Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Quan điểm triết học về con người, lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.25 KB, 30 trang )

Quan điểm triết học về con người và vấn đề phát
huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
=====================
Vấn đề con người và giải phóng con người là một trong những nội dung
cơ bản mà các trào lưu triết học đều tập trung giải quyết. Tuy nhiên, ở mỗi thời
đại lịch sử vấn đề đó được đặt ra và giải quyết trong những bối cảnh và nội
dung khác nhau tuỳ thuộc vào thế giới quan và nhân sinh quan của các nhà
triết học.
I. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
1.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Quan điểm về con người trong triết học phương Đông được hình thành rất
sớm và được thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ VI tr. CN. Nội dung các
quan điểm này rất đa dạng và phong phú, song những vấn đề mà người phương
Đông tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc về nguồn gốc, bản tính con
người, hay vấn đề đạo làm người…tiêu biểu là triết học ấn Độ và triết học Trung
Quốc.
1.1.1.Vấn đề con người trong triết học ấn Độ
Chẳng hạn, các nhà triết học ấn Độ thường tập trung vào việc lý giải
những vấn đề then chốt nhất - đó là vấn đề bản chất, ý nghĩa của đời sống,
nguồn gốc nỗi khổ của con người và con đường, cách thức giải thoát cho con
người khỏi bể khổ của cuộc đời. Mục đích, nhiệm vụ của các trường phái triết
học ấn Độ cổ đại là giải thoát. Tư tưởng này luôn biến đổi và phát triển với
đời sống xã hội, từ thời Vêđa đến Brahman và phát triển trong triết lý
Upanisad. Mỗi trường phái có nội dung triết lý, khuynh hướng giáo lý và
quan điểm đạo đức nhân tính khác nhau. Song có thể nói tất cả như một cuộc
hành trình của con người tìm kiếm, phát hiện và trở về với bản chất và lương
tâm của chính mình khi mà con người còn vô minh, tham dục và lãng quên
nó.



2
Cách thức và con đường giải thoát của kinh Vêđa là luôn tôn thờ và
cầu xin sự phù hộ của các đấng thần linh, còn kinh Upanisad là đồng nhất
giữa linh hồn mình với vũ trụ, giữa Atman với Brahman. Trong hệ thống
không chính thống, Jaina chủ trương tu luyện đạo đức bằng phương pháp khổ
tu, không sát sinh, không ăn cắp, không nói dối không dâm dục, không tham
lam.
Đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong triết học ấn Độ là ở Phật giáo.
Phật giáo coi mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả con người là do nhân
duyên hoà hợp mà biểu hiện, biến đổi vô thường. Vì vạn vật “vô thường” nên
vạn pháp “vô ngã”. Nhưng do “vô minh” và lòng tham dục của con người mà
gây nên những nỗi khổ triền miên. Để giải thoát con người khỏi “bể khổ”, thì
phải tu luyện trí tuệ, thiền định và tu luyện đạo đức theo giới luật để phá bỏ vô
minh, diệt trừ tham dục, để làm cho tâm thanh tịnh, hoà nhập vào cõi Niết bàn.
Tư tưởng giải thoát trong triết học ấn Độ cổ đại thể hiện tính chất nhân
bản, nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, do giải thích chưa đúng về nguồn gốc nỗi khổ
của con người, cho nên tư tưởng giải thoát này mới chỉ dừng lại ở sự giải phóng
con người về mặt tinh thần, tâm lý, đạo đức chứ chưa phải là sự biến đổi mang
tính cách mạng.
1.1.2. Vấn đề con người trong triết học Trung Quốc
Triết học Trung Quốc ra đời trong điều kiện chiến tranh liên miên, khốc
liệt, kéo dài. Trên nền tảng hiên thực ấy, đặc trưng chủ yếu của triết học Trung
Quốc cổ, trung đại là hầu hết các học thuyết đều có xu hướng đi sâu giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội, với nội dung bao trùm là
vấn đề con người và xây dựng con người.
Khi đề cập về nguồn gốc của con người, Khổng Tử và Mặc Tử đều cho
rằng, trời sinh ra con người và muôn vật. Lão Tử khác với Khổng Tử và Mặc Tử
ở chỗ ông cho rằng trước khi có trời đã có Đạo. Theo ông, trời, đất, người, vạn
vật đều do Đạo sinh ra. Trang Tử người kế thừa thuyết Lão Tử cho rằng ở mỗi
vật đều có cái đức tự sinh tự hoá ở bên trong v.v.. Như vậy, khi đề cập đến

nguồn gốc của con người, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau, nhưng


3
nhìn chung các nhà triết học Trung Quốc cũng không vượt qua khỏi vòng luân
lý của đạo và trời.
Khi xác định vị trí, vai trò của con người trong mối quan hệ với trời, đất,
con người và vạn vật, Lão Tử cho rằng bốn yếu tố đó quan hệ tương đồng lẫn
nhau. Nhưng đối với Nho giáo, con người được đặt lên vị trí cao nhất. Con
người do trời sinh ra nhưng sau đó con người cùng với trời, đất là ba ngôi tiêu
biểu cho tất cả mọi vật trong thế giới vật chất và tinh thần “Trời, đất, Người là
tam tài”.
Khi bàn tới quan hệ giữa trời với người, các nhà duy tâm cho rằng có
mệnh trời và mệnh trời chi phối cuộc sống xã hội của con người, cuộc đời của
mỗi con người. Các triết gia tiến bộ hơn thì cho rằng trời là gốc của con người,
họ coi trời với người là một, do đó đưa ra chủ trương “thiên nhân hợp nhất”.
Tuy nhiên, trong quan hệ với trời, con người phải theo trời, con người phải lấy
phép tắc của trời làm mẫu mực, coi thiên đạo là nhân đạo, người đời ăn ở phải
hợp với đạo trời.
Khi bàn tới bản tính con người, Khổng Tử cho rằng “tính mỗi con người là
gần nhau, do tập tành và thói quen mới hoá ra xa nhau”. Từ quan điểm này người
ta suy luận tranh cãi đưa ra nhiều thuyết khác nhau. Mạng Tử cho răng bản tính
con người là thiện, còn Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác. Cáo Tử cho
rằng bản tính con người không thiện cũng không ác. Còn Vương Sung cho rằng
bản tính con người có thiện có ác. Song, nổi bật trong các quan điểm trên là thuyết
tính thiện của Mạnh Tử và thuyết tính ác của Tuân Tử. Mạnh Tử khẳng định bản
tính con người vốn là thiện, không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện. Ông
còn nói thêm, sự khác nhau giữa con người với con vật là ở chỗ trong mỗi con người
đều có phần quý trọng và phần bỉ tiện, có phần cao đại và phần thấp hèn, bé nhỏ.
Chính phần quý trọng, cao đại mới là tính người, mới là cái khác giữa người và cầm

thú.
ý nghĩa tích cực “thuyết tính thiện” của Mạnh Tử là ở chỗ biết phát huy,
làm cho phần tốt trong con người ngày càng phát triển, còn phần xấu thì ngày càng
thu hẹp lại. Còn Tuân Tử cho rằng tính con người, sinh ra là hiếu lợi, thuận theo
tính đó dẫn đến tranh đoạt lẫn nhau nên không có từ nhượng; sinh ra là đố kỵ,


4
thuận theo tính đó không có lòng trung tín; sinh ra là ham muốn, thuận theo tính đó
thành dâm loạn…Vì vậy, ông chủ trương phải có chính sách uốn nắn, sửa lại tính
để không làm điều ác. Muốn vậy phải giáo hoá, phải dùng lễ nghĩa, lễ nhạc để sửa
tính ác thành tính thiện, để cái thiện ngày càng được tích luỹ tới khi hoàn hảo. Hai
quan điểm trên, tuy có sự khác nhau ở điểm xuất phát nhưng thống nhất với nhau ở
chỗ coi trọng sự giáo hoá và đều nhằm hướng con người tới cái thiện.
Vấn đề xây dựng con người của các trường phái triết học Trung Quốc cổ, trung
đại là coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã hội. Đạo gia
cho rằng bản tính của nhân loại có khuynh hướng trở về cuộc sống với tự nhiên. Vì
vậy, Lão Tử khuyên mọi người phải trừ khử những thái quá, nâng đỡ cái bất cập,
hướng con người vào cuộc sống thanh cao, trong sạch, gần gũi với thiên nhiên, tránh
cuộc sống chạy theo nhu cầu vạt chất. Còn Phật giáo khuyên con người ăn ở hiền
lành, không sát sinh, không làm hại người khác. Nho gia đặt vấn đề xây dựng con
người một cách thiết thực hơn. Họ hướng con người vào tu thân và thực hành đạo đức
là hoạt động thực tiễn căn bản nhất. Tất cả mọi vấn đề điều lấy đạo đức làm chuẩn.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là giúp con người xác định đúng và làm
tròn trách nhiệm trong năm mối quan hệ cơ bản (ngũ luân), đó là: vua tôi, cha con,
anh em, vợ chồng, bạn bè. Và Nho gia còn chỉ ra con đường phấn đấu trước hết là
phải tu dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình, góp phần vào việc quản lý
đất nước, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ (Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).
Trong mỗi học thuyết nêu trên của triết học Trung Quốc đều có mặt tích cực và
hạn chế của nó. Trong đó, tư tưởng triết học Nho gia về con người và việc xây dựng, tu

dưỡng con người là có tính hợp lý hơn cả. Nó thực sự góp phần to lớn vào việc củng cố
trật tự xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, nhưng đồng thời cũng là một trong những
nguyên nhân làm trì trệ xã hội đó.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, triết học phương Đông đã rất quan tâm
nghiên cứu vấn đề con người, nhưng cơ bản đều mang nặng tính chất duy
tâm, thần bí. ở đây, con người mới chỉ hiện diện chủ yếu dưới gốc độ: con
người đạo đức, con người chính trị, còn những yếu tố khác hầu như chưa đề
cập đến.
1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây


5
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua từng
thời kỳ, với hai khuynh hướng chủ yếu là duy vật và duy tâm.
1.2.1. Thời cổ đại
Vượt lên thế giới quan duy tâm, tôn giáo, các nhà triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại mặc dù còn ở trình độ trực quan, chủ nghĩa duy vật còn thô sơ, mộc mạc
và phép biện chứng mang tính tự phát, nhưng chứa đựng những mầm mống của
thế giới quan duy vật sau này. Trong đó, tư tưởng về con người có mặt tiến bộ.
Chẳng hạn, Đêmôcrít cho rằng con người và linh hồn của con người được cấu tạo
từ nguyên tử và khoảng không. Con người, theo ông là động vật có khả năng học,
có cảm giác, năng động; linh hồn con người là tổng thể các nguyên tử và là cơ sở
của mọi hoạt động cũng như sức sống của con người. Đêmôcrít có quan điểm duy
vật về cảm giác. Ông cho rằng, cảm giác dễ chịu là tiêu chuẩn của điều tốt, ngược
lại, cảm giác khó chịu gây nên sự đau khổ, là tiêu chuẩn của điều xấu. Vì thế, con
người tìm những cảm giác dễ chịu và tránh những cảm giác khó chịu, cũng có
nghĩa là con người vượt tới điều thiện và tránh điều ác. Đêmôcrít cho rằng sự
hoàn thiện đạo đức là có thể có được nhưng phải dưới sự chỉ đạo của lý trí. Lý trí
hướng con người vào mục tiêu đúng đắn. Do vậy phải thường xuyên trau dồi lý
trí và tiếp thu những quy luật của tự nhiên, quy luật hành động của con người.

Ông cho rằng con người hành động không đúng là do không hiểu được cái đúng.
Cho nên, theo ông, xét cho cùng vấn đề trau dồi đạo đức là vấn đề làm sao cho
con người đạt được những tri thức cần thiết. Tuy nhiên, điều hạn chế của ông là
không chỉ ra được tiêu chuẩn của đúng và không đúng, tốt và xấu…Đây là chỗ
trống mà chủ nghĩa duy tâm thường tấn công. Arixtốt không trực tiếp bàn đến vấn
đề con người, mà chỉ tập trung đề cập về đạo đức con người. Ông cho rằng không
phải hy vọng vào Thượng đế áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức,
mà việc phát hiện ra nhu cầu trên trái đất, phát triển những quyền lợi chính trị,
khoa học mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức. Ông coi
đạo đức có liên quan mật thiết với chính trị. Arixtốt xác định cái gì phục vụ được
cho nhà nước và củng cố trật tự đang tồn tại, cái đó là phẩm hạnh. Để có được
phẩm hạnh, con người phải thông qua hoạt động thực tiễn. Trong đạo đức của
Arixtốt, phạm trù chính nghĩa đứng ở vị trí trung tâm. Ông cho rằng con người


6
chỉ có thể đạt được chính nghĩa trong quan hệ với người khác, cho nên trong thực
hành chính nghĩa, con người tự thể hiện mình trước hết như một thực thể chính
trị, xã hội. Hạnh phúc của con người là điều thiện, luôn gắn với nhận thức, ước
vọng và sự tiến bộ. Êpiquya đem triết học giải phóng tinh thần con người và đối
lập với tôn giáo. Ông cho rằng những yêu cầu, quyền lợi và khát vọng của con
người phản ánh bản chất con người. Do vậy, nhiệm vụ của đạo đức là dạy cho
con người biết lựa chọn những thích thú một cách khôn ngoan, biết thoả mãn
những mong ước tất yếu, tránh xa những mong ước vô nghĩa và phản tự nhiên.
Học thuyết của ông chống lại tôn giáo, chống lại nỗi sợ hãi về cái chết. Theo ông,
sự anh minh giúp con người thoát khỏi sự sợ hãi, thoát khỏi những dư luận giả
dối, đem lại cho con người niềm tin chân lý, gợi cho con người lòng dũng cảm.
Sự anh minh còn làm cho con người ôn hoà, đem lại cho con người công lý. Do
vậy, sự ôn hoà là cái gốc, là nền tảng của cuộc sống hạnh phúc. Hêraclít là người
giải quyết một cách duy vật vấn đề “linh hồn” con người. Ông cho rằng linh hồn

của con người là do lửa tạo thành. Tuy nhiên, theo ông ngoài lửa ra, linh hồn còn
có chỗ ẩm ướt, cho nên mới sinh ra người tốt, người xấu. ở người nào càng nhiều
yếu tố lửa bao nhiêu thì anh ta càng tốt bấy nhiêu vì tâm hồn anh ta khô ráo. Và
ông còn nhấn mạnh, hạnh phúc con người không phải là sự hưởng lạc đơn thuần về
thể xác mà là ở việc biết suy nghĩ, nói và hành động tuân theo giới tự nhiên.
Prôtago là nhân vật tiêu biểu của phái nguỵ biện, nhưng ông có quan điểm về con
người khá nổi tiếng “Con người là thước đo tất thảy mọi vật”. Luận điểm này rất
đề cao vai trò, vị trí của con người trong thế giới hiện thực. Theo ông, chính cái lợi
cho con người là chuẩn mực để đánh giá và phán xét mọi cái, kể cả tri thức và các
chuẩn mực đạo đức. Song, hạn chế của ông là ở chỗ chưa nhận thấy nền tảng
khách quan của chân lý và các chuẩn mực đạo đức. Có những cái lợi đối với người
này nhưng lại có hại đối với người khác. Bản thân ông cũng chưa hiểu được cái lợi
của con người theo nghĩa rộng, chưa hiểu được nó ở quy mô xã hội, nhưng những
quan niệm trên của Prôtago mang nhiều ý nghĩa tích cực, là đỉnh cao của tư tưởng
đề cao con người, coi con người là trung tâm của mọi vấn đề trong triết học cổ đại
Hy Lạp.


7
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những người theo chủ
nghĩa duy tâm lại đi tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những lực lương
siêu tự nhiên. tiêu biểu là Xôcrát và Platôn.
Theo Xôcrát, thế giới do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Cn
người không nên tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần. Con người hãy
tìm hiểu chính bản thân mình. Còn Platôn cho rằng ý niệm có trước tất cả, là
nguồn gốc của thế giới. ý niệm tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm có
hai phần: hồn và xác tồn tại độc lập với nhau. Thể xác được tạo thành từ đất,
nước, lửa, không khí, nên có thể mất đi. Còn linh hồn thì bất tử, bao gồm: lý tính,
lý trí và tình cảm.
Nhìn chung quan niệm về con người, việc xây dựng và phát huy nhân tố

con người trong thời kỳ cổ đại còn đơn sơ, mộc mạc, chứa đựng nhiều yếu tố duy
tâm, tôn giáo. Con người vẫn sống trong thế giới tối tăm, hà khắc, chưa có điều
kiện phát triển cá nhân.
1.2.2. Thời trung cổ
Bước sang thời trung cổ, là thời kỳ hình thành và phát triển phương thức sản
xuất phong kiến. Trong xã hội phong kiến, trình độ sản xuất còn thấp kém, chủ yếu là
sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc, khép kín. Giai cấp địa chủ nắm quyền tổ chức, quản lý
sản xuất và phân phối sản phẩm. Đạo cơ đốc đóng vai trò là hệ tư tưởng của xã hôi.
Giáo lý của nó được coi như nguyên lý chính trị của xã hội phong kiến, trong đó kinh
thánh được xem là luật lệ, nhà trương trong tay thầy tu, giáo hội độc quyền chi phối văn
hoá. Thời kỳ này, triết học phát triển yếu ớt và có sự thụt lùi so với thời kỳ cổ đại. Triết
học chủ yếu phục vụ tôn giáo và chịu sự kìm kẹp của tư tưởng thần học. Từ đó triết học
kinh viện ra đời và trở thành “đầy tớ của thần học”. Do vậy, tư tưởng về con người có
nhiều điểm hạn chế, chủ yếu là nằm dưới cái vỏ bộc của thần thánh.Con người vừa chịu
sự bóc lột của các lãnh chúa và chịu sự mê muội của tôn giáo. Họ coi con người như là
một sinh vật thụ động, chỉ biết thờ phụng chúa, khát khao hạnh phúc mơ hồ, viển vông
trong tuyệt vọng. Ôguýxtanh cho rằng, trên tràn thế – nơi con người và loài người đang
sống, vương quốc của điều ác là nhà nước, vương quốc của Thượng đế là nhà thờ. Ông
là người luôn bảo vệ sự bất bình đẳng xã hội và cho rằng Thượng đế có quyền ban
thưởng cho người này được sướng và bắt người kia phải khổ. Do vậy, ông khuyên


8
người nghèo chỉ nên yêu cái không lấy được, không nên yêu của cải, chỉ nên yêu
Thượng đế, vì cuộc sống những năm tháng ở trần gian là tạm bợ, là quỷ sứ, còn “thiên
đàng” mới là hạnh phúc. Tômát Đacanh lại ca ngợi chế độ bất bình đẳng và trật tự đẳng
cấp trong xã hội. Ông cho rằng chính quyền của vua chúa là do Thượng đế sáng tạo ra.
Dân phải phục tùng vua, vua phải phục tùng Giáo hoàng La Mã. Như vậy cao hơn hết
là quyền lực của Thượng đế. Bêcơn là người dũng cảm lên án những tội lỗi của bọn
giáo sĩ và bọn phong kiến áp bức, chống lại Giáo hoàng, bênh vực quyền lợi của nhân

dân lao động. Vì những tư tưởng tiến bộ ấy, ông ta đã bị nhà nước phong kiến và Giáo
hội truy nã, bị cầm tù trong nhà tù của tu viện.
Về phương diện đạo đức, trên cơ sở xem xét con người một cách duy tâm thần
bí, nên các nhà triết học lúc bấy giờ coi đạo đức như là phương tiện để thực hiện
những mệnh lệnh của tôn giáo, đạo đức học gắn với thần học. Tuy nhiên, tư tưởng về
đạo đức của các nhà triết học thời trung cổ cũng có những nhân tố hợp lý của nó, đó là
có thiên hướng bàn về lý tính, tiến lên phía trước trong thái độ thừa nhận những tiêu
chuẩn ở bên ngoài cá nhân, phân biệt cái thiện và cái ác. Mặt khác, nhân tố hợp lý còn
được thể hiện ở chỗ có xu hướng nghiên cứu đạo đức như là một hệ thống nguyên tắc
khách quan, ước định trước và có ý nghĩa chung. Song, do đạo đức gắn với thần học
nên nó sa vào chủ nghĩa duy tâm khách quan, đồng nhất tính khách quan đạo đức với
tính thần thánh. Thượng đế là nguyên tắc tối cao của đạo đức. ý chí của Thượng đế là
hiện thân của sự tốt lành, của cái thiện và là cội nguồn của hạnh phúc.
Có thể nói, con người trong triết học thời trung cổ đã bị tước đoạt hết tính tự
nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, vật vờ,
tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới quyền lực vô biên của Đấng sáng tạo. Hệ tư
tưởng thời trung cổ đã bóp chết ý chí muốn vươn lên tự khẳng định mình, tự giải
phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời cổ đại đã đề cập.
1.2.3. Thời phục hưng và cận đại
Đến thời kỳ phục hưng và cận đại, là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được hình thành, xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị.
Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thúc đẩy khoa học, kỹ
thuật phát triển và tạo ra thị trường hàng hoá rộng lớn, phá vở toàn bộ nền kinh tế
phong kiến có tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc, khép kín. Chủ nghĩa kinh viện và


9
thần học bị đánh đổ; các giá trị về con người và nền văn hoá Hy Lạp cổ đại được
khôi phục và phát triển; con người được giải phóng khỏi sự mê muội của tôn giáo,
có điều kiện phát triển mạnh mẽ cá nhân. Đây là thời kỳ mà các nhà sử học gọi là

thời kỳ phát hiện ra con người trong thế giới và cả thế giới trong con người. Cùng
với sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa cá nhân được hình
thành và phát triển, từng bước đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh cho việc
giải phóng con người khỏi những xiềng xích của chủ nghĩa phong kiến và giáo hội.
Đặc biệt bước sang thời kỳ cận đại, khi khuynh hướng lý tính được coi là cơ sở để
cải tạo cuộc sống hiện đại, các nhà triết học khai sáng lấy việc truyền bá tri thức tốt
đẹp một cách rộng rãi cho mọi người làm nhiệm vụ chính của mình. Họ cho rằng, vũ
trụ là vật chất, vũ trụ là vô tận, vĩnh hằng, luôn vận động. Con người là một bộ phận
của giới tự nhiên, là một động vật suy nghĩ nhờ các giác quan. Tư tưởng con người
chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường và
điều kiện sống (Lamêtri). Con người là một thực thể thống nhất hữu cơ của hai mặt
thể xác và linh hồn. Cơ thể của con người có khả năng cảm giác và ghi nhớ. Linh
hồn của con người là tổng thể các hiện tượng tâm lý, có đặc tính vật chất, không có
cơ thể thì linh hồn không là cái gì cả (Điđrô). Con người là sản phẩm của hoàn cảnh,
của xã hội nên cần thay đổi hoàn cảnh xã hội, quan hệ phong kiến (Henvêtiúyt). Bên
cạnh đó,các nhà triết học khai sáng còn cho rằng bản tính của con người vốn không
ác. Sở dĩ xã hội có cái ác là do sự khiếm khuyết của các quan hệ xã hội và nền giáo
dục không đúng đắn. Con người được giáo dục đúng đắn tức là sự khai sáng. Những
tư tưởng duy vật và tiến bộ của các nhà triết học khai sáng đã phủ định hoàn toàn
quan điểm duy tâm, tôn giáo, quan điểm siêu hình về con người. Họ coi “ánh sáng
tự nhiên của trí tuệ” là phương pháp cơ bản và độc lập với cuồng tín tôn giáo để
nhận thức thế giới, để hoàn thiện xã hội và đời sống xã hội. Các nhà triết học khai
sáng coi đấu tranh vì những quyền lợi mà thiên nhiên ban tặng cho mình là “con
người tự nhiên”. Việc tuyên truyền cho con người tự nhiên đã dẫn đến khẩu hiệu “tự
do, bình đẳng, bác ái”. Đây thực sự là tư tưởng đột phá, cởi trói con người khỏi
xiềng xích gông cùm của tầng lớp địa chủ phong kiến và sức mạnh thần quyền tôn
giáo; là một nấc thang trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, nó có ý nghĩa
cách mạng lịch sử khá sâu sắc. Tuy nhiên, tư tưởng này không triệt để, không thoát



10
khỏi những mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội tư bản, càng về sau tư tưởng
này càng bộc lộ bản chất phản động của nó. Bởi vì, do chế định của những điều kiện
kinh tế, chính trị ,xã hội ràng buộc họ; hơn nữa còn do hạn chế của chính bản thân
các nhà triết học. Do vậy, mặc dù thừa nhận tự nhiên, nhưng họ lại diễn đạt bằng
thần “tự nhiên thần luận”, tư tưởng của họ thoả hiệp với thần quyền tôn giáo.
Nét nổi bật trong triết học thời phục hưng và cận đại là sự phủ nhận quyền lực
của Đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trò của lý trí, đề cao
các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người.
1.2.4. Con người trong triết học cổ điển Đức
Kế thừa tư tưởng về con người trong lịch sử triết học nhân loại từ cổ đại đến cận
đại thế kỷ XVII – XVIII, triết học cổ điển Đức thừa nhận con người là một chủ thể,
đồng thời lại là kết quả của quá trình hoạt động của mình. Mặt khác, Cantơ và sau này
Hêghen đều khẳng định mỗi con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định,
do vậy con người mang bản chất xã hội. Cantơ cho rằng, với tư cách là chủ thể của thế
giới, con người luôn tích cực hoạt động cải tạo thế giới. Tuy nhiên. hoạt động thực tiễn
ở đây được ông hiểu trong giới hạn chính trị – xã hội nhất định, chứ không phải là hoạt
động sản xuất vật chất.
Với xuất phát điểm là tinh thần, là ý niệm tuyệt đối, Hêghen coi thế giới vật
chất là con người vô cơ, con người ở giai đoạn chưa hình thành. Còn con người
bằng xương, bằng thịt theo Hêghen là con người đã phát triển đầy đủ, là con người
trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của nó. Như vậy, từ điểm
xuất phát của triết học đã xác định, Hêghen đã quy mọi quá trình của hiện thực về
quá trình tư duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử tư duy, quy hoạt động thực tiễn
của con người về quá trình tự ý thức, tự nhận thức. Mặt khác, trong hiện tượng tinh
thần, Hêghen không chỉ coi con người là chủ thể như Cantơ, mà ông còn cho rằng
con người là kết quả của chính quá trình hoạt động của mình; tư duy và trí tuệ của
con người hình thành và phát triển trong chừng mực con người nhận thức thế giới;
ý thức con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng
phát triển thì ý thức của nó càng mạng bản chất xã hội. Đây là những tư tưởng khá

tiến bộ của Hêghen, tiếc rằng nó được đặt trên nền tảng duy tâm.


11
Đối lập với Hêghen, Phoiơbắc coi con người là sản phẩm cao nhất của giới
tự nhiên, chứ không phải là nô lệ của Thượng đế hay nô lệ của tinh thần tuyệt đối.
Với quan điểm duy vật này ông đã chống lại quan điểm duy tâm về con người và
chống sự tách rời có tính chất nhị nguyên luận về linh hồn và thể xác. Ông khẳng
định, chính con người sáng tạo ra thượng đế, chứ không phải thượng đế sáng tạo ra
con người như quan niệm của tôn giáo và thần học đã từng đề cập. Bản chất thần
thánh không là cái gì khác mà chính là bản chất con người được tinh chế, khách
quan hoá, bởi tôn giáo là sự tha hoá của con người về mặt tinh thần. Theo
Phoiơbắc, bản chất tự nhiên của con người là luôn hướng tới cái chân, cái thiện, cái
mỹ, nhưng trên thực tế những cái đó con người không đạt được nên họ đã gửi gắm
tất cả những ước muốn cao đẹp của mình vào hình tượng Thượng đế. Tuy nhiên,
do thế giới quan không triệt để, nên con người trong quan niệm của Phoiơbắc là
con người chung chung, trừu tượng, con người phi lịch sử, phi giai cấp, mang
những thuộc tính sinh học, bẩm sinh. Ông chỉ thấy con người tự nhiên, chứ không
thấy con người xã hội, và càng không thấy vai trò hoạt động thực tiễn trong nhận
thức và cải tạo thế giới của con người.
Như vậy, trước những thành tựu của phương thức sản xuất tư bản, các nhà
triết học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con người, song do ảnh
hưởng của phương pháp siêu hình, sự đề cao ấy tới mức cực đoan. Cantơ và
Hêghen đã thần thánh hoá năng lực của con người dẫn đến duy tâm, khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội là kết quả hoạt động của con người.
Phoiơbắc tuy không đề cao như vậy, nhưng lại hiểu con người chỉ theo nghĩa trần
tục, bằng xương, bằng thịt, nên dẫn đến tư duy máy móc, siêu hình. Tuy nhiên,
giá trị tư tưởng về con người trong triết học cổ điển Đức là ở chỗ nó khẳng định
tư duy, ý thức chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế
giới; con người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả hoạt động của một thời đại

lịch sử nhất định.
Tóm lại, trải qua gần hai nghìn năm, với nhiều trào lưu triết học khác nhau,
nhưng chưa có nhà triết học nào hay trường phái triết học nào luận giải một cách
đầy đủ và khoa học về vấn đề con người.


12
Các nhà triết học thời cổ đại coi con người như là một tiểu vũ trụ. Quá
trình hình thành và phát triển của mỗi con người được gắn liền với định mệnh
và số phận. Số phận đó bị quy định bởi ý chí của tạo hoá. Còn trong hệ thống
thế giới quan tôn giáo, con người được coi như một thực thể nhị nguyên, là
sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác, trong đó thể xác là cái nhất thời, tinh
thần mới là cái vĩnh viễn. Các học thuyết triết học duy tâm lại tuyệt đối hoá
hoạt động của đời sống tinh thần, coi toàn bộ thế giới tinh thần như một thực
thể hoàn chỉnh. Chẳng hạn, Hêghen cho rằng, con người là hiện thân của “ý
niệm tuyệt đối”, còn Phoiơbắc lại tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người,
chia cắt con người khỏi các quan hệ xã hội hiện thực, con người chỉ là sản
phẩm của giới tự nhiên.
Các quan điểm trên đây, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy
tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản
chất con người. Nhìn chung các quan điểm trên đều xem xét con người một
cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối
hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con
người.
II. quan điểm triết học mác – lênin về con người
2.1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về nguồn gốc con người
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên thành tựu của
khoa học tự nhiên, các nhà triết học Mác xít khẳng định: con người vừa là sản
phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản
thân con người. Con người là thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã

hội, là thực thể sinh vật – xa hội, là sản phẩm cao nhất trong quá trình tiến hoá của
tự nhiên và lịch sử – xã hội. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác nói: “Như
vậy, là sự sản xuất ra đời sống – ra đời sống của bản thân mình bằng lao động,
cũng như ra đời sống người khác bằng việc sinh con, đẻ cái – biểu hiện ngay ra là
một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã
hội”(32 – tr 42). Như vây, theo C.Mác, con người trước hết là một động vật, là sản
phẩm của sự tiến hoá lâu dài của giới sinh vật như thuyết tiến hoá của Đácuyn đã
khẳng định. Trên nền tảng tư duy đó, Ph.ăngghen nhấn mạnh thêm: “Bản thân cái


13
sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người
không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”(39 – tr
146). Cũng giống như những động vật khác, con người là một bộ phận của giới tự
nhiên “Giới tự nhiên … là thân thể vô cơ của con người… đời sống thể xác và đời
sống tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”(44 – tr 135). Nhưng con
người khác động vật vì con người còn là một thực thể xã hội. “Người là giống vật
duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần tuý là loài vật”(40 –
tr 673). Như vậy, con người không phải là một động vật thuần tuý mà là một “động
vật xã hội” – một thực thể sinh vật – xã hội; con người “bẩm sinh đã là sinh vật có
tính xã hội”(31 – tr 200).
Như vậy, con người theo quan điểm triết học Mác – Lênin là sự thống
nhất hữu cơ giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học đó là mặt tự
nhiên,vật chất, nhục thể sinh vật. Con người là sản phẩm của quá trình tiến
hoá lâu dài của tự nhiên và cũng chịu sự chi phối của các quy luật sinh học,
như: di truyền, biến dị, sống chết của cơ thể…Mặt sinh học của con người có
những nét chung với động vật cao cấp nhưng đã được cải tạo nhờ mặt xã hội.
Còn mặt xã hội, đó là thế giới tinh thần, ý thức, các hoạt động, lao động, sáng
tạo…mà ở con vật không thể có. Con người chỉ tồn tại với tư cách người khi
sống trong xã hội, có quan hệ với nhau, có hoạt động xã hội cho mình và

đồng loại, chịu sự tác động của quy luật xã hội. Mỗi con người sinh ra đều
sống và được nuôi dưỡng trong một xã hội nhất định, nên con người bị quy
định bởi thời đại, xã hội mà mình đang sống. Vì vậy, “bản thân xã hội sản
xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất
ra xã hôi như thế”(45 – tr 169) và “chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có
được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của
mình”(33 – tr 108). Xã hội là xã hội của con người, do con người và vì con
người. Điều đó có nghĩa, thông qua các quan hệ xã hội, như: quan hệ sản
xuất, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình…, con người mới
tồn tại, phát triển, hoàn thiện và thể hiện được chính mình.


14
Không có con người thì không có bất kỳ một sự phát triển nào và xã hội
phát triển đến đâu thì con người cũng phát triển đến đó. Sự phát triển của con
người là thước đo sự phát triển của xã hội. Con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội. Do đó, để phát triển con người cần phải phát
triển xã hội và ngược lại, để phát triển xã hội cần phải phát triển con người, đó là
mối quan hệ biện chứng của quá trình phát triển lịch sử – xã hội.
2.2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất con người
Xã hội là bộ phận đặc biệt của thế giới vật chất, còn con người là những tế bào
cấu thành “bộ phận đặc biệt ấy”. Nói cách khác, nói đến con người là con người xã
hội, còn nói đến xã hội là xã hội của chính con người.
Theo Ph. Ăngghen, con người sở dĩ trở thành người trước hết là nhờ vào
lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ - đó là hai sức kích thích chủ yếu
để biến loài vượn người thành con người thực sự. Chính trong quá trình lao động
sản xuất, con người bộc lộ hai loại quan hệ cơ bản mang tính khách quan, đó là:
Quan hệ của con người với giới tự nhiên được thể hiện ở lực lượng sản xuất và
quan hệ giữa con người với con người được thể hiện ở quan hệ sản xuất. C. Mác
viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta

không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau một cách nào đó để hoạt
động chung và để trao đổi hoạt động với nhau; và quan hệ của họ với giới tự
nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và
quan hệ xã hội đó”(38 – tr 552). Hơn nữa, mỗi con người, mỗi thế hệ người khi ra
đời không thể tự chọn cho mình những quan hệ sở thích, mà phải gia nhập ngay
vào quan hệ đã có, và dù muốn dù không cũng phải và tất yếu phải trở thành “cái
mang những mối quan hệ xã hội ấy”. Chính vì vậy, trong đời sống thực tiễn con
người không bộc lộ như là thực thể sinh vật (mặc dù cơ thể con người thuộc về
giới tự nhiên), mà là thực thể xã hội. Với ý nghĩa đó, C.Mác khẳng định: “Bản chất
con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”(34– tr
11). Qua luận đề này Mác muốn nói rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống


15
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Bản chất con
người không phải cái trừu tượng, mà là hiện thực, không phải là cái vốn có, có sẵn
trong mỗi cá thể riêng biệt mà là tổng hoà toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thực của
nó; không phải là cái tự nhiên - sinh học mà là lịch sử - xã hội.
Bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Do vậy, nếu tách khỏi đời
sống xã hội, khỏi môi trường văn hoá xã hội, con người không thể hình thành và
phát triển bản chất của mình được. Con người chỉ tồn tại thực sự, với tư cách người
khi đặt trong các mối quan hệ xã hội và tham gia các quan hệ xã hội. Hệ thống các
quan hệ tham gia quy định bản chất xã hội của con người bao gồm: Quan hệ kinh tế,
chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, khoa học; quan hệ cá nhân, nhóm,
giai cấp, cộng đồng; quan hệ gia đình, làng xóm, dân tộc…Trong đó, quan hệ kinh
tế, quan hệ sản xuất vật chất đóng vai trò chi phối, quyết định bản chất con người. Vì
vậy, để con người có thể phát triển toàn diện và được giải phóng triệt để, biện pháp
khoa học nhất, cách mạng nhất là phải phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ khi lực

lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì mới có đầy đủ điều kiện để
phát triển, giải phóng con người toàn diện. C.Mác nói: “Không phải chỉ một phương
pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phương pháp duy nhất để
sản xuất ra những con người phát triển toàn diện”43 – tr 688).
Trên cơ sở đó, C. Mác khẳng định, bản chất con người không phải cái có
sẵn, bất biến mà nó luôn vận động, phát triển theo sự vận động, biến đổi của
các quan hệ xã hội. Bởi vì, các quan hệ xã hội hiện thực tạo nên bản chất con
người không có sẵn, bất biến và không phải hình thành một lần là xong, mà có
quá trình hình thành, biển đổi, phụ thuộc quá trình hình thành, biến đổi các
quan hệ kinh tế ở mỗi quốc gia, dân tộc, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ xã hội có tính giai cấp, nên bản chất con
người được biểu hiện tập trung ở tính giai cấp. Do đó, muốn thay đổi bản chất
con người, cải tạo con người phải thay đổi, cải tạo những quan hệ xã hội.
2.3. Quan điểm triết học Mác – Lênin về quyền con người
Không chỉ dừng lại ở việc xác định nguồn gốc, bản chất con người, mà các nhà
triết học Mác xít còn đề cập đến quyền con người. Tuy nhiên, lòng khát khao tự do,
bình đẳng, bác ái; ước mơ về một xã hội không có bóc lột và lao động cưỡng bức và


16
không có cảnh nghèo khổ là đặc điểm chung của nhiều tư tưởng về nhân quyền xuất
hiện từ lâu trong lịch sử. Nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời quyền con người
mới được luận giải trên cơ sở khoa học. Theo quan điểm triết học Mác, quyền con
người là nhân quyền của từng cá nhân con người. Trong từng thời đại lịch sử cụ thể,
quyền con người gắn bó chặt chẽ với những quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản
xuất thống trị. Không có quyền con người chung chung, trừu tượng, siêu hình, phi giai
cấp, phi dân tộc và phi nhân loại như một số nhà tư tưởng đã từng quan niệm. Mỗi
con người bao giờ cũng tòn tại thực, họ sống và hoạt động trong một thời đại lịch sử
nhất định, một môi trường xã hội nhất định. Vì vậy, quyền con người là quyền của
mỗi con người cụ thể, quyền đó do thể chế chính trị của tưng quốc gia, dân tộc, thời

đại mà nó đang sống quy định. “thiên nhiên không sinh ra một bên là những người
chủ tiền và chủ hàng hoá, còn bên kia là những người chỉ làm chủ độc có sức lao
động của mình. Quan hệ ấy không phải là một quan hệ lịch sử – tự nhiên, mà cũng
không phải là một quan hệ chung cho tất cả các thời kỳ lịch sử”(35 – tr 254). Mỗi
quốc gia, dân tộc, trong một thời đại lịch sử nhất định, sẽ có những quy định cụ thể về
quyền con người riêng. Sự phát triển của xã hội thể hiện thông qua quyền con người
sống trong xã hội đó. Song, điều đáng lưu ý ở đây là các ông xuất phát từ quyền tự do
cá nhân để nghiên cứu về quyền con người, việc bảo đảm và phát huy quyền tự do
của mỗi người như là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người
trong xã hội. Do vậy, vấn đề bảo đảm và phát triển quyền con người ở mỗi cá nhân có
ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó khai thác, huy động được động lực ở mỗi con người
trong xã hội. Tất nhiên, nói đến cá nhân là nói tổng thể nhu cầu và quan hệ xã hội của
mỗi cá nhân như một nhân cách. Vì vậy, mọi nhu cầu về quyền của cá nhân chỉ có thể
được coi là hợp lý và được thoả mãn khi nó đặt trong quan hệ với người khác, với
cộng đồng. Chỉ có trong một cộng đồng, cá nhân mới có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân, và do đó mới có tự do cá nhân.
Trên cơ sở luận giải về quyền con người, các nhà triết học Mác xít còn đề
cập đến quyền công dân. Theo các ông, hai khái niệm này tuy nội hàm có khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau. Trong đó, quyền công dân là những quyền chính
trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên “xã hội công dân”,
còn quyền con người là những đặc quyền chỉ có con người mới có, với tư cách là


17
con người, là thành viên của xã hội loài người. Sự phân biệt này không những có ý
nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc bảo vệ quyền
con người ở mỗi quốc gia. Khẳng định quyền con người, các ông đồng thời cũng
khẳng định nghĩa vụ của con người. Mỗi người đều có quyền hưởng thụ và cống
hiến. Hai quyền này luôn đi đôi với nhau. Nghĩa vụ của con người là phải đòi
quyền con người, quyền công dân không những cho mình mà còn cho bất kỳ người

nào. Đồng thời, mỗi con người đều phải có trách nhiệm đấu tranh, xây dựng và
phát triển xã hội, tạo điều kiện thực hiện hoá quyền con người, quyền công dân.
2.4. Quan điểm triết học Mác – Lênin về giải phóng con người
Vấn đề cốt lõi, trung tâm nhất trong triết học Mác – Lênin là vấn đề giải
phóng con người, từ giải phóng con người cụ thể tiến tới giải phóng toàn nhân loại.
Điều này thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là “vĩnh viễn giải
phóng toàn thể xã hội khỏi ách bốc lột, ách áp bức”(42 – tr 11-12). Song “xã hội
không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân
riêng biệt”(41 – tr 406).
Tư tưởng giải phóng con người đã có khá lâu trong lịch sử, tuy nhiên các
học thuyết trước Mác đều không lý giải một cách đúng đắn, khoa học. Chẳng
hạn, các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con
người là giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt cuộc sống cực lạc
vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài giới tự nhiên. Do vậy, đây chỉ
là sự giải phóng hư ảo, hoang đường, là liều “thuốc phiện của nhân dân”(30 – tr
570). Các nhà duy vật trước Mác hoặc không thấy được tính xã hội của con
người, hoặc không thấy các quan hệ xã hội của con người, hoặc nhận thức về
con người một cách trừu tượng, nên không xác định đúng nội dung, phương
pháp giải phóng con người. Giai cấp tư sản phương Tây mặc dù thực hiện cuộc
cách mạng giải phóng con người, nhưng do bản chất của chủ nghĩa tư bản, do
mục đích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên đồng thời với việc giải
phóng con người khỏi những ràng buộc của xã hội phong kiến, họ lại trói chặt
con người bằng ràng buộc khác nghiệt ngã hơn – ràng buộc về kinh tế. Đến nay,
ngay cả khi đời sống của người lao động đã được cải thiện, nâng cao nhưng sự
ràng buộc đó chẳng những không mất đi mà càng tăng lên dưới những hình thức


18
mới tinh vi hơn. Như vậy, mặc dù phương thức sản xuất tư bản có nhiều tiến bộ,
nhưng nó không những không xoá bỏ được “sự tha hoá con người”, không giải

phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, mà trái lại còn làm sâu sắc thêm
sự áp bức, bóc lột đó. Để xoá bỏ “tha hoá” và giải phóng con người, triết học
Mác – Lênin khẳng định:
- Trước hết, cần xoá bỏ “chế độ tư hữu tư sản”, bởi lẽ đó là thứ “sở hữu vận
động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động”(37 – tr 584-585) và chính nó
là nguồn gốc sinh ra mọi nô dịch trong chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, “sự giải phóng xã
hội khỏi sở hữu tư nhân,…khỏi chế độ nô dịch biểu hiện thành hình thức chính trị
của sự giải phóng công nhân, hơn nữa ở đây vấn đề không phải chỉ biểu hiện thành
sự giải phóng của họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng xã hội”(29 – tr
100-101).
- Sự nghiệp xoá bỏ tha hoá, giải phóng con người cần thiết và phải là sự
nghiệp của quần chúng lao động, mà trong đó giai cấp vô sản là lực lượng nòng cốt
và quyết định. Bởi, theo C. Mác chỉ có giai cấp vô sản mới có khả năng bảo đảm tự
do và bình đẳng thực sự cho tất cả mọi người.
- Sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá trình
lâu dài. Nó phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
vào điều kiện vật chất bắt buộc của sự nghiệp giải phóng con người. C. Mác
viết: “Người ta mỗi lần đều giành được tự do chừng nào việc đó không phải do
lý tưởng về con người mà do lực lượng sản xuất hiện hành quyết định và cho
phép”(36 – tr 593-594).
Như vậy, quan điểm triết học Mác - Lenin về vấn đề con người, giải phóng
và phát triển con người đã có sự thay đổi căn bản về chất so với các nhà triết học
trước đó. Các ông không chỉ phê phán, đưa ra những điểm hạn chế của các trào
lưu triết học trong lịch sử, mà còn khẳng định nguồn gốc, bản chất con người trên
quan điểm duy vật lịch sử; không chỉ tìm ra con đường, cách thức giải phóng con
người một cách triệt để, mà còn đưa ra các giải pháp phát triển con người toàn
diện.
III. vấn đề phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước



19
Nghiên cứu tư tưởng về con người trong các trào lưu triết học nói chung,
quan điểm triết học Mác – Lênin nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong giáo dục và đào tạo. Đây là cơ
sở khoa học cho quan điểm xem xét con người phải xuất phát từ tính hiện thực và
toàn diện; khắc phục tính trừu tượng, chung chung xa rời thực tiễn và duy tâm,
siêu hình. Đồng thời, đây còn là cơ sở để quán triệt quan điểm, đường lối của
Đảng ta về con người và phát huy nhân tố con người trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, nhất là trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về con người và
phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước
Vận dụng tư tưởng và quan điểm của các nhà triết học trước Mác nói chung và
triết học Mác – Lênin nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của
nhân tố con người đối với sự nghiệp cách mạng, Người nói: “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải
có những con người xã hội chủ nghĩa”(28 – tr 303). Người nói thêm, chủ nghĩa xã hội
không phải từ trên trời rơi xuống, và cũng không phải từ dưới đất mọc lên, cũng
không phải là một chế độ xã hội có sẵn để con người đến ở mà “chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu
người”(27 – tr 495). Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì cho rằng “Cuộc chiến đấu
và chiến thắng của con người Việt Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cũng
như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chung quy lại là thắng lợi của con
người”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc
hơn vai trò nhân tố con người đối với sự phát triển của xã hội, ngay trong bản
chính cương vắn tắt đầu tiên năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
mục đích tiến hành cách mạng là để “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn

phong kiến”, giải phóng dân tộc, giải phóng những người cần lao khỏi ách áp
bức, bóc lột. Và cương lĩnh còn xác định “đi tới xã hội cộng sản” là điều kiện
thực tế để thực hiện được sự giải phóng ấy. Tại Đại hội III, Đảng ta xác định “con


20
người là vốn quý nhất”, đến Đại hội IV, Đảng ta đã đưa ra luận điểm “con người
mới – con người làm chủ tập thể”. Đây là sự vận dụng sáng tạo và cụ thể hoá
quan điểm về “quyền con người” và “quyền công dân” của triết học Mác. Đại hội
V, Đảng ta tiếp tục phát triển luận điểm con người mới, đồng thời nhấn mạnh
lòng nhân ái là truyền thống đặc trưng của nhân dân ta. Đến Đại hội VI, Đảng ta
khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người trong toàn bộ sự phát triển
kinh tế – xã hội. Đặc biệt, tại Đại hội VII, cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua, trong đó, vấn đề con người
được Đảng ta đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Cương lĩnh xác định: “Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực
con người Việt Nam”. Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương (khoá
VII), nhận thức về vai trò nhân tố con người của Đảng ta được nâng lên một tầm
cao mới. Đảng ta cho rằng: “Sự phát triển con người quyết định mọi sự phát triển
như sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá…”. Và cũng tại Hội
nghị này, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói: “Chúng ta cần hiểu sâu sắc
những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của
mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của quốc
gia”. Đây chính là sự cụ thể hoá sâu sắc tư tưởng con người lịch sử, con người xã
hội trong triết học Mác vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Tại Đại hội VIII, Đảng
ta khẳng định: “phát triển đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”(4 –

tr 80). Tư tưởng đó không chỉ thể hiện ước mơ, khao khát, nguyện vọng chính
đáng bao đời nay của dân tộc ta, mà hơn thế nữa nó hoàn toàn phù hợp với xu thế
và quy luật phát triển của thời đại. Đối với nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu,
do vậy, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là thực hiện một cuộc
cách mạng toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, là
con đường tất yếu để đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực. Đồng thời, đây còn là


21
cơ sở vật chất tốt nhất để nước ta có điều kiện giải phóng triệt để và phát triển con
người một cách toàn diện. Đây là công việc vô cùng khó khăn, gian khổ, thành công
của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó Đảng ta “lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”(5 – tr 85). Trên
nền tảng tư duy đó, Đại hội xác định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”(6 – tr 21).
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm cơ bản về
con người và phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đại hội xác định, con người vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của phát triển kinh tế – xã hội.
Xác định con người là động lực phát triển kinh tế – xã hội, Đại hội chỉ
rõ: “Nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững”(9 – tr 108-109), và Đại hội còn khẳng định động
lực chủ yếu: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo
kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của xã hội”(10 – tr 86). Đại hội cũng
chỉ rõ, nguồn lực hàng đầu là năng lực trí tuệ: “Phát huy nguồn lực trí tuệ và
sức mạnh tinh thần của ngời Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa

học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá”(11 – tr 91). Do vậy, có thể nói, cùng với việc phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, việc khai thác, sử dụng và phát triển nguồn
nhân lực là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện thành công quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xác định con người là mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội, trên cơ
sở nhất quán những nội dung cụ thể được trình bày trong Nghị quyết Trung
ương 5 khoá VIII, Đại hội IX xác định: “Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong


22
gia đình, cộng đồng và xã hội, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc,
phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”(12 – tr 114).
Như vậy, trên cơ sở nhất quán với những nội dung cụ thể được trình bày trong
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, Đại hội IX nêu lên một cách khái quát về mô
hình con người Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó Đại hội bổ sung, làm rõ thêm
về con người phát triển toàn diện, có yếu tố mới như: trí tuệ, thể chất, năng lực sáng
tạo, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, ý chí tự lực tự cường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhất quán với quan điểm của các kỳ đại hội, nhất là quan điểm của Đại hội
IX, trên cơ sở tổng kết thực tiễn qua 20 năm đổi mới đất nước và những bài học của
các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tại Đại hội X, Đảng ta đưa ra những đặc
trưng cơ bản của mô hình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là: “một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện…”(22 – tr 68). Với các tiêu chí
này, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con người – tức toàn thể nhân dân, dân tộc, hiện
diện như mục đích chủ yếu, như yêu cầu trung tâm, có ý nghĩa quyết định. Các đặc
trưng này đã thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo quan điểm về vai trò của con người
trong triết học Mác của Đảng ta một cách sâu sắc và chặt chẽ trên tất cả các lĩnh
vực, để từng bước thực hiện mục tiêu giải phóng con người toàn diện.
Trên cơ sở nhất quán với các quan điểm của các kỳ Đại hội, nhất là Đại
hội VIII, Đại hội IX đưa ra các giải pháp cơ bản để phát huy vai trò nhân tố
con người trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
đó là:
Thứ nhất, “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội; tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững”(13 – tr 108-109).


23
Thứ hai, “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”(14 – tr 112).
Thứ ba, “Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…Mọi
hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”(15
–tr 114).
Thứ tư, “Giải quyết các vấn đề xã hội…thực hiện công bằng trong phân phối
tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất tăng năng suất lao động xã hội, khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp…giải quyết việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện
làm việc, mở rộng hệ thống bảo hiểm và an ninh xã hội; xây dựng và thực hiện
chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp; cải cách cơ bản chế độ tiền
lương cán bộ công chức theo hướng tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương; thực hiện chương

trình xoá đói giảm nghèo; thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ nhân dân”(16 – tr 104).
Trên nền tảng định hướng của Đại hội IX, Đại hội X, Đảng ta đưa ra các
quan điểm chỉ đạo mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước hiện nay,
bao gồm:
Một là, “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén
với cái mới”(23 – tr 71).
Hai là, “Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển
toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo
nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi
với xoá đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
vùng”(24 – tr 178-179).
Ba là, “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao”(25 – tr 95).
3.2. Quan điểm của Đảng ta về phát huy vai trò nhân tố con người
trong lực lượng vũ trang
Là lực lượng chính trị, lực lượng cách mạng tin cậy của Đảng, Nhà nước
và nhân dân, lực lượng vũ trang nhân nói chung, quân đội nhân dân nói riêng


24
phải được xây dựng ngày càng thiện chiến và hiện đại cả về chính trị và quân
sự, cả về kỹ thật và chiến thuật…đảm bảo khả năng sẵn sàng đánh thắng mọi
kẻ thù xâm lược dưới bất kỳ quy mô và hình thức nào, hoàn thành tốt chức
năng đội quân chiến đấu, lao động sản xuất và công tác trong thời kỳ mới.
Trên nền tảng tư tưởng đó, Đảng ta xác định, “Tăng cường quốc phòng, giữ vững
an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội và công an nhân dân là lực lượng nòng
cốt”(17 – tr 40, 117). Vì vậy, việc xây dựng quân đội nói chung và xây dựng đội ngũ cán

bộ nói riêng có ý nghiã hết sức quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Quan điểm đó được
thể hiện rõ nét qua các kỳ Đại hội.
Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Xây dựng quân đội nhân dân chính quy
ngày càng hiện đại có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân
đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến
đấu cao”(1 – tr 38).
Đến Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân có chất lượng ngày càng cao, xây dựng quân đội nhân dân
cách mạng chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp
lý, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu”(2 – tr 85-86), “Xây dựng lực
lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại”(7 – tr 119).
Trong văn kiện Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương hướng xây
dựng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Đồng thời, Đại hội đặt ra một số tiêu chí cơ bản trong xây dựng quân
đội để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình
hình mới, đó là: “Có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc, với Đảng và nhân dân; có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ
ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục vụ nhân dân; có phẩm chất đạo đức,
lối sống lành mạnh, giản dị, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang; có năng
lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào; có trình độ sẵn
sàng chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao, thường xuyên cảnh giác, kịp
thời đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn


25
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và an ninh quốc gia, ngăn chặn và đẩy lùi các tội
phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội”(18 –
tr 40-41, 118).
Để tăng cường sức mạnh chiến đấu cho quân đội ta hiện nay, tại Đai hội VII
Đảng ta đưa ra giải pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên ngày càng hùng hậu:

“Nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây dựng lực
lượng dự bị động viên hùng hậu được huấn luyện và quản lý tốt…”(3 – tr 85-86).
Đến Đại hội VIII Đảng ta nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội:
“Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của đối với quân
đội và công an…”(8 – tr 120). Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: tăng cường
sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp
thiết. Trước hết cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
+ Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với quân đội nhân dân và công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an
ninh”(19 – tr 40-41, 119).
+ Xây dựng bản lĩnh chính trị, trình độ tổ chức chỉ huy cho cán bộ các cấp, trước
hết là cán bộ lãnh đạo. “Không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên
môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và công tác vận động nhân dân, phát huy
vai trò tiên phong gương mẫu”(20 – tr 53-54), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là
cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức,
trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo,
gắn bó với nhân dân”(21 – tr 141).
Nhất quán với các quan điểm trên đây, căn cứ vào yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới đất nước trong điều kiện mới, trong văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn
diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính
trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và


×