Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động theo pháp luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ HOÀI TRANG

QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ HOÀI TRANG

QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Thúy Lâm

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Vũ Hoài Trang


MỤC LỤC
Trang

Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƠN

PHƢƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƢỜI
LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO
ĐỘNG ................................................................................................... 9
1.1.

Khái niệm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động ............ 9

1.1.1. Khái niệm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ............... 9
1.1.2. Khái niệm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
người lao động ...................................................................................... 13
1.2.

Ý nghĩa của sự ghi nhận quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người lao động ....................................................................... 16

1.2.1. Đối với người lao động ......................................................................... 16
1.2.2. Đối với người sử dụng lao động ........................................................... 17
1.2.3. Đối với nhà nước và xã hội ................................................................... 28
1.3.

Nội dung pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người lao động ....................................................................... 19


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN........................................................................................ 27

2.1.

Căn cứ, lý do thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người lao động ....................................................................... 27

2.1.1. Đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn (từ đủ 12 tháng đến 36
tháng) và hợp đồng lao động theo mùa vụ hay theo một công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ..................................................... 29
2.1.2. Đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn ........................... 37
2.2.

Thủ tục thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
của người lao động ................................................................................ 39

2.3.

Quyền lợi và trách nhiệm của người lao động khi thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ............................................ 40

2.3.1. Quyền lợi và trách nhiệm của người lao động khi thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật ................... 40
2.3.2. Quyền lợi và trách nhiệm của người lao động khi khi thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật ........... 53
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG ................................................... 61
3.1.

Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quyền đơn phương chấm

dứt hợp đồng lao động của người lao động .......................................... 61

3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người lao động .......................................... 64


3.3.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao
động về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động ................................................................................................. 69

3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động nói
chung, pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
của người lao động nói riêng ................................................................ 69
3.3.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn trong vấn đề
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động ................................................................................................. 71
3.3.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
trong vấn đề quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
người lao động ...................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


MỞ ĐẦU
1.


Sự cần thiết thiết nghiên cứu của đề tài
Trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường của nước ta

hiện nay, nhu cầu sử dụng sức lao động trong xã hội ngày càng tăng lên. Để
kịp thời đáp ứng được sự phát triển đó, trong những năm vừa qua hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng đã và đang từng bước
được sửa đổi, bổ sung nhằm dần hoàn thiện cơ sở pháp lý để phát huy được
vai trò điều chỉnh của mình trong đời sống lao động.
Không như những quan hệ dân sự thông thường khác, quan hệ lao
động là một giao dịch đặc biệt diễn ra trong quá trình sức lao động của
người lao động được đưa vào sử dụng. Quan hệ lao động giữa ngươi lao
động làm công với người sử dụng lao dộng được hình thành trên cơ sở
hợp đồng lao động và vì vậy quan hệ này sẽ chấm dứt khi hợp đồng lao
động chấm dứt.
Trong bối cảnh các quan hệ lao động ngày càng phức tạp như hiện
nay, vấn đề về bảo vệ người lao động, chống lại tình trạng chấm dứt hợp
đồng lao động một cách tùy tiện và đảm bảo lợi ích hợp pháp của họ trong
các chuẩn mực, hành lang pháp lý do nhà nước ban hành là mối quan tâm
hàng đầu của pháp luật lao động Việt Nam. Đảm bảo quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động của các bên, đặc biệt là người lao động
không những là yếu tố quan trọng góp phần cân bằng mức độ linh hoạt,
năng động của thị trường lao động mà còn phần nào hạn chế được các mâu
thuẫn, bất đồng của các bên tham gia quan hệ lao động, góp phần gìn giữ
an ninh trật tự chung của toàn xã hội.
Thực tế cho thấy, các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề
quyền đơn phương chấm dứt hợp hợp đồng lao động của người lao động
đã và đang được đông đảo người lao động và cả người sử dụng lao động
1



quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu để từng bước thực hiện, vận dụng nhằm
đảm bảo lợi ích của họ trong các quan hệ lao động. Tuy nhiên, phải thừa
nhận rằng, việc thực hiện các quy định trên còn hạn chế, chưa thực sự
được chú trọng ưu tiên áp dụng như một hình thức để chấm dứt hợp đồng
lao động.
Từ những lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “Quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động theo pháp luật
lao động Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ của mình với mục đích làm rõ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người lao động ở Việt Nam hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chấm dứt hợp đồng lao động nói chung và quyền đơn phương chấm

dứt hợp đồng lao động nói riêng là vấn đề được đề cập trong khá nhiều
khóa luận, luận văn, luận án, tài liệu, bài viết nghiên cứu ở những góc độ
khác nhau về vấn đề liên quan. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa
có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu khoa học pháp lý chuyên sâu về nội
dung này.
Các tài liệu là giáo trình, bài giảng Luật Lao động của các trường đại
học có viết về vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong nội
dung “chấm dứt hợp đồng lao động” của phần hợp đồng lao động. Đó là
các giáo trình như: “Giáo trình Luật Lao động” của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
xuất bản năm 2011 do PGS.TS Trần Hoàng Hải chủ biên; “Giáo trình
Luật Lao động” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân
dân phát hành 2008 do tác giả Chu Thanh Hưởng chủ biên; “Giáo trình
Luật Lao động” của Trường Đại học Lao động - Xã hội do Nxb. Lao động
- Xã hội ấn hành năm 2009; “Giáo trình Luật Lao động Việt Nam” của

2


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), do tác giả Phạm
Công Trứ chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tài liệu này đã
cung cấp các khái niệm về hợp đồng lao động, một số đặc điểm cơ bản
của hợp đồng lao động và các quy định hiện hành về việc chấm dứt hợp
đồng lao động trong chế định hợp đồng lao động. Bởi vì, đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động chỉ là một hành vi pháp lý của một bên trong
quan hệ hợp đồng lao động nhằm kết thúc quan hệ lao động nên các tài
liệu trên không đi sâu phân tích cụ thể về lý luận, lịch sử hình thành hay
điều chỉnh bằng pháp luật về vấn đề này trong thực tiễn.
Tại các trường đào tạo ngành luật học có nhiều các khóa luận, luận
văn viết về đề tài liên quan, có thể kể đến Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao
động: Thực trạng áp dụng tại một số doanh nghiệp và hướng hoàn thiện"
của Nguyễn Thanh Hiệu (2007) Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Đề
tài “Pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động” của Trương Thị Thái, Hà
Nội (2008); Luận án tiến sỹ “Hợp đồng lao động trong cơ chế thị trường ở
Việt Nam” (2002) của tác giả Nguyễn Hữu Chí; Luận án tiến sỹ của tác giả
Nguyễn Thị Hoa Tâm “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động – những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2013)…
Bên cạnh các luận văn, luận án, sách, giáo trình, còn có một số bài
viết mang tính nghiên cứu, trao đổi, đưa lại nhiều góc nhìn khác nhau về
vấn đề mà đề tài lựa chọn, thực sự hữu ích cho công tác hoàn thiện pháp
luật về chấm dứt hợp đồng lao động ở Việt Nam, như: Bài “Quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động” của tác giả Đào Thị Hằng đăng ở
Tạp chí Luật học, số 4/2001; Bài “Quá trình duy trì và chấm dứt hợp đồng
lao động” của tác giả Lưu Bình Nhưỡng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
(11/2002 số 175); Bài “Chấm dứt hợp đồng lao động” đăng trên Tạp chí

3


Nhà nước và Pháp luật (9/2002); Bài “Về phương hướng hoàn thiện chế
độ hợp đồng lao động ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hoài Thu, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật (4/2003 – Số 180); Bài “Bàn về chế độ trợ cấp thôi
việc” của tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng, Tạp chí Luật học (2003) tr.37;
Bài “Những vấn đề cần sửa đổi về Bộ luật lao động trong Bộ luật lao
động” của tác giả Trần Thị Thúy Lâm, Tạp chí Luật học (9/2009); Bài
“Một số nội dung cơ bản của pháp luật lao động Cộng hòa Liên Bang
Đức” của tác giả Đào Thị Hằng, Tạp chí Luật học, số 9/2011; Bài báo
“Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đơn
phương chấm dứt Bộ luật lao động trái luật” của tác giả Trần Hoàng Hải,
Đỗ Hải Hà đăng trong tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8 (193) 2011.
3.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu, phân tích những quy
định của Bộ luật lao động năm 2012; tập trung chủ yếu vào các quy định về
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động để làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhằm đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường và xu
hướng hội nhập của nước ta hiện nay. Qua đó, nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam về quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động.
3.2. Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục đích nghiên cứu, cần phải thực hiện các nhiệm vụ
như sau:

4


-

Nghiên cứu một số vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm của quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, ý nghĩa và hệ quả pháp lý
của việc thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
của người lao động đối với các bên trong quan hệ lao động;

-

Nghiên cứu sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật và nội dung
điều chỉnh bằng pháp luật đối với quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người lao động để làm cơ sở đánh giá tính hợp lý
của pháp luật hiện hành về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người lao động;

-

Nghiên cứu thực trạng pháp luật nước ta về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người lao động và thực tiễn thực hiện các
quy định này nhằm tìm ra vướng mắc, những điểm bất cập, chưa hợp
lý của các quy định hiện hành về quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người lao động.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động ở Việt Nam.


4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Các văn bản pháp luật về hợp đồng lao động nói chung, chấm dứt hợp
đồng lao động và quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
người lao động nói riêng và thực tiễn thực hiện về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người lao động.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Quyền chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động là một nội
dung rộng và có thể tiếp cận ở nhiều góc độ. Trong luận văn này, tác giả
chủ yếu tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý của vấn đề quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động ở các khía cạnh
5


căn cứ chấm dứt, thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động,
các quy định về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động khi thực
hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của mình và thực
tiễn thực hiện. Luận văn không nghiên cứu về xử lý vi phạm hay giải
quyết tranh chấp về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao
động.
4.3. Cơ sở lý luận
Khi nghiên cứu về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo
quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả sử dụng một số cơ sở lý luận,
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ
trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của con người, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh,

đảm bảo công bằng, an toàn về pháp lý khi các chủ thể đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, luận văn vận dụng quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ, khách quan, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
4.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau, như phân tích, tổng hợp, thống kê,
lịch sử cụ thể, khảo cứu thực tiễn nhằm minh chứng cho những lập luận,
những nhận xét đánh giá, kết luận khoa học của luận văn. Phương pháp so
sánh được sử dụng xuyên suốt luận văn để phân tích, đối chiếu những
quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của nước
ta nhiều thời kỳ, so sánh những điểm tương đồng, khác biệt của các quy
6


định này với các quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế, văn bản pháp
luật của một số quốc gia được lựa chọn trên thế giới và pháp luật quốc tế.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về phương diện lý luận, luận văn góp phần củng cố và hoàn thiện cơ

sở lý luận về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động trong pháp luật Việt Nam để các nhà lập pháp, các cơ quan có
thẩm quyền, các cán bộ nghiên cứu, người sử dụng lao động và người lao
động tham khảo, vận dụng trong quá trình thực hiện, giải quyết tranh chấp
hay xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp

đồng lao động của người lao động.
Về phương diện thực tiễn, luận văn góp phần nâng cao hơn nữa hiệu
quả thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động, cũng như hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành
luật lao động trong các trường đào tạo về luật hoặc sử dụng trong công tác
thực tiễn tại ngành Tòa án, ngành Lao động-Thương binh và Xã hội để
giải quyết các vụ việc cụ thể liên quan tới quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động của người lao động tại Việt Nam.
6.

Tính mới của luận văn
Đề tài đã phân tích, bình luận, đánh giá một cách toàn diện và khách

quan về thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động của người lao động. Qua đó nhận thấy sự bất cập,
vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp luật về quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động hiện hành.
Dựa trên phương pháp: Thống kê, so sánh, phân tích, đánh giá, tổng
hợp nhằm xem xét vấn đề một cách toàn diện, qua đó đưa ra giải pháp để
7


hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và quy định của pháp
luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao
động nói riêng, từ đó góp phần hoà nhập với nền pháp lý thế giới.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, những công trình liên quan đến luận

văn đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người lao động và pháp luật về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người lao động.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động và thực tiễn thực
hiện.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
của người lao động.

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG CHẤM
DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN ĐƠN PHƢƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động và
quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động của ngƣời lao
động
1.1.1. Khái niệm quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động
Trước khi tìm hiểu khái niệm về quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, chúng ta cần nắm rõ các nội dung liên quan đến quan hệ lao
động. Theo đó, quan hệ lao động là loại quan hệ phát sinh dựa trên cơ sở sự
thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Trong đó, đối

tượng các bên tham gia quan hệ lao động hướng tới là sức lao động của
người lao động bỏ ra trong quá trình lao động theo sự chỉ đạo, bố trí, tổ
chức của người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động được coi là phương
tiện để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, mọi sự kiện làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt hợp đồng lao động đều dẫn tới việc phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động.
Quan hệ lao động có thể được chấm dứt trong những trường hợp khác
nhau, bởi những căn cứ, lý do khác nhau. Đó có thể chấm dứt theo thỏa
thuận của hai bên, đương nhiên chấm dứt, chấm dứt do bất khả kháng hoặc
theo ý chí của một bên tham gia quan hệ lao động. Đối với các trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động do thoả thuận của hai bên, do đương nhiên
hoặc do có các sự kiện bất khả kháng luôn đảm bảo phù hợp quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, đối với việc thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
9


hợp đồng lao động của người sử dụng lao động hoặc người lao động
thường là những vấn đề phức tạp, có nhiều ý kiến trái chiều và đem lại
nhiều hệ lụy hơn so với các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động khác.
Bởi xuất phát từ bản chất của quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động là việc áp đặt ý chí của một bên vào hợp đồng lao động dẫn đến việc
chấm dứt quan hệ lao động mà không phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại
trong quan hệ lao động. Do vậy việc thực hiện quyền này thường không
được chủ thể còn lại chấp nhận, nên thường dẫn đến tranh chấp. Mặt khác
do việc thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động chỉ phụ
thuộc vào ý chí của một bên, nên có thể có hoặc không tuân thủ các quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, tuỳ thuộc vào yếu tố hợp pháp hay không
hợp pháp của chủ thể thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động mà hậu quả pháp lý của nó sẽ không giống nhau.

“Quyền” theo nghĩa chung nhất là “khả năng thực hiện ý chí của mình
được pháp luật hoặc xã hội chấp nhận, là cái mà pháp luật, xã hội, phong
tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành, và khi thiếu được
yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại.” [53]
Đơn phương được hiểu là “Riêng một bên, không có sự thoả thuận
hoặc sự tham gia của bên kia.” [54]
Như vậy, quyền đơn phương là khả năng thực hiện ý chí được pháp
luật hoặc xã hội chấp nhận của riêng một bên, không cần có sự thoả thuận
hoặc sự tham gia của phía bên kia. Theo Báo cáo tổng kết công tác ngành
Toà án năm 1999 thì quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là
việc “Một bên chủ thể quyết định chấm dứt việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ lao động mà không phụ thuộc vào ý chí của bên
kia.” [52]

10


Theo PGS.TS Trần Thị Thuý Lâm thì “Đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động được hiểu là trường hợp một trong các bên chấm dứt quan
hệ khi hợp đồng vẫn còn thời hạn. Việc chấm dứt này hoàn toàn chỉ do ý
chí của một bên chủ thể mà không phụ thuộc vào ý chí của phía bên kia.”
[33, tr22]
Theo quan điểm của PGS.TS Đào Thị Hằng thì:
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là hành vi pháp lý
trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm chấm dứt quan
hệ lao động với bên kia. Ý chí này phải được biểu thị ra bên
ngoài dưới hình thức nhất định và phải được truyền đạt tới chủ
thể đối tác mà không cần thiết phải được chủ thể đó chấp nhận.
Về nguyên tắc, hình thức biểu thị ý chí đó có thể bằng văn bản
hay bằng lời nói (miệng). Nếu bằng văn bản thì văn bản đó phải

được gửi cho chủ thể bên kia và ý chí chấm dứt dứt quan hệ lao
động trong đó phải được biểu đạt rõ ràng, cụ thể để người nhận
có thể hiểu được. Nếu bằng hình thức lời nói, bên bị đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động phải được truyền đạt, thông báo cụ
thể từ bên có quyền và có thể hiểu được chính xác nội dung đó.
[28, tr16]
Trên cơ sở những nội dung đã phân tích ở trên, có thể đưa ra khái
niệm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau: Quyền đơn
phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động là việc một chủ thể trong quan hệ
lao động tự mình quyết định chấm dứt hiệu lực pháp lý của hợp đồng
lao động đã ký kết giữa các bên trƣớc thời hạn mà không phụ thuộc
vào ý chí của phía bên kia.
1.1.2. Khái niệm quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động của
ngƣời lao động
11


Trong khi Tổ chức lao động quốc tế định nghĩa hợp đồng lao động là
“Một thoả thuận ràng buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và một
công nhân, trong đó xác lập các điều kiện và chế độ việc làm.” [63] thì
theo điều 15 Bộ luật lao động 2012 hợp đồng lao động được hiểu là: “sự
thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có
trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ
lao động”.
Bản chất hợp đồng lao động là một hợp đồng song vụ, trong đó các
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động và luôn
gắn liền, đi đôi với nhau. Hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử
dụng lao động và người lao động với mục đích để ràng buộc quyền và
nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng lao
động, không phải lúc nào các bên cũng tuân thủ các thoả thuận đã được ký

kết nên quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có thể bị vi phạm, không
được đảm bảo. Chính vì vậy, khi phát sinh các sự kiện pháp lý làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của mỗi bên tham gia quan hệ lao động, người
lao động hoặc người sử dụng lao động có thể áp dụng cơ chế tự bảo vệ
quyền lợi của mình thông qua việc thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động mà pháp luật cho phép.
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không chỉ là cách để
người sử dụng lao động thực hiện quyền tự do của mình trong công tác
tuyển dụng, phân bổ, sử dụng lao động một cách hợp lý, phù hợp với nhu
cầu sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động, là biện pháp để
người sử dụng lao động bảo vệ lợi ích của mình khi bị xâm hại hoặc có
nguy cơ bị xâm hại mà còn là công cụ hữu hiệu mà pháp luật dành cho
người lao động để họ thực hiện quyền tự do việc làm, đồng thời bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ lao động khi họ không thể
12


tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động được nữa. Khi người lao động không
muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động hoặc vì lý do nào đó họ không
thể tiếp tục thực hiện hợp đồng, người lao động sẽ chấm dứt việc thực hiện
hợp đồng lao động mà không cần phụ thuộc vào việc người sử dụng lao
động có đồng ý hay không. Hay nói cách khác là việc chấm dứt hợp đồng
lao động là do người lao động hoàn toàn quyết định.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau: “Quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động là việc người
lao động áp dụng các quy định của pháp luật để tự mình quyết định chấm
dứt thực hiện các quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng lao động với người sử
dụng lao động trước thời hạn”.
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
người lao động chỉ được thực hiện khi hợp đồng lao động còn thời hạn
Khi tham gia vào quan hệ lao động, các bên sẽ thực hiện việc ký kết
hợp đồng lao động, trong đó thỏa thuận về loại hình lao động, thời gian làm
việc đối với từng loại hợp đồng khác nhau. Khi thời hạn hợp đồng kết thúc,
các bên trong hợp đồng lao động sẽ không còn ràng buộc với nhau về
quyền và nghĩa vụ. Chính vì vậy, các bên chủ thể không thể thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái với những quy định đã
có và một trong số đó là thời hạn có hiệu lực pháp lý của hợp đồng lao
động hoặc khi công việc mà người lao động có nghĩa vụ phải thực hiện
chưa hoàn thành. Khác với chấm dứt hợp đồng lao động do hết thời hạn
hoặc do công việc đã hoàn thành, người lao động chỉ có thể thực hiện

13


quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của mình khi hợp đồng lao
động ký kết với người sử dụng lao động còn thời hạn.
Thứ hai, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động là quyền của người lao động không phụ thuộc vào ý chí hay sự
chấp thuận của người sử dụng lao động trong hợp đồng lao động.
Vì đây là quyền đơn phương nên người lao động được sử dụng quyền
này để bảo vệ lợi ích của mình mà không cần có ý kiến của người sử dụng
lao động hay cần đến sự dung hòa quyền lợi. Ngoài ra, nếu căn cứ theo các
trường hợp người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động, ta có thể nhận thấy, quan hệ lao động ở đây khác so với quan hệ dân
sự. Nếu theo Điều 428 Bộ Luật Dân sự 2015, một bên trong quan hệ hợp
đồng dân sự chỉ được đơn phương chấm dứt hợp đồng khi có sự vi phạm
các điều khoản do các bên đã thỏa thuận, thì trong quan hệ lao động (trong

một số trường hợp), người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động ngay cả khi người sử dụng lao động không có bất kỳ vi
phạm hợp đồng lao động nào. Đây là một đặc điểm khác biệt giữa hợp
đồng lao động và hợp đồng dân sự thông thường và thể hiện rõ nét việc
công khai bảo vệ hơn đối với người lao động - người yếu thế hơn trong mối
quan hệ với người sử dụng lao động.
Thứ ba, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động là quyền được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Người lao động là một bên tham gia quan hệ lao động, do đó pháp luật
lao động có các quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ của họ, trong đó có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường, người lao động được quyền tự do việc
làm nên họ cũng phải có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
để chấm dứt quan hệ lao động với chủ thể này và thiêt lập quan hệ lao động
14


mới với chủ thể khác. Trong trường hợp người sử dụng lao động không
thực hiện đúng nghĩa vụ hoặc có hành vi cản trở việc thực hiện quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động thì người lao
động có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ tư, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động là quyền có điều kiện và chỉ được thực hiện khi có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật.
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là quyền của cả
người lao động và người sử dụng lao động được pháp luật thừa nhận. Tuy
nhiên, đối với mỗi chủ thể thì quyền năng này được quy định lại khác nhau.
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ lao động,
hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng

lao động, pháp luật quy định giới hạn của quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của mỗi chủ thể tham gia quan hệ lao động.
Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động luôn là bên có vị thế
cao hơn, được xem là “kẻ mạnh” vì họ là người có quyền quản lý, giám sát
người lao động, có quyền quyết định về cơ cấu việc làm, tổ chức, bố trí, sắp
xếp công việc cho người lao động nên họ luôn là chủ thể chủ động trong
quan hệ lao động. Trong khi đó, người lao động thường là chủ thể phụ
thuộc trong quan hệ lao động vì phải chịu sự quản lý, giám sát từ người sử
dụng lao động, phải làm việc theo sự sắp xếp, bố trí của người sử dụng lao
động về công việc, địa điểm, thời gian làm việc nên người lao động luôn là
bên yếu thế hơn trong quan hệ lao động. Do vị thế của người lao động thấp
hơn, nên pháp luật có xu hướng bảo vệ nhiều hơn, quy định “nới lỏng” hơn
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động so với
người sử dụng lao động. Tuy nhiên, việc người lao động thực hiện quyền
15


đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến người sử dụng lao động. Không phải lúc nào người sử dụng lao động
cũng tìm kiếm ngay được người lao động thay thế. Điều đó có thể ảnh
hưởng đến nguồn nhân lực, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bởi vậy, tuy pháp luật thừa nhận quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người lao động nhưng đồng thời cũng giới hạn quyền
này trong những phạm vi nhất định. Người lao động chỉ được thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người sử dụng lao
động trong phạm vi pháp luật quy định và phải tuân thủ chặt chẽ các quy
định của pháp luật về căn cứ và/ hoặc trình tự, thủ tục chấm dứt hợp đồng
lao động, nếu không sẽ bi coi là thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật và sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý không
mong muốn.

1.2. Ý nghĩa của sự ghi nhận quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng
lao động của ngƣời lao động
1.2.1 Đối với ngƣời lao động
Thứ nhất, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động nhằm bảo đảm quyền của người lao động trong việc chủ động lựa
chọn và quyết định công việc đáp ứng nhu cầu bản thân về việc làm.
Với môi trường lao động đầy cạnh tranh và hấp dẫn, việc người lao
động dịch chuyển lao động cùng tính chất hoặc khác tính chất, từ đơn vị lao
động này sang đơn vị lao động khác nhằm tìm kiếm công việc phù hợp với
nhu cầu và mục đích bản thân: tìm kiếm công việc nâng cao năng lực bản
thân, công việc đem lại hiệu suất, hiệu quả và mức thu nhập cao. Không chỉ
là nhu cầu công việc đơn thuần như trước kia, hầu hết người lao động
thường mong muốn tìm kiếm một nơi có được việc làm ổn định, gắn bó lâu

16


dài với một đơn vị lao động mà không đòi hỏi phải có áp lực lớn trong
công việc.
Thứ hai, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động bảo vệ tốt hơn về sức khỏe, tính mạng bản thân người lao động
hoặc trong những hoàn cảnh khó khăn dẫn tới việc người lao động không
thể tiếp tục thực hiện lao động.
Đây cũng là một ý nghĩa vô cùng quan trọng của pháp luật lao động,
thể hiện tinh thần bảo vệ công khai đối với người yếu thế trong xã hội người lao động đối với người sử dụng lao động.
Thứ ba, việc thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động không chỉ đáp ứng nhu cầu tự do lao động bản thân của người lao
động mà việc chấm dứt hợp đồng lao động nói chung và chấm dứt hợp
đồng lao động do người lao động thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động nói riêng còn làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường

lao động.
1.2.2.Đối với ngƣời sử dụng lao động
Pháp luật lao động cho phép người lao động được thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cũng có ý nghĩa rất quan trọng
đối với người sử dụng lao động. Bởi khi người lao động thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động này, xét về một khía cạnh nào đó,
đây sẽ là cơ hội cho phép người sử dụng lao động tiến hành cơ cấu lại bộ
máy nhân sự của doanh nghiệp, có kế hoạch tuyển dụng, lựa chọn các lao
động mới phù hợp, đảm bảo thích ứng với môi trường, điều kiện làm việc
của doanh nghiệp.
Mặt khác, việc người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động còn góp phần thúc đẩy người sử dụng lao động phải có dành thời gian
xem xét, nhìn nhận và đánh giá lại tình hình thực tế của doanh nghiệp. Từ
17


đó có kế hoạch thay đổi, tiếp nhận các sự đổi mới để có thể duy trì, phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp trên mọi mặt: cơ
cấu, công nghệ, phương thức quản lý, phương thức kinh doanh…. Không
những thế, quyền này của người lao động đã tạo ra sức ép đối với người sử
dụng lao động, bởi nếu không muốn mất đi các cán bộ nhân viên chủ chốt,
có năng lực chuyên môn thì họ cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách,
chế độ đãi ngộ, đào tạo, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc tốt hơn
cho người lao động, từ dó sẽ thu hút lao động có chất lượng cao và duy trì
quan hệ lao động… tiến tới việc thúc đẩy sự phát triển nền lao động của
một quốc gia.
1.2.3. Đối với nhà nƣớc và xã hội.
Về bản chất, sức lao động là một loại hàng hoá, nên việc mua bán, sử
dụng hàng hoá sức lao động cũng phải tuân theo các quy luật của nền kinh
tế thị trường, đặc biệt là quy luật về giá trị. Trên thị trường, hàng hoá sức

lao động vẫn phải được định giá theo giá trị thông qua việc so sánh với giá
trị của các hàng hoá khác và ngay cả với chính nó.
Thông qua việc người lao động được thực hiện quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động đã tạo ra sự so sánh,
cạnh tranh giữa người lao động trong và ngoài doanh nghiệp. Đồng thời
giữa các doanh nghiệp cũng có sự cạnh tranh với nhau. Vì trên thực tế
người lao động luôn có xu hướng lựa chọn nơi làm việc điều kiện, môi
trường làm việc thuận lợi, sẵn sàng trả lương cao cho họ và có chính sách,
chế độ tốt cho người lao lao động.
Sự cạnh tranh được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng quyết liệt
và quan trọng nhất được thể hiện thông qua giá trị sức lao động và giá cả
sức lao động. Hay nói cách khác là sự cạnh tranh về hiệu suất lao động của
người lao động và mức lương người lao động được hưởng. Từ sự lựa chọn
18


nêu trên, sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa những người lao động về hiệu suất
sức lao động và sự cạnh tranh giữa những người sử dụng lao động về mức
tiền lương sẽ trả cho người lao động. Từ sự cạnh tranh này, đòi hỏi người
lao động phải nâng cao chất lượng sức lao động và người sử dụng lao động
phải nâng cao tiền lương cho người lao động. Qua kết quả của sự cạnh
tranh cả từ phía người lao động và người sử dụng lao động đều có tác động
tích cực đến đời sống xã hội vì qua đó đã cải thiện được chất lượng sức lao
động và đời sống của người lao động. Cũng từ sự cạnh tranh bắt nguồn từ
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động này,
đã tạo ra động lực thúc đẩy thị trường lao động phát triển vì cả người lao
động và người sử dụng lao động đều sẽ thông qua thị trường lao động để
tìm đối tác phù hợp trong quan hệ lao động và ký kết hợp đồng lao động.
1.3.Nội dung pháp luật về quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao
động của ngƣời lao động

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
là một trong những vấn đề rất quan trọng và phức tạp bởi nó không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến tình trạng việc làm của người lao động mà còn liên
quan đến việc sử dụng lao động tại các doanh nghiệp. Khi người lao động
thực hiện quyền này thì quyền và lợi ích hợp pháp của cả người lao động
và người sử dụng lao động sẽ bị ảnh hưởng nên rất dễ dẫn đến các tranh
chấp. Chính vì thế, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều
chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong trường hợp đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động. Đặc biệt, do vị thế và “tương quan” giữa người lao
động với người sử dụng lao động trong quan hệ lao động khác nhau nên
pháp luật lao động quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của các bên là khác nhau. Pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về những
19


×