân, tranh đấu mà
trưởng thành. Để Đảng được vững mạnh, Nhà nước hoạt động có hiệu quả, tạo
niềm tin cho quần chúng, ngày 17-10-1945, trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các
kỳ, huyện và làng, Người nhắc nhở: “…các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc

cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân,
chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kì dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật. Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm.Việc gì có hại đến dân, ta hết sức
tránh”.
Quý 1 năm 1947, Người lại gửi hai bức thư: Gửi các đồng chí Bắc Bộ và gửi
các đồng chí Trung Bộ, nghiêm khắc phê bình một số cơ quan Đảng, nhà nước
mắc bệnh : làm trái phép nước, cậy thế hủ hóa, tư tưởng chia rẽ, kiêu ngạo…Người


nói: “..có đồng chí đáng phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình,
cảnh cáo qua lao cho xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ
lẫn nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỉ luật như vậy làm cho
các đồng chí không những không biết sửa lỗi mình mà còn khinh thường kỉ luật..”.
Trong điều kiện cả đất nước có chiến tranh, Đảng chủ trương xây dựng các “chi
bộ tự động công tác” nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo của các
cấp bộ đảng. Tháng 10-1947, tại Việt Bắc, với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” làm tài liệu cho cán bộ, đảng viên
học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trên các mặt trận tư tưởng, đạo đức và
phương pháp làm việc.
Mục đích của tác phẩm.



Tác phẩm góp phần nâng cao trình độ lí luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm
cách mạng, nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách
mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của cách
mạng. Trong tác phẩm, Người phê phán “chủ nghĩa cá nhân” vì nó là thứ “vi trùng
rất độc” nó sinh ra các khuyết điểm nghiêm trọng như bệnh tham lam, lười biếng,
kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỉ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, kéo bè,
kéo cánh…Đồng thời, Người chỉ rõ nguyên nhân, cách khắc phục. Tác phẩm

không chỉ nhằm phê phán mà chủ yếu là cách mạng. Bởi vì, cách mạng mới là
động lực của lịch sử. Đảng là đội tiên phong, ưu tú nhất của xã hội, là đầu tàu lịch
sử.
Tóm tắt tác phẩm



Tác phẩm gồm có 6 phần chính như sau:


Phê bình và sửa chữa.


Tác phẩm nêu rõ cán bộ, đảng viên cần phải học tập, sữa chữa các khuyết điểm
để công việc ngày càng tiến bộ. Phải sửa đổi lối làm việc của Đảng nhằm khắc
phục bệnh chủ quan, bệnh ích kỉ, hẹp hòi, bệnh ba hoa.


Mấy điều kinh nghiệm
Mục này trình bày và phân tích 6 điểm cơ bản nhằm giúp cán bộ, đảng viên

thực hiện tốt hơn công tác của mình.


Tư cách và đạo đức cách mạng.

Mục này phân tích rõ 12 điều thuộc về tư cách của Đảng chân chính cách mạng,
nêu rõ phận sự của đảng viên và cán bộ,tư cách và bổn phận của đảng viên, phải
rèn luyện tính Đảng.



Vấn đề cán bộ

Mục này phân tích khá sâu sắc các vấn đề về cán bộ: cách dạy cán bộ, dùng cán
bộ, cách lựa chọn cán bộ và các cách đối với cán bộ.


Cách lãnh đạo

Mục này nêu rõ thế nào là lãnh đạo đúng, cách thức lãnh đạo như thế nào cho
hợp lí và tạo được lòng tin cho quần chúng nhân dân nhưng không được theo đuôi
quần chúng.


Chống thói ba hoa
Mục này phân tích rõ những biểu hiện của tính ba hoa và đồng thời nêu ra

những cách sửa chữa thói ba hoa ngay cả trong khi nói, viết và làm công tác điều
tra, nghiên cứu.


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG
TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”.
2.1 Khái niệm tự phê bình và phê bình.
Khổng Tử từng nói: “Có lỗi, thì chứ sợ sửa đổi.”
Tăng Tử (học trò của Khổng Tử) cũng đã nói: “Mỗi ngày, tôi tự kiểm thảo ba
lần.”
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Tự phê bình là Đảng xem xét, đánh giá những
hoạt động đã qua, chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, từ đó Đảng tìm cách hoạt động tốt
hơn.

V.I.Lênin chỉ rõ: “Tự phê bình là Đảng nói thật bệnh tật của mình ra, chuẩn
đoán bệnh một cách thẳng tay và tìm phương cứu chữa”.
Trong rất nhiều bài nói và viết, Hồ Chí Minh có đề cập tới Tự phê bình và phê
bình. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người viết:
“Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình.
Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích cho mọi người học lẫn
ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm.”
Sau này, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm hoàn chỉnh hơn về Tự phê bình và
phê bình. Người viết: “Tự phê bình là cá nhân (cơ quan hoặc đoàn thể) thật thà
nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa cũng
để người khác biết mà tránh những khuyết điểm mình sai phạm.


Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đoàn thể) có khuyết điểm thì thành khẩn
nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ.
Mục đích của tự phê bình và phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm, phát huy ưu điểm, cùng nhau tiến bộ.”
2.2 Tính tất yếu của tự phê bình và phê bình.
Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là để lãnh đạo cách mạng thành công. Để làm
được điều đó, Đảng phải được xây dựng ngày càng vững mạnh. Song: “..tình hình
khách quan thay đổi hàng giờ, hàng phút, một chủ trương hôm nay của chúng ta
đúng, hôm sau lại không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng
hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp
tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn vượt mặt..”, “không
chịu tự phê bình, chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được.”
Một số ý kiến khác cho rằng: Nếu công khai thừa nhận khuyết điểm của mình thì
sẽ có hại vì: kẻ địch sẽ lợi dụng để phản tuyên truyền, giảm bớt uy tín của đoàn
thể, cơ quan, làm mất thể diện của cán bộ phạm sai lầm. Như thế, là “vạch áo cho
người xem lưng”, là thò nhược điểm ra cho địch nắm mà quất vào.

Nhưng Bác khẳng định: làm người thì “nhân vô thập toàn”, tức là không tránh
khỏi sai lầm, thiếu sót. Đảng ta là đội tiên phong của sự nghiệp cách mạng, là tập
hợp những quần chúng ưu tú, dũng cảm, cách mạng nhất...nhưng Đảng ta “không
phải từ trên trời rơi xuống”, mà từ trong lòng xã hội mà ra nên không tránh khỏi
những sai lầm, khuyết điểm. Nhưng nếu sợ “mất oai tín, thể diện mình” thì cũng
như “ốm mà sợ thuốc. Thế là không hiểu ý nghĩa về lý luận phê bình.”


“Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng giống như uống thuốc. Sợ
phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi
bệnh ngày càng nặng, không chết cũng “lê lết quả dưa”.”
Lênin cũng đã chỉ rõ rằng: “ Đối với đảng đang đấu tranh của giai cấp tiên
phong thì phạm sai lầm là không đáng sợ. Điều đáng sợ là : cứ giữ mãi những sai
lầm, cứ xấu hổ hão, không chịu nhận sai lầm và sửa chữa sai lầm”. Nếu không thấy
rõ được sai lầm, khuyết điểm của mình hoặc giấu giếm những sai lầm, khuyết điểm
ấy là một trong những nguyên nhân làm giảm sức chiến đấu của Đảng.
Khuyết điểm mà không sửa chữa thì ngày càng lớn, ngày càng to, không sửa
được, dẫn tới hỏng việc. Từ đó sinh ra biết bao căn bệnh: tự cao, tự đại, hủ hóa,
hẹp hòi, chủ nghĩa cá nhân..làm cho “..Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật
lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách thì không thi hành được triệt để, Đảng thì xa
rời quần chúng.”
“Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào
sai lầm, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không
chữa cho họ.Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình
cứ chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình.
Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu
mà có khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách mà sửa chữa khuyết điểm đó. Như
thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.”
Như vậy, tự phê bình là tất yếu, là nguyên tắc bất di, bất dịch trong hoạt động

bình thường của một đảng. Theo Người, đó là thang thuốc “xổ bệnh” rất có hiệu
nghiệm để tẩy trừ mọi khuyết điếm trong Đảng.


Lênin đã chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều
bị tiêu vong vi tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái tạo nên sức mạnh của mình,
và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, vì
chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những khuyết điểm
đó, chúng ta sẽ học được cách khắc phục.”
Vì vậy, “..mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm dồng
chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí sửa
chữa..”

2.3 Nội dung của tự phê bình và phê bình.
2.3.1 Mục đích, đối tượng của tự phê bình và phê bình
Trong tác phẩm, Người cho rằng để tự phê bình và phê bình đạt được những kết
quả như mong muốn, điều quan trọng là phê bình cho đúng. Tức là thấy rõ được
mục đích, đối tượng, cách thức, phương pháp sao cho đúng. Bởi con người ai cũng
có lòng tự ái, thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình là điều rất khó. Vì họ sợ
mất thể diện, uy tín và địa vị, Vì vậy, phải phê bình cho đúng để người bị phê bình
thấy được khuyết điểm, mạnh dạn nhận khuyết điểm trước mặt mọi người và quyết
tâm sửa chữa những khuyết điểm đó, từ đó mà tăng sức chiến đấu cho đảng. Muốn
thế, trước hết phải thấy rơ được mục đích, đối tượng của tự phê bình và phê bình.
Người chỉ rõ: “Mục đích của phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến
bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống
nhất nội bộ.”
Để khỏi được các bệnh: bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi.. thì: ta “phải tự phê bình
ráo riết…ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”.



Cùng với đó, “Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để
dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự
mãn, tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi”.”, “Đảng được như thế thì trong Đảng
sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”
Như vậy, mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp nhau cùng tiến bộ, làm
cho Đảng thêm vững mạnh, thêm sức chiến đấu. Chứ không phải là “dùng lời mỉa
mai, chua cay, thâm độc” mà bôi xấu, hạ bệ danh dự của nhau, công kích nhau.
Mình đi phê bình người khác không phải là soi mói, “bới lông tìm vết” của đồng
chí mình. Cần tránh: “ Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ,
không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí.”
Nói cách khác, Người đã xác định đối tượng phê bình là “phê bình việc làm,
chứ không phải là phê bình người.”. Phê bình công việc tức là phê bình những việc
làm sai trái, những suy nghĩ lệch lạc, sai lầm, khuyết điểm như: “ Thấy những việc
có hại cho dân chúng cũng mặc kệ, không ngăn cản, không giải thích.”, “Làm việc
không có kế hoạch, gặp sao làm vậy, làm lấy lệ, làm không có ngăn nắp, làm
không đến nơi đến chốn.”. Những việc làm ấy dù là cá nhân, đảng viên hay tổ chức
đều phải kiên quyết “lập tức sửa chữa”. Người nhấn mạnh: Đối với cơ quan lãnh
đạo cũng như Đảng viên giữ cương vị lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước,
đoàn thể phải hết sức gương mẫu trong tự phê bình và phê bình, tuyệt đối không
“phùng mang trợn mặt”, làm thui chột tinh thần đảng viên, quần chúng. Phê bình là
xem xét, đánh giá công việc người đó làm tốt hay chưa, có hiệu quả hay không chứ
không phải là cơ hội để công kích, nói xấu nhau.
Như vậy, muốn thực hiện tốt và có hiệu quả tự phê bình và phê bình thì phải
nhận thức được phê bình vì mục đích gì? Phê bình cái gì? mà kịp thời sửa chữa.
2.3.2 Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình.


Lênin đã từng nói: “Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình
là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét đảng
ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm trọn nhiệm vụ của mình đối với giai cấp

mình và quần chúng lao động không.”
Điều đó có nghĩa là: có khuyết điểm thì phải có thái độ đúng đắn với khuyết
điểm ấy. Khổng Tử đã từng dạy rằng: “Tự mình phải chính trước, mới giúp người
khác chính được. Mình mà không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. Hồ
Chí Minh đã nghiêm khắc lên án thái độ, cách xử lí không đúng đắn trước những
sai lầm, khuyết điểm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.
Bác đã chỉ rõ những thái độ ấy bao gồm: một số lợi dụng những sai lầm, khuyết
điểm để tự tư tự lợi, một số thờ ơ, mặc kệ, sao cũng được, một số thì như hổ mang,
thuồng luồng, đòi đuổi cổ bọn kia ra ngay khỏi Đảng.. Đó là những thái độ” đầu
cơ”, “ươn hèn yếu ớt”, “máy móc quá”..Tất cả những điều đó sinh ra nhiều chứng
bệnh như “không nói trước mặt, hục hặc sau lưng”, gây sự uất ức, thiếu đoàn kết
trong Đảng, dễ bị kẻ thù lợi dụng, làm cho khuyết điểm ngày càng nhiều.
Lênin đã dạy: “Khi các đồng chí nghe thấy một lời phê phán như thế, một sự phê
phán để mà phê phán, thì các đồng chí hãy đề phòng, hãy tìm xem người phê phán
đó có tự ái về điều gì chăng, có lẽ có điều gì đó chọc tức họ hay chạm tới các nhân
họ chăng, khiến họ đi đến chỗ đối lập bừa bãi, đối lập để mà đối lập.”
Vì vậy, muốn cho người mắc khuyết điểm “vui lòng nhận xét để sửa đổi”, thành
tâm sửa chữa, không “nản chí”, “oán ghét” thì “luôn luôn dùng và khéo dùng tự
phê bình và phê bình”. Tức là phải khôn khéo trong phê bình như chiếu tấm gương
soi thấu khuyết điểm của mình và để sửa chữa kịp thời. Phê bình phải rõ ràng,
tránh chung chung, phải có nội dung, có địa chỉ, chỉ rõ đúng, sai, tránh công kích,
dung lời lẽ mỉa mai, cay độc… “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo


riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm,
khuyết điểm.”
Sự khôn khéo trong phê bình là tôn trọng thực tế khách quan, không vội vàng
quy kết, chụp mũ đồng chí mình, nhất là những khuyết điểm liên quan tới sinh
mệnh chính trị của đồng chí mình. Phê bình như thuốc chữa bệnh cứu người, cho
nên phải chân thành, thân ái, dựa trên tình đồng chí yêu thương, tránh biến tự phê

bình và phê bình thành những cuộc cãi vã, vi phạm nhân phẩm của cán bộ, Đảng
viên.
Phê bình phải công khai, phân tích, xem xét, đánh giá mọi công việc của tổ chức
Đảng trước mặt cán bộ, đảng viên và tiến hành trong tổ chức Đảng, không phê
bình trước mặt, nói xấu sau lưng. Phê bình phải đặt trong khuôn khổ của tổ chức,
có sự lãnh đạo chặt chẽ mới tránh được hiện tượng cán bộ, đảng viên có ý kiến mà
không dám nói, dám phê bình. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Họ không dám nói không
phải là họ không có ý kiến nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe,
không xét mà còn trù dập. Do đó không nói được ra nên cứ ấm ức trong lòng, sinh
ra tật “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, “thậm thà thậm thụt”.
Người dạy: “Cơ quan nào trong lúc khai hội, cấp trên để mọi người có gì nói hết,
cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi
người đều hoạt bát mà bệnh thì thầm thì thào cũng hết”.
Như vậy, thái độ và phương pháp phê bình có ý nghĩa rất quan trọng. Phê bình
người nào, khi nào, nói những gì, bằng cách nào, ở mức độ nào…phải biết sử dụng
một cách tế nhị, không được làm họ nản lòng, khó chịu thì họ mới dễ tiếp thu, sửa
chữa nhanh chóng. Nếu sử dụng không khéo sẽ gây hiệu quả thấp, gây nhiều tác
hại. Trong phê bình và tự phê bình cũng không nên dùng phương pháp mệnh lệnh,


hành chính. Người nói: “bánh ngọt là một thứ ngon lành, nhưng đem bánh ngọt bắt
người ta ăn, nhét vào miệng người ta, thì ai cũng chán”
2.3.3 Phê bình kịp thời, thường xuyên và liên tục.
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, đem lại hiệu quả cao trong xây dựng
nội bộ Đảng. Phê bình phải kịp thời để tránh tích tụ, trầm trọng thêm, ngăn chặn
không để tái diễn trong cán bộ,đảng viên, tổ chức đảng, kịp thời uốn nắn những
lệch lạc, sai trái. Muốn vậy, phê bình phải thường xuyên,liên tục. Làm như vậy,
theo Người: các sai lầm, khuyết điểm sẽ được rửa sạch ngay từ khi mới phôi thai.
Còn “nếu để sai lầm, khuyết điểm trở nên to tát rồi mới đem ra “chỉnh” một lần,
như thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập” mất cả lòng tự tin, người hăng hái cũng

hóa nản chí, tự nản chí đi đến vô dụng”, như thế tổ chức đảng không tiến bộ được.
Do đó, tự phê bình và phê bình cần tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên, phải
tiến hành thường xuyên như “rửa mặt hàng ngày”. Phải coi tự phe bình và phê bình
cũng như cơm ăn, nước uống, không khí để thở của người cách mạng. “Ngày nào
cũng phải ăn cho khỏi đói, cũng phải rửa mặt cho khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải
tự phê bình cho khỏi sai lầm.”
Phê bình thường xuyên, chứ không phải chờ khi khai hội mới phê bình, khi làm
khi không.
“Mục đích của phê bình là cốt để giúp nhau sửa chửa, giúp nhau tiến bộ, cốt dể
sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết, thống nhất nội bộ”
Đó là vũ khí sắc bén nhất giúp Đảng ta thêm mạnh.


Ý nghĩa của tự phê bình và phê bình


Đảng ra đời, tồn tại , phát triển là để lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Để đạt được
điều đó, Đảng phải xây dựng ngày càng vững mạnh. Thực tiễn cách mạng vận
động, phát triển, nhiệm vụ cách mạng ngày càng phức tạp, nặng nề, hoạt động lãnh
đạo của Đảng cần tăng cường, phát huy vai trò của tự phê bình và phê bình.
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng: Đảng sửa chữa khuyết
điểm, tiến bộ hơn, mạnh dạn hơn, chắc chắn, chân chính. Từ đó, giúp Đảng vượt
qua thử thách, khó khăn, đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
Tự phê bình và phê bình góp phần xây dựng, củng cố, phát triển sự đoàn kết
thống nhất của Đảng. “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng răi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố, phát triển sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.
Tự phê bình và phê bình là phương pháp để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên,
góp phần nâng cao năng lực, sức chiến đấu cho Đảng. Bằng tự phê bình và phê
bình, trí tuệ, tính sáng tạo của từng đảng viên được khơi dậy, phát huy, phê phán

cái sai, tìm ra cái đúng, dần dần tiếp cận chân lý. Qua tự phê bình và phê bình trình
độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao nhất là tổ chức thực tiễn.

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ
BÌNH TRONG ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM
VIỆC” CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG
ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.


3.1 Quan điểm của Đảng ta về vận dụng nguyên tắc tự phê bình và phê
bình trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong Đảng thực hành dân chủ
rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng”.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc, trong suốt quá trình
xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình. Đảng ta
coi tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại, phát triển của Đảng, là thước đo
trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng, là vũ khí tư tưởng sắc bén bảo vệ sự trong
sạch, vững mạnh của Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên
cần thiết hơn. Bởi vì, trong điều kiện mới, Đảng phải giải quyết nhiều vấn đề mới,
khó khăn, phức tạp, nặng nề, và luôn vận động và phát triển. Trước tình hình đó
không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Thông qua tự phê bình và phê bình,
giúp cán bộ, đảng viên vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách
mạng, qua khó khăn, thử thách mà được tôi luyện, trưởng thành. Nhờ sự quán triệt,
vận dụng sáng tạo phương pháp tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng mà Đảng
có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác, vượt qua
những khúc quanh của lịch sử,những thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta khẳng định phải đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình với ý nghĩa là quy luật phát triển Đảng.

Tại Đại hội VIII, tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới Đảng đã thấy rõ
vai trò, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong điều kiện thực hiện kinh tế nhiều
thành phần, cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ với nước ngoài và khẳng định:


“Một quy luật cơ bản trong phát triển, tiến bộ của Đảng là thường xuyên tự phê
bình và phê bình.”
Tại Đại hội IX, Đảng ta đã chỉ rõ phải loại trừ những nhân tố gây mất đoàn kết,
thống nhất trong và nhấn mạnh: “Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất
trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp ủy, tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất
đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý
nghiêm minh những người có khuyết điểm.”
Tại Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh vai trò đối với việc xây dựng, củng cố đoàn
kết thống nhất trong Đảng và nhấn mạnh: “Chăm lo củng cố sự đoàn kết thống
nhất và tình đồng chí trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê
bình và phê bình.”
Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa có nhiều diễn biến phức
tạp, khó lường. Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đị hóa đất nước, nhiệm vụ của Đảng càng nặng nề. Phạm vi,
quy mô lãnh đạo ngày càng mở rộng, đối tượng lãnh đạo ngày càng đa dạng, vai
trò lãnh đạo của Đảng tăng lên, đòi hỏi Đảng phải không ngừng xây dựng và chỉnh
đốn, thường xuyên tự phê bình và phê bình để trong sạch, vững mạnh, phát huy trí
tuệ, năng lực của mình.
Như vậy, từ lý luận và thực tiễn cách mạng hơn 80 năm qua đã chứng minh rằng,
trong mọi giai đoạn cách mạng, tự phê bình và phê bình là nguyên tắc không thể
thiếu trong sinh hoạt và tổ chức của Đảng ta, Đảng Mac-xit chân chính và được
nhân dân tin tưởng, ủng hộ.
3.2 Thực trạng thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng trong công tác
Xây dựng Đảng hiện nay.



3.2.1 Ưu điểm
Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Ban chấp hành trung ương, các cấp ủy, các tổ
chức Đảng đã tích cực đẩy mạnh công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đặc biệt
thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Đại hội VI là bước ngoặt quan trọng về tự phê bình và phê bình trong Đảng. Tại
Đại hội Đảng đã nghiêm túc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh
đạo, phát triển kinh tế- xã hội: “nói thẳng, nói thật”, “nhìn thẳng vào sự thật”
những khuyết điểm, sai lầm trong công tác Đảng. Từ đó tập trung trí tuệ, đề ra
những quan điểm, những chủ trương đúng đắn, tiến hành sự đổi mới toàn diện đất
nước.
Từ sau Đại hội VI, việc tự phê bình và phê bình đã được nhiều cấp ủy và tổ
chức cơ sở Đảng coi trọng, duy trì đều đặn, thực hiện nghiêm túc hơn, thu được
những kết quả quan trọng, góp phần nâng cao năng lực, sức chiến đấu cho các tổ
chức Đảng, làm chuyển biến căn bản tình hình kinh tế- xã hội của đất nước.
Toàn Đảng thực hiện các đợt tự phê bình và phê bình gắn với cuộc vận động
xây dựng và chỉnh đốn Đảng và cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII, Đảng ta quyết định tiến hành cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tự
phê bình và phê bình nhân dịp kỉ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của chủ tịch Hồ
Chí Minh và kỉ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng, trong đó tiến hành tự phê bình
và phê bình từ trong Bộ Chính Trị, Ban Chấp hành Trung ương đến cơ sở là khâu
đột phá và là biện pháp có ý nghĩa quan trọng bảo đảm hiện thắng lợi nhiệm vụ
mới.
Hàng năm các tổ chức Đảng đã tiến hành tự phê bình và phê bình gắn với việc
tổng kết, đánh giá, phân loại chất lượng Đảng viên, tổ chức Đảng và đề ra biện


pháp sửa chữa kịp thời. Đặc biệt trong các thời gian chuẩn bị đại hội Đảng các cấp

tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, việc thực hiện tự phê bình và phê
bình đạt kết quả cao.
Đánh giá của Đại hội XI: “Thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực, gắn với việc thực hiện: cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nội dung tự phê bình và
phê bình ở một số cấp ủy và tổ chức Đảng thực hiện nghiêm túc, thẳng thắn, chân
thành, phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, thiếu sót của cán bộ, Đảng viên, tạo
sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng.”
3.2.2 Hạn chế.
Việc thực hiện tự phê bình và phê bình còn nhiều yếu kém, chất lượng thấp.
Một số tổ chức Đảng và Đảng viên nhận thức chưa đúng về vai trò, nội dung,
phương pháp tự phê bình và phê bình. Tình trạng phổ biến thường diễn ra: phê
bình nể nang, né tránh, thiếu trung thực, lợi dụng phê bình nhằm mục đích cá nhân
gây mất đoàn kết nội bộ.
Việc phê bình của cấp dưới đối với cấp trên, Đảng viên với cán bộ lãnh đạo chưa
được thực hiện triệt để. Nhiều nơi khi tổ chức phê bình không tập chung vào chức
trách, nhiệm vụ mà sa vào phê bình lối sống, cá tính, thói quen, tách rời hoặc chỉ
tiến hành một mặt tự phê bình hoặc phê bình.
Đại hội XI nhận xét: “Trong thực tế hiện nay, việc thực hiện tự phê bình và phê
bình vẫn là khâu yếu, chưa trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy. Ở nhiều
cấp ủy, tổ chức Đảng, tự phê bình chủ yếu diễn ra vào dịp kiểm điểm cuối năm, ít
phê bình trong hội nghị, nhất là Đảng viên trẻ, mới kết nạp. Nội dung tự phê bình
và phê bình nhiều khi chưa đúng thực chất, thường vòng vo, né tránh. Do đó, các


cấp ủy, chi bộ chưa chủ động phát hiện được để phòng ngừa, hạn chế các vụ việc
tiêu cực.”
3. 2.3 Nguyên nhân
Do nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng,
chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ, Đảng viên, chưa

tạo điều kiện để đưa nguyên tắc trỏ thành nền nếp. Một số cán bộ, Đảng viên giảm
sút ý chí phấn đấu, thờ ơ, vô trách nhiệm, một số lợi dụng tự phê bình và phê bình
để mưa lợi cá nhân, một số cán bộ lãnh đạo thiếu gương mẫu, thiếu dân chủ với
cấp dưới, quan liêu, không công minh trong đánh giá cán bộ, Tệ trù úm, trả thù
người thẳng thắn phê bình là nguyên nhân gây ra chất lýợng thấp của phê bình.
Ngoài ra còn do: sợ bị trả thù, tách rời phê bình với kỷ luật, xử lý kịp thời, thiếu sự
quan tâm sâu sát của các cấp ủy…
3.3 Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê
bình trong Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng cần thực hiện đồng bộ những
giải pháp sau:


Nâng cao nhận thức sâu sắc về vai trò và những đặc tính của tự phê bình và
phê bình trong Đảng, xác định đúng nội dung, lựa chọn đúng hình thức và
phương pháp tự phê bình và phê bình.



Các tổ chức đảng phải tiến hành một cách nghiêm túc và thường xuyên công
tác tự phê bình và phê bình theo đúng Điều lệ Đảng đã quy định, tránh lối
làm việc hình thức, chiếu lệ. Yêu cầu của tự phê bình và phê bình phải đạt
được là: Nói thật, nói hết những sai lầm,khuyết điểm đã mắc phải trước tổ
chức đảng; trước quần chúng nhân dân; việc xử lý những sai lầm, khuyết


điểm phải tiến hành công minh, theo phương châm “trị bệnh cứu người”.
Qua đó lựa chọn được những cán bộ đủ đức, đủ tài gánh vác được nhiệm vụ
mà cách mạnh giao phó. Trong tự phê bình và phê bình phải đề cao tính tự

giác, chủ đông và nghiêm túc tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở, thắng thắn.
Đối với các Đảng viên giữ chức vụ cao cần phải gương mẫu trong tự phê
bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình phải tiến hành thường xuyên
trong các buổi sinh hoạt thường kì của Đảng bộ, chi bộ, không chờ tới khi
tổng kết hay khai hội mới làm.


Tự phê bình và phê bình phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được
giao, có như vậy mới có tác dụng giáo dục và tìm ra những biện pháp hữu
hiệu để khắc phục khuyết điểm, sai lầm, nhân rộng ưu điểm, tạo điều kiện
cho các đơn vị, cá nhân đều tiến bộ và xây dựng tổ chức đảng trong sạch,
vững mạnh.



Thực hiện nghiêm chỉnh việc tổ chức cho nhân dân phê bình cán bộ, đảng
viên và tổ chức đảng; kết hợp chặt chẽ tự phê bình trong đảng và phê bình
của nhân dân.



Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính, coi trọng giáo dục,
nâng cao nhận thức để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa sai phạm. Qua tự phê
bình và phê bình, từng cán bộ đảng viên ở các cấp cần tự xem xét mình có
đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên hay
không, nếu không thì phải tự nguyện rút khỏi vị trí đương nhiệm, chịu hình
thức kỉ luật xứng đáng, hoặc tự xin ra khỏi Đảng để đảm bảo sự trong sạch,
vững mạnh của Đảng.




Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra, giám
sát,điều tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm


đạo đức. Việc thi hành kỉ luật đối với những cán bộ, đảng viên mắc sai lầm,
khuyết điểm nặng thì cách làm phải dân chủ, có tình có lý. Kỷ luật rồi phải
thông báo cho tổ chức quần chúng và nhân dân được biết. Qua đó, cho quần
chúng thấy sự nghiêm minh trong Đảng, củng cố lòng tin ở nhân dân, tăng
cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân.


Đấu tranh kiên quyết, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên có thái độ
và hành động không đúng đối với người phê bình thẳng thắn; xử lý kiên
quyết, thích đáng những người lợi dụng phê bình để vu cáo, chia rẽ, gây rối
nội bộ.



Tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp trên nhằm phát huy hơn nữa vai trò
của tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt, tổ chức Đảng.

C. KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là người sáng lập rèn luyện Đảng ta từ trong tranh đấu mà trưởng
thành, ngày càng “mạnh dạn hơn, tiến bộ hơn”. Người không chỉ là tấm gương đạo
đức sáng ngời mà còn là nhà lãnh đạo, xây dựng Đảng tài ba, lỗi lạc. Tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” tuy không dài nhưng có tính khái quát cao, có những đóng
góp quan trọng trong việc thực hiện những vấn đề cơ bản, cấp thiết của công tác
xây dựng Đảng hiện nay, đặc biệt là việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo nguyên tắc
tư phê bình và phê bình trong Đảng. Những tư tưởng ấy đã soi sáng đường cho

việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, góp phần nâng cao năng lực, sức
chiến đấu của Đảng, tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, xây dựng,


củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và
vào sự lãnh đạo tiên phong của Đảng.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ra đời cách đây hơn 50 năm nhưng những luận
điểm nêu trong tác phẩm vẫn còn vẹn nguyên giá trị đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta đặc biệt là quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định 3 nhiệm vụ chính là: phát triển kinh
tế làm trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội. Đảng ta cần đẩy mạnh hơn nữa cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng
gắn chặt với tự phê bình và phê bình và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để Đảng
phát huy vai trò của đại biểu đại diện cho danh dự, lương tâm, trí tuệ của toàn dân,
thực hiện theo di nguyện của Người:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp Cách mạng thế giới.”


×