Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

giai phap thuc day xuat khau hang det may VN sang thi truong hoa ky

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.93 KB, 91 trang )

Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Phần mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Dệt may là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, với kim
ngạch xuất khẩu lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững.
Hiện nay, Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ có tốc độ tăng trưởng
cao và bền vững.
Tuy nhiên, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam nói chung và xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng còn nhiều hạn chế cần giải quyết. Chỉ có thế
Việt Nam mới có thể tăng hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may trong những năm tới.
Chính vì thế, “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ” được chọn làm đề tài nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề:
Phân tích thực trạng xuất khẩu của mặt hàng dệt may Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Có một vài so sánh với các thị trường khác để thấy rõ
tầm quan trọng của thị trường Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam.
Những thành công và hạn chế, thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu từ 2000 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ


nghĩa Duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được sử dụng là: Phương pháp tổng hợp,
phân tích, quy nạp, khái quát hóa…
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

1


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Đóng góp của chuyên đề:
Cho biết tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong
khoảng thời gian từ 2000 đến nay.
Đề xuất những giải pháp cụ thể để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Kết cấu của chuyên đề:
Chuyên đề được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Chương 2: Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam và thị trường dệt may Hoa Kỳ
Chương 3: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ từ
năm 2000 đến nay
Chương 4: Triển vọng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

2



Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam
1.1.Khái niệm xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Trong lý luận Thương mại Quốc tế, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho
nước ngoài. Trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) thì xuất khẩu là việc bán hàng hóa cho nước ngoài.
Nếu các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu trong nước không
đổi, thì giá trị xuất khẩu sẽ phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và tỉ giá hối đoái. Nếu
như thu nhập của nước ngoài tăng (tăng trưởng của nước ngoài tăng tốc) thì giá trị xuất
khẩu có cơ hội tăng. Nếu tỉ giá hối đoái tăng (đồng tiền trong nước mất giá so với ngoại
tệ) thì giá trị xuất khẩu cũng có thể tăng vì giá hàng hóa tính bằng ngoại tệ trở nên thấp đi.
Trong thời gian qua, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên khá nhanh
và bền vững qua các năm.
Bảng 1.1: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
Năm Tổng kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (%)
2000
14482,7
2001
15029.2
3.78
2002
16706.1
11.16
2003
20149.3

20.61
2004
26485.0
31.44
2005
32447.1
22.51
2006
39826.2
22.74
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cũng liên tục tăng
nhanh và bền vững. Dệt may là một trong những mặt hàng có thể mạnh xuất khẩu của
Việt Nam. Là một trong những mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ 2, chỉ sau ngành dầu khí.
Bảng 1.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ 2000 – 2007
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

3


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

2007

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng trưởng (%)
1892
1962
3,7
2752
40,27
3600
30,8
4386
21,8
4837.5
11,21
5834
20,6
7780
33,36
(Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam)

Từ hai bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam. Nếu tính theo tỷ lệ phần trăm, tính cho năm 2006, tổng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may bằng 14.65% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
(theo Tổng cục Thống kê).
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam
1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất hàng dệt may Việt Nam

Đầu tiên, chúng ta biết Việt Nam là quốc gia có truyền thống lâu đời trong lĩnh vực
sản xuất hàng may mặc. Lý do đơn giản là vì Việt Nam có chiều dài lịch sử 4000 năm,
hơn nữa Việt Nam lại là nước có khí hậu khá phù hợp để trồng các loại nguyên liệu sản
xuất hàng may mặc.
Thứ hai, Việt Nam có lao động dồi dào và nhân công giá rẻ. Trong khi đó, dệt may
là một ngành cần nhiều lao động. Vì thế, đây là một yếu tố có tác động tích cực trong quá
trình sản xuất hàng dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên, năng suất lao động trong ngành dệt
may Việt Nam chưa cao. Vì thế không phải lúc nào đây cũng là một lợi thế để chúng ta có
thể cạnh tranh về giá thành sản phẩm.
Thứ ba, các cơ sở dệt may của Việt Nam được phân bố ở các vùng đông dân cư
sinh sống (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng…). Vì
thế có thể sử dụng lao động tại chỗ và một lần nữa giảm được chi phí sản xuất và tăng
tính cạnh tranh về giá cho hàng dệt may Việt Nam.

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

4


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Thứ tư, công nghệ sản xuất trong ngành dệt may của Việt Nam vẫn còn rất lạc hậu.
Điều này ảnh hưởng đến sản lượng, chất lượng cũng như năng suất lao động của công
nhân. Rất khó có thể tăng sản lượng một cách nhanh chóng nếu chúng ta không có biện
pháp nhập khẩu hoặc cải tiến trang thiết bị cũng như nâng cao tay nghề của công nhân.
Thứ năm, phần lớn nguyên phụ liệu của Việt Nam phải nhập từ nước ngoài. Điều
này sẽ ảnh hưởng một phần tới quá trình sản xuất. Việc phải nhập khẩu nguyên phụ liệu
cũng làm cho chúng ta mất chủ động trong khâu tổ chức sản xuất vì nguyên phụ liệu bị

phụ thuộc vào nước ngoài. Hơn nữa do thiếu nguyên phụ liệu nên Việt Nam phần lớn là
gia công cho nước ngoài. Do đó chúng ta chỉ lấy công làm lãi. Chính vì điều đó, nhiều
Công ty sản xuất hàng dệt may của Việt Nam không mặn mà lắm và không có sự cố gắng
hết sức trong hoạt động điều hành sản xuất.
Thứ sáu, yếu tố vốn, luật pháp và chính sách quản lý của Nhà nước đối với ngành
dệt may cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất hàng dệt may Việt Nam.


Theo ông Lê Quốc Ân – Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Dệt May Việt

Nam thì dệt may là một ngành có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư vì đầu tư vào ngành này
chỉ cần ít vốn mà tỉ suất lợi nhuận lại khá cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên,
ở đa số các Công ty Dệt may, tỉ lệ vốn vay nhiều và vốn tự có ít nên rất rủi ro. Vì thế có
thể nói đây là một yếu tố bất lợi cho hoạt động sản xuất hàng dệt may Việt Nam một khi
có rủi ro xảy ra. Nếu rủi ro xảy ra, hoạt động sản xuất ngay lập tức sẽ gặp nhiều khó khăn
và do đó khó có thể duy trì và ổn định trong thời gian tiếp theo.


Chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay là thúc đẩy xuất khẩu và dệt

may được xác định là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Do đó hoạt động sản
xuất dệt may cũng gặp nhiều thuận lợi từ các chính sách của Nhà nước.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Đầu tiên, lại là yếu tố lao động, Việt Nam tuy có lao động dồi dào và giá nhân công
rẻ nhưng chất lượng không cao. Kéo theo đó là năng suất thấp nên giờ công trên một đơn
vị sản phẩm có khi lại còn cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy trong xuất khẩu
chúng ta chưa phát huy được tối đa khả năng cạnh tranh về giá thành sản phẩm trên các
thị trường.
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ


5


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Thứ hai, vai trò của các cơ quan xúc tiến thương mại ở Việt Nam cũng như trên các
thị trường nước ngoài chưa được phát huy một cách triệt để. Vì thế có khi các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam không hiểu rõ về thị trường và luật pháp nước bạn nên
gặp phải một số rắc rối (ví dụ như bị kiện bán phá giá). Trong thời gian tới, hàng dệt may
của Việt Nam trên thị trường Euro (EU) và Hoa Kỳ rất có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ
bị kiện bán phá giá. Điều này sẽ gây khó khăn lớn cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam.
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu thị trường vào loại ít nhất thế giới.
Điều này sẽ gây trở ngại lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như hoạt động xuất
khẩu dệt may của Việt Nam ra thị trường thế giới nếu có bất cứ một trục trặc nào. Do
chúng ta không nắm rõ luật pháp của nước ngoài và không nghiên cứu kỹ thị trường nên
có thể gặp nhiều rủi ro. Vì thế, Việt Nam sẽ rất dễ bị thua thiệt nếu có xảy ra tranh chấp.
Thứ tư, do nhập khẩu quá nhiều nguyên phụ liệu và phần lớn là gia công thuê cho
nước ngoài, nên tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam rất ít so với
kim ngạch xuất khẩu. Vì thế kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam chưa phản
ánh một cách chính xác năng lực của ngành.
Thứ năm, vấn đề thương hiệu. Hàng dệt may Việt Nam không hề có thương hiệu
trên thế giới. Ở một vài thị trường tuy hàng dệt may có dán nhãn “made in Việt Nam”
nhưng lại không hề được khách hàng để ý đến. Đây chính là một điểm yếu lớn khiến cho
hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu ra các thị trường thế giới không nâng cao được khả
năng cạnh tranh của mình. Đó cũng là một hệ quả của việc thiếu tự chủ trong khâu
nguyên phụ liệu và gia công thuê cho nước ngoài.
Thứ sáu, yếu tố vốn, pháp luật và chính sách quản lý của Nhà nước với hoạt động

xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam:


Như trên đã nói, ở các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam vốn tự có ít và vốn vay là

chủ yếu nên rất rủi ro. Vì vậy, khi rủi ro xảy ra thì không những hoạt động sản xuất gặp
khó khăn mà nó còn làm đình trệ hoạt động xuất khẩu.


Bộ Công thương đã ra thông báo số 6494/TM – XNK ngày 24/12/2004 để hướng dẫn

xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU và Bộ Tài chính cũng ra quyết định số
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

6


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

02/3005/QĐ – BTC về việc bãi bỏ phí hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt, may sang thị trường
EU và Canada. Như vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể xuất khẩu theo khả
năng tối đa của mình sang các thị trường này. Hơn nữa, với sự kiện trở thành thành viên
chính thức của WTO vào ngày 11/01/2007, Việt Nam cũng được Hoa Kỳ dỡ bỏ hạn
ngạch. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam càng có cơ hội lớn để đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may sang những thị trường này.

Chương 2: Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam và thị trường dệt may Hoa
Kỳ

2.1. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm của ngành dệt may
2.1.1.1. Phân loại sản phẩm của ngành
Ngành công nghiệp dệt may bao hàm rất nhiều các ngành hàng: từ khâu đầu cung
cấp nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng là sợi, vải, hàng may mặc, các chuyên ngành
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

7


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

phục vụ cho công nghiệp dệt may như hóa chất, thuốc nhuộm, máy móc thiết bị... Ba loại
sản phẩm chính của ngành là sợi, vải, và hàng may mặc.
a. Phân loại sản phẩm sợi theo nguồn gốc
- Sợi có nguồn gốc thực vật:


Sợi bông (sợi 100% cotton) gồm hai loại: Sợi chải kỹ, chi số cao và sợi chải thô, chi

số thấp.


Tơ tằm.



Sợi tổng hợp hay sợi nhân tạo (ví dụ: sợi Polyeste, xơ visco) được sản xuất chủ yếu


từ phụ phẩm của ngành hóa dầu.


Sợi pha (sợi pha bông với các thành phần khác như PE, PA, PV…).

b. Phân loại sản phẩm vải
- Có thể phân loại theo loại sợi cấu thành vải (tương tự như phân loại sợi ở trên) thành vải
sợi bông, vải sợi tơ tằm, vải sợi tổng hợp… Cũng có thể phân loại theo kiểu dệt như sau:


Vải dệt thoi



Vải dệt kim



Vải không dệt

c. Phân loại hàng may mặc
- Có thể phân loại theo chất liệu vải của sản phẩm, cũng có thể phân loại theo mục đích sử
dụng như sau:


Hàng mặc mùa đông (các loại áo Jacket, Comple)




Quần áo thể thao



Quần âu và sơ mi các loại



Đồ lót



Ngoài ra còn có một số loại hàng dệt may khác như: Túi xách, các sản phẩm phục vụ

trang trí nối thất (áo gối, chăn, ga trải giường, thảm…)
2.1.1.2. Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của ngành lớn
Do các sản phẩm dệt may phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người là nhu cầu
mặc. Mà nhu cầu mặc của con người cũng lại rất phong phú và đa dạng, đòi hỏi phải có
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

8


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

nhiều chủng loại. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, nhu cầu “ăn no mặc ấm” đã chuyển
thành “ăn ngon mặc đẹp” để người ta thể hiện trình độ thẩm mỹ, sự văn minh của bản
thân mình. Vì thế, thị hiếu cũng như nhu cầu với các sản phẩm dệt may ngày càng thay

đổi nhanh chóng, yếu tố mốt cũng được chú trọng và đầu tư, vòng đời của sản phẩm ngày
càng thu hẹp (vòng đời của sản phẩm dệt may ngày nay thường chỉ là một năm, thậm chí
còn ngắn hơn). Do đó, nếu các nhà sản xuất đầu tư thích hợp vào nghiên cứu thị trường,
liên tục đổi mới sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường thì lượng sản phẩm tiêu
thụ hàng năm có thể tăng lên mạnh mẽ.
2.1.1.3. Sử dụng nhiều nhân công
Tỷ lệ lao động sốn trong sản xuất hàng dệt may tương đối cao, đặc biệt là đối với
Việt Nam – một nước có trình độ tự động hóa thấp. Trong các phân ngành sản xuất hàng
dệt may như kéo sợi, dệt vài, may đều cần nhiều khâu sản xuất quan trọng cần phải có sự
tham gia trực tiếp của con người mà máy móc không thể nào thay thế được. Ví dụ như
trong thời đại ngày nay, theo kinh nghiệm cho thấy thì việc thao tác và xử lý nhiều công
đoạn nhỏ, chi tết (cắt, ráp, may) hoàn toàn bằng máy một cách chính xác trên loại nguyên
liệu mềm và dễ xô lệch như vải là rất khó khăn và nếu có làm được thì chi phí cũng rất
cao.
Do đó, ngành dệt may là ngành thu hút rất nhiều nhân công, ở Việt Nam số lượng
lao động hoạt dộng trong ngành dệt may lên đến 2 triệu người, tức là khoảng hơn 4% lực
lượng lao động cả nước và chiếm khoảng 27% lao động công nghiệp trên toàn quốc
2.1.1.4. Hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện Việt Nam hiện nay
Công nghiệp dệt may Việt Nam là ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư không
lớn, công nghệ không quá phức tạp, suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh rất phù hợp với tổ
chức quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ, vì thế công nghiệp dệt may so với các
ngành công nghiệp khác có suất đầu tư thấp hơn rất nhiều (đặc biệt thấp hơn hàng chục
lần so với các ngành công nghiệp nặng như điện, cơ khí, luyện kim…). So sánh ngay
trong ngành công nghiệp sản xuất ra hàng tiêu dùng, suất đầu tư của ngành dệt may (đặc

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

9



Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

biệt là ngành may) cũng thấp hơn nhiều so với các ngành khác như ngành giấy, ngành da
giày…
Hơn nữa, do tính đặc thù sản xuất cũng như tiêu thụ sản p hẩm trong thời gian ngắn
nên thời hạn thu hồi vốn đầu tư đối với ngành dệt may cũng ngắn hơn nhiều so với những
ngành khác. Thông thường, thời gian thu hồi vốn đối với ngành dệt là 12 – 15 năm, ngành
may là 5 – 7 năm, trong khi đó đối với các ngành công nghiệp khác thời gian thu hồi vốn
là trên 15 năm, thậm chí là hàng chục năm, chẳng hạn như công nghiệp thép. Hơn nữa,
vòng đời sản phẩm trong ngành dệt may lại ngắn, thời gian quay vòng vốn nhanh (có thể
lên đến 4 – 5 vòng/năm) nên vốn không bị ứ đọng giúp doanh nghiệp tránh được những
rủi ro khi thị trường có nhiều biến động hay đồng tiền bị mất giá.
2.1.2. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam trong nền Kinh tế quốc dân
Dệt may là một trong những ngành công nghiệp cực kỳ quan trọng trong thời kỳ
đầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nhiều nước trên thế giới nói chung cũng như đối
với Việt Nam nói riêng.
Việt Nam là quốc gia có truyền thống lâu đời ở lĩnh vực dệt may, ngành dệt may
Việt Nam đã chính thức hình thành với sự kiện ra đời của nhà máy dệt Nam Định năm
1889.
Trong thời kỳ đầu hình thành và phát triển, ngành dệt may Việt Nam gặp khá nhiều
khó khăn vì công cụ, máy móc lạc hậu, và quan trọng là chưa được sự quan tâm đầu tư
của Nhà nước. Cho đến Đại hội Đảng VI, vai trò quan trọng của ngành dệt may mới được
chỉ ra và nhận thức một cách nghiêm túc, đúng đắn.
Cho đến nay, dệt may đã trở thành một trong những ngành nhận được sự quan tâm
đặc biệt của Nhà nước Việt Nam. Văn kiện đại hội VIII của Đảng khẳng định: “…phát
triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt may, da giầy, giấy, các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ, đầu tư hiện đại hóa các dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh

tranh của sản phẩm; chuyển dần việc nhận gia công dệt may, đồ da sang mua nguyên liệu,
vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu; coi trọng nâng cao năng lực tiếp thị để mở rộng thị
trường; khắc phục sự lạc hậu của ngành sợi – dệt…” Văn kiện đại hội IX của Đảng khẳng
định: “…phát triển các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

10


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

lĩnh được thị trường về tiêu dùng thiết yếu ở trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như chế
biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da giầy, điện tử và một số sản phẩm cơ khí và hàng
tiêu dùng trong toàn quốc…”
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người
dân trong nước, mặc dù Việt Nam là một nước đông dân và nhu cầu về hàng may mặc rất
lớn.
 Phục vụ nhu cầu tiêu dùng to lớn trong nước
Việt Nam là quốc gia có dân số đông thứ 13 thế giới (hơn 80 triệu người). Vì thế
nhu cầu về hàng dệt may của Việt Nam vô cùng lớn. Tuy vậy, do thu nhập thấp nên nhu
cầu hàng may mặc của Việt Nam chủ yếu là những loại hàng hóa thông thường, giá phải
chăng. Nắm bắt nhu cầu đó, trong thời gian gần đây, ngành dệt may không ngừng mở rộng
sản xuất, nâng cao năng suất, số lượng và chất lượng cũng như tìm cách hạ giá thành sản
phẩm, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước.
 Tạo sản phẩm xuất khẩu chủ lực
Phương hướng của hầu hết các nước trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa là phát
triển những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ. Ngành dệt may Việt Nam đã thể hiện tốt vai trò ngành hàng xuất khẩu chủ lực

trong những năm qua. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua
tăng trưởng nhanh và ổn định. Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong nhiều năm
qua luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Không chỉ có đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu, việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may còn góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia
khác, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể tìm hiểu và thâm nhập thị trường các
nước xuất khẩu không chỉ cho hàng dệt may mà còn cho những hàng hóa khác dựa vào
mối quan hệ thương mại do xuất khẩu hàng dệt may mang lại. Hơn nữa còn có thể tìm
nguồn cung cấp máy móc thiết bị cho các ngành sản xuất trong nước.
 Tạo công ăn việc làm
Do đặc thù của ngành, hoạt động sản xuất hàng dệt may thu hút nhiều lao động, lại
không yêu cầu tay nghề cao và thời gian đào tạo không cần dài, như vậy dệt may là một
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

11


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

ngành góp phần giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam trong điều kiện lao
động Việt Nam rất dồi dào mà trình độ của lao động lại thấp. Đánh giá được tầm quan
trọng của ngành dệt may, hiện nay nước ta đang thực hiện một “chiến lược tăng tốc phát
triển ngành dệt may đến năm 2010” với mục tiêu phát triển tất cả các phân ngành sợi, dệt,
may và sẽ thu hút khoảng 2,5 triệu lao động vào năm 2010.
Tạo công ăn việc làm không chỉ giúp tăng thu nhập, nâng cao mức sống của nhân
dân mà còn ngành góp phần ổn định kinh tế xã hội, làm giảm các tệ nạn xã hội do nạn thất
nghiệp gây ra như cờ bạc, rượu chè, trộm cướp…
 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã xác định là
cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm bớt tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tăng
tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế. Với sự phát triển nhanh chóng
trong thời gian qua, ngành dệt may đã đóng góp một phần không nhỏ vào tốc độ tăng
trưởng cao của ngành công nghiệp nước ta, làm tăng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp
so với ngành nông nghiệp. Ngoài ra, ngành dệt may còn thu hút được nhiều lao động nhàn
rỗi từ khu vực sản xuất nông nghiệp, góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, phát triển ngành dệt may một cách đồng bộ có bao gồm phát triển các
vùng nguyên liệu mà cụ thể ở nước ta là các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Đây là
những loại cây công nghiệp quan trọng, việc phát triển nó không những đảm bảo nguyên
liệu cho ngành dệt mà còn tạo điều kiện đa dạng hóa cơ cấu cây trồng, chuyển dịch cơ cấu
cây trồng trong nông nghiệp, vá vỡ tình trạng độc canh về cây lúa, chuyển sang trồng các
loại cây công nghiệp có giá trị cao hơn trong điều kiện tự nhiên của địa phương. Bên cạnh
đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm cũng là nghề truyền thống lâu đời của nhân dân ta, vì vậy
phát triển nguyên liệu tơ tằm là hoàn toàn có tính khả thi. Sợi tơ tằm là loại sợi có giá trị
cao trên thị trường cả trong và ngoài nước, phát triển các vùng trồng dâu nuôi tằm không
chỉ giúp chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp mà còn giúp
phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống với những sản phầm dệt may độc đáo,
đặc trưng của vùng và có giá trị rất cao trên thị trường. Ngoài ra phát triển các vùng trồng

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

12


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

nguyên liệu sẽ tạo điều kiện phát triển công nhiệp chế biến nguyên liệu thô như dập, cán

bông.
2.2. Giới thiệu chung về thị trường dệt may Hoa Kỳ
2.2.1. Khái quát về nền kinh tế Hoa Kỳ
Trong thời gian đầu và khoảng giữa thế kỷ XX, trong khi nền kinh tế châu Âu và
châu Á bị tàn pháp nặng nề do hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ 2,
thì kinh tế Hoa Kỳ lại phát triển mạnh.
Kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Hoa Kỳ
chiếm 42% GNP toàn cầu, đồng thời Hoa Kỳ cũng chiếm tới 54.6% về tổng sản lượng
công nghiệp, 24% xuất khẩu và 74% dự trữ vàng so với toàn thế giới.
Nhờ có nền kinh tế hùng mạnh và phát triển, Hoa Kỳ đã bỏ vốn thành lập các tổ
chức tài chính tiền tệ như Ngân hàng thế giới (WB), quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), sau đó
thành lập công ty Tài chính Quốc tế IFC vào năm 1954, Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA)
năm 1960, Ngân hàng Á châu (ADB) vào năm 1966, Công ty đầu tư đa biên (MIGA) năm
1990…
Với sự tài trợ của Hoa Kỳ, nhiều tổ chức hoạt động kinh tế và thương mại ra đời
như GATT, các tổ chức khác của Liên hợp quốc: UNDP, FAO, UNIDO…
a. Về tài chính
Sau một nửa thế kỷ, Hoa Kỳ duy trì sức mạnh và khả năng chuyển đổi tự do đồng
USD, gần 50% tổng sản lượng thanh toán và đầu tư quốc tế được thực hiện qua đồng tiền
này.
Hoa Kỳ cũng thống trị thị trường tài chính tiền tệ thế giới bằng cách đẩy nhanh
phát triển thị trường chứng khoán.
b. Về công nghiệp
Hoa Kỳ đi đầu khám phá và phát triển những ngành công nghiệp tiên phong. Vào
cuối thế kỷ XIX, Hoa Kỳ đi đầu trong lĩnh vực khai thác và chế biến dầu mỏ. Đến đầu thế
kỷ XX, Hoa Kỳ tập trung sản xuất xe hơi, đóng tầu, máy bay. Khoảng giữa thế kỷ XX thì
lại tập trung vào phát triển công nghiệp điện và điện tử. Và đến cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI, Hoa Kỳ tập trung vào phát triển công nghệ thông tin và tin học.
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ


13


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Công nghiệp năng lượng cũng là thế mạnh hàng đầu của Hoa Kỳ, trong lĩnh vực
này Hoa Kỳ có sức phát triển hàng đầu thế giới ở các ngành: dầu mỏ, khí đốt, thủy điện,
uranium. Hoa Kỳ là nước sản xuất nhiều điện nhất thế giới, thứ hai về thủy điện (sau
Canađa), đứng đầu thế giới về năng lượng nguyên tử, về công nghiệp chế tạo…
c. Về nông nghiệp
Hoa Kỳ có một nền nông nghiệp rất phát triển nhờ có lợi thế diện tích rộng lớn, và
nhiều vùng có khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Không những thế Hoa Kỳ còn
là nước áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp. Trồng trọt, chăn
nuôi, chế biến nông sản của Hoa Kỳ đều rất phát triển. Hoa Kỳ cũng là nước xuất khẩu
gạo đứng thứ ba trên thế giới (sau Thái Lan và Việt Nam).
d. Về dịch vụ
Ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong GDP của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là
nước chi phối nhiều loại hình dịch vụ trên thế giới như dịch vụ tài chính, thông tin, du
lịch, giải trí (các sản phẩm âm nhạc của Hoa Kỳ chiếm đến 30% tổng giá trị giao dịch các
sản phẩm này trên thế giới), đồ ăn nhanh, giải khát…
e. Chính sách đối ngoại
Hoa Kỳ xây dựng hệ thống thương mại và thị trường thế giới trên cơ sở các nguyên
tắc, sáng kiến của Hoa Kỳ, các nguyên tắc ngày được thể chế hóa bằng các hiệp định của
WTO. Hoa Kỳ dùng cơ chế của WTO buộc các nước khá phải thực hiện các cam kết song
phương và đa phương, thực hiện mở của các thị trường mà Hoa Kỳ có lợi thế cạnh tranh
hoặc Hoa Kỳ độc quyền.
Đối với các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang trong quá trình
chuyển đổi như Nga, Việt Nam, Trung Quốc, các nước SNG, các nước Đông Âu cũ… Hoa

Kỳ thi hành chính sách “cây gậy và củ cà rốt”, vừa gây sức ép, vừa có những chính sách
hỗ trợ ưu đãi để thông qua các hiệp định song phương và đa phương buộc các nước này
cải tổ nền kinh tế, phát triển kinh tế thị trường, đẩy nhanh hội nhập để đảm bảo lợi ích ổn
định và lâu dài về tài chính, thương mại, đầu tư cho Hoa Kỳ.
f. Vài nét về thị trường Hoa Kỳ

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

14


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Có thể nói, Hoa Kỳ là một trong những thị trường lớn nhất toàn cầu, với dân số
đông thứ ba thế giới (sau Trung Quốc và Ấn Độ). Trong năm 2006, thu nhập bình quân
đầu người của Hoa Kỳ đạt khoảng 38,200 USD/người/năm (theo US Cencus Bureau), và
với GDP là 13,194.7 nghìn tỷ USD (theo Bureau of Economic Analysis). Hoa Kỳ là một
thị trường có sức tiêu dùng lớn nhất thế giới.
GDP của Hoa Kỳ trong những năm gần đây tăng trưởng khá ổn định, mặc dù tỷ lệ
tăng trưởng không cao (do GDP của Hoa Kỳ quá lớn), song xét về mặt tuyệt đối, lượng
GDP tăng thêm của Hoa Kỳ trong mỗi năm còn lớn hơn nhiều so với tổng GDP của nhiều
nước trên thế giới.

Bảng 2.1: Tốc độ tăng GDP của Hoa Kỳ trong những năm gần đây
Năm GDP (nghìn tỷ USD) Tốc độ tăng GDP của Hoa Kỳ (%)
1999
9,268.4
2000

9,817.0
5.92
2001
10,128.0
3.17
2002
10,469.6
3.37
2003
10,960.8
4.69
2004
11,685.9
6.62
2005
12,433.9
6.5
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

15


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương
2006
2007

13,194.7
13,843.8

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

6.03
3.78

(Nguồn: US Bureau of Economic Analysis)
Nhìn vào bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy tốc độ tăng GDP của Hoa Kỳ
trong giai đoạn 2000 – 2007 rất ổn định. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ
trong hai năm 2001 và 2002 có thấp hơn so với các năm khác. Nguyên nhân chính là vì
ảnh hưởng của vụ khủng bố ngày 11/9/2001. Nhưng điều này cũng cho thấy khả năng ổn
định nền kinh tế rất tốt của Hoa Kỳ, bằng chứng là ngay sau đó, tốc độ tăng trưởng GDP
của Hoa Kỳ lại ổn định và còn vượt mức trước khi bị khủng bố.
Hoa Kỳ cũng là nước có GDP cao nhất trên thế giới. Hoa Kỳ luôn là nước đứng
đầu trên thế giới về GDP trong nhiều năm và dường như ngày càng bỏ xa hơn các quốc
gia khác.

Bảng 2.2: Các nước có GDP cao nhất thế giới năm 2006
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Quốc gia
Hoa Kỳ
Nhật Bản

Đức
Trung Quốc
Anh
Pháp
Italia
Canađa
Tây Ban Nha
Bờ ra xin

GDP (triệu USD)
13,201,819
4,340,133
2,906,681
2,668,071
2,345,015
2,230,721
1,844,749
1,251,463
1,223,988
1,067,962

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

16


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn


(Nguồn: World Development Indicators Database, World Bank, 1 July 2007)
Chất lượng hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ rất linh hoạt và đa dạng
theo phương châm “tiền nào của ấy”. Chúng ta biết rằng phong cách tiêu dùng của dân
Hoa Kỳ khác với dân châu Âu, người Hoa Kỳ vốn rất thực dụng, nên họ vẫn rất ưa
chuộng những hàng hóa giá rẻ. Hơn nữa, mức sống của người dân Hoa Kỳ cũng rất đa
dạng, Hoa Kỳ là một đất nước giàu có nhưng không phải không có người nghèo, thậm chí
rất nhiều. Đây lại là một điểm khiến cho Hoa Kỳ là một thị trường có thể tiêu dùng nhiều
loại mặt hàng với chất lượng khác nhau và chủng loại cũng vô cùng phong phú. Vì thế, đó
chính là cơ hội cho tất cả các đối tác buôn bán và làm ăn với Hoa Kỳ.
Có thể nói, Hoa Kỳ là một thị trường đầy hứa hẹn, một thị trường tiềm năng mà
nhiều quốc gia vươn tới.
2.2.2. Tổng quan về thị trường dệt may Hoa Kỳ
2.2.2.1. Về thị trường
Hoa Kỳ là một đất nước có rất nhiều tầng lớp dân cư sinh sống, đó chính là một
điểm khác biệt lớn so với thị trường EU hay Nhật Bản và các thị trường khác. Do có nhiều
tầng lớp dân cư, nên cơ cấu, chủng loại hàng hóa ở Hoa Kỳ cũng rất phong phú. Từ các
mặt hàng cao cấp đến các mặt hàng thứ cấp, mặt hàng nào cũng có thể tiêu thụ được tại thị
trường này.
Dệt may cũng không phải là ngoại lệ. Có thể nói, thị trường dệt may Hoa Kỳ vô
cùng phong phú, đa dạng về mẫu mã, chủng loại và giá cả. Có rất nhiều chủng loại hàng
dệt may được tiêu thụ tại thị trường này. Hơn nữa, người Hoa Kỳ cũng không phải là
những người cầu kỳ và kiểu cách như dân EU hay Nhật Bản.
 Tổng quan tình hình nhập khẩu hàng may mặc vào thị trường Hoa Kỳ
Theo US Department of Commerce, trong năm 2005 nhập khẩu hàng dệt kim vào
thị trường Hoa Kỳ đạt 33.291 tỉ USD, tăng 5.41% so với năm 2004. Trung Quốc là nước
đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim sang thị trường Hoa Kỳ với giá trị đạt
6.576 tỉ USD năm 2005, tăng 60.26% so với năm 2004. Mêhicô vẫn đứng thứ hai, nhưng
kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2.388 tỉ USD, giảm 11.81% so với năm 2004. Honduras là

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ


17


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

nước đứng thứ ba về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim sang Hoa Kỳ với kim ngạch xuất
khẩu đạt 2.016 tỉ USD, tăng 0.16% so với năm 2004.
Xuất khẩu hàng dệt kim của các nước ASEAN như Việt Nam, Thái Lan,
Campuchia, Inđônêxia, Philippin và Lào cũng tăng lên trong khi xuất khẩu của Brunei và
Singapore lại giảm. Cho đến nay, Việt Nam đang là nước đứng thứ 7 về xuất khẩu hàng
dệt kim vào thị trường Hoa Kỳ.
Sau khi hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ, nhập khẩu từ các nước xuất khẩu
hàng dệt may có chi phí thấp như Trung Quốc và Ấn Độ tăng mạnh. Bên cạnh hàng nhập
khẩu từ Trung Quốc, hàng may mặc dệt kim nhập khẩu từ Ấn Độ cũng tăng 37.91% so
với năm 2004, lên 937 triệu USD.
Cũng theo US Department of Commerce, nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị
trường Hoa Kỳ trong năm 2005 đạt 37.514 tỉ USD, tăng 6.3% so với năm 2004. Trung
Quốc cũng là nước đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ
với kim ngạch xuất khẩu đạt 10.231 tỉ USD, tăng 54.57% so với năm 2004, chiếm
27.27% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi của Hoa Kỳ. Tiếp theo là
Mêhicô và Ấn Độ với kim ngạch xuất khẩu tương ứng đạt 3,841 tỉ USD và 2,121 tỉ USD.
Trong khi xuất khẩu của Mêhicô giảm 7.13%, thì xuất khẩu của Ấn Độ lại tăng tới
32.75% so với năm 2004.
 Dung lượng thị trường
Doanh thu bán lẻ hàng may mặc trên thị trường Hoa Kỳ năm 2003 đã tăng 1.9% so
với năm 2002, đạt 115.5 tỉ USD và dự báo sẽ tăng khoảng 2.1%/năm trong giai đoạn 2004
– 2008, lên 121.2 tỉ USD.

Dù mức tăng lượng hàng tiêu thụ bị chững lại do xu hướng suy giảm thu nhập
nhưng giá sản phẩm dệt may cũng có xu hướng giảm do một số nhà sản xuất Hoa Kỳ đã
chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài để giảm bớt chi phí cũng như do tỉ trọng hàng may
mặc giá rẻ nhập khẩu từ các nước có chi phí sản xuất gia tăng.
 Kênh phân phối
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

18


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Kênh bán lẻ hàng may mặc lớn nhất trên thị trường Hoa Kỳ là các chuỗi cửa hàng
bán lẻ với doanh thu đạt 93 tỷ USD trong năm 2003, tăng 21.7% so với năm 1999, trong
khi doanh thu của các cửa hàng bán lẻ độc lập giảm 10.4% so với năm 1999, chỉ đạt 22.5
tỉ USD. Các chuỗi cửa hàng chuyên doanh như “Gap” đã tăng doanh thu nhờ chiến lược
tập trung vào các mặt hàng thời trang thông dụng cho các đối tượng tiêu dùng từ 20 – 30
tuổi. Nhiều nhà bán lẻ cũng áp dụng chiến lược tập trung cho một số nhóm đối tượng tiêu
dùng riêng biệt như hàng thời trang “cấp tiến” hay các đối tượng tiêu dùng trẻ. Hiện chi
tiêu cho hàng may mặc của nhóm trẻ vị thành niên chiếm tới 20% tổng mức chi tiêu cho
hàng may mặc của Hoa Kỳ.
Thị trường bán lẻ hàng may mặc của Hoa Kỳ có xu hướng “phân mảng” khá rõ
nét. 5 nhà bán lẻ lớn nhất chiếm tới 28.1% tổng dung lượng thị trường, trong đó Gap
chiếm 12.1%; TJX (Marshall’s, TJ Max, A.J.Wright) chiếm 7.4%; Limited Brands
(Limited, Express, Victoria’s Secret) chiếm 4.2%; Burlington chiếm 2.7% và Charming
Shoppes (Lane Bryant, Fashion Bug, Catherine’s), chiếm 2%.
Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, bán hàng qua mạng Internet đang có xu
hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Theo các nhà phân tích, đến năm 2008,

khoảng 10% hàng may mặc sẽ được tiêu thụ qua mạng.
2.2.2.2. Về tình hình sản xuất và lao động trong ngành dệt may Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, nếu như trong 10 năm (từ 12/1984 đến 12/1994), sản lượng ngành dệt
tăng 32.3%, may mặc tăng 2.2%, thì trong 10 năm 10 tháng tiếp theo đó (từ 12/1994 đến
10/2005), ngành dệt đã giảm 22%, may mặc giảm tới 51.7% (Theo Bộ Công nghiệp Việt
Nam).
Về lao động, từ 12/1994 đến 10/2005, 2 ngành này đã mất tới 907.900 việc làm
(giảm 58.3%). Tính đến tháng 10/2005, dệt may Hoa Kỳ chỉ còn duy trì được tổng cộng
648.600 việc làm.
Trong những tháng nửa sau 2005, sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ đã có một số
dấu hiệu phục hồi yếu ớt. Sản lượng dệt tháng 10/2005 tăng 2.4% kể từ 5/2005; sản lượng
may mặc tháng 9/2005 tăng 4.3% kể từ 5/2005. Đây cũng là mức tăng lớn nhất (tính theo
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

19


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

chu kỳ 4 tháng) kể từ tháng 6/1994. Một trong những nguyên nhân có thể do Chính phủ
Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp tự vệ đối với 10 cat hàng dệt may của Trung Quốc (tháng
4/2005). Với việc đạt được thoả thuận về dệt may với Trung Quốc vào đầu tháng 11/2005,
có thể sản xuất trong nước của Hoa Kỳ sẽ còn hồi phục nhẹ trong năm 2006.
Số liệu thống kê của Hoa Kỳ năm 2005 cho thấy ưu thế trên thị trường hàng dệt
may nhập khẩu Hoa Kỳ sau thời điểm 1/1/2005 đã thuộc về các quốc gia châu Á như
Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Hàn Quốc, các nước ASEAN... và thị phần
của ngành sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ luôn trên đà thu hẹp.
Như vậy, thấy trước nguy cơ khó cạnh tranh được với nhập khẩu dệt may từ các

nước đang phát triển thuộc châu Á, Phi và Mỹ Latinh có chi phí nhân công thấp, giá thành
rẻ, Hoa Kỳ đã từ rất sớm thực hiện các chính sách kiềm chế nhập khẩu. Tuy thế các chính
sách này đã không cứu được sản xuất dệt may trong nước khỏi liên tục sa sút trước sức
cạnh tranh quá mạnh của hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
Toàn cầu hóa khiến sụt giảm sản xuất trong nước ở những ngành cần lao động giản
đơn như may mặc là một xu thế tất yếu ở những nước phát triển như Hoa Kỳ. Các chính
sách của Hoa Kỳ nhằm kiềm chế hàng dệt may nhập khẩu đã không đem lại hiệu quả bảo
vệ sản xuất trong nước của họ.
2.3. Một số quy định của yếu của Hoa Kỳ về nhập khẩu hàng dệt may


Quy chế quản lý của Hoa Kỳ với hàng nhập khẩu

-

Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ:



Luật thuế suất năm 1930: Nhằm điều tiết hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ chống lại

việc nhập hàng giả, quy định thuế suất cao với hàng nhập khẩu, hiện nay luật này vẫn còn
hiệu lực nhưng sau nhiều lần điều chỉnh thuế đã hạ xuống nhiều.


Luật buôn bán năm 1974: Định hướng cho các hoạt động buôn bán, có nhiều điểu

khoản cho phép đền bù tổn thất cho các ngành công nghiệp Hoa Kỳ bị cạnh trang bởi
hàng nhập khẩu.



Hiệp định buôn bán 1979: Gồm các điều khoản về sự bảo trợ của Chính phủ về các

chướng ngại kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế là một loại thuế đánh vào các loại hàng hóa bị cho là có trợ cấp hoặc bán phá giá.
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

20


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh 1988: cho phép Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp
trừng phạt đối với cá quyết định không chịu mở cửa cho hàng hóa Hoa Kỳ và vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một thị trường vô cùng hấp dẫn với sức tiêu dùng lớn nhất thế giới. Tuy
nhiên, thách thức lớn đang đặt ra đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam là hệ thống pháp
luật vô cùng phức tạp của Hoa Kỳ. Những quy định ngặt nghèo của Hoa Kỳ về hàng nhập
khẩu là một trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam và nếu không nỗ lực tìm hiểu
để vượt qua những trở ngại này thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó có thể xâm nhập
được thị trường Hoa Kỳ. Đối với hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần chú ý đến những quy định chủ yếu sau:
2.3.1. Thuế nhập khẩu
Thuế hàng hóa nhập khẩu được tính trên các cơ sở:
-

Mã hàng hóa tính thuế

-


Thuế suất

-

Trị giá tính thuế

2.3.1.1. Danh mục điều hòa thuế quan Hoa Kỳ
Mã hàng hóa tính thuế và thuế suất đối với các hàng hóa nhập khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ được xác định thông qua “Danh mục điều hòa thuế quan Hoa Kỳ” (Harmonized
Tariff Schedule of the United States of America (HTS)). HTS giải thích hệ thống mô tả và
mã số hàng hóa, liệt kê tất cả các loại thuế suất của tất cả các loại hàng hóa đánh vào tất
cả các nước. Để xác định chính xác thuế suất áp dụng cho mặt hàng cần tìm, cần xác định
đúng mô tả hàng hóa và thuế suất áp dụng cho mặt hàng đó.
Thuế suất nhập khẩu vào Hoa Kỳ được xác định theo một trong ba phương pháp cơ
bản sau:
-

Thuế suất trị giá (ad varolem rate): Là một tỷ lệ % xác định của trị giá hàng hóa, đây

là loại thuế suất được áp dụng phổ biến nhất.
-

Thuế suất đặc định (specific rate): là thuế suất thể hiện bằng một số tiền nhất định

trên mỗi đơn vị số lượng hoặc trọng lượng, loại thuế suất này được áp dụng cho hàng
nông sản.
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

21



Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương
-

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

Thuế suất phối hợp (compound rate): là loại thuế suất áp dụng kết hợp cả hai phương

pháp trên.
Mức thuế suất HTS được chia thành hai cột:
-

Cột 1: hàng hóa có xuất xứ từ các nước đang được hưởng quan hệ thương mại bình

thường (normal trade relation – NTR) nhập khẩu vào Hoa Kỳ chịu mức thuế suất tham
chiếu áp tại cột 1 “mức thuế suất” hay còn gọi là “mức thuế suất NTR” của HTS. Cột 1
“mức thuế suất” được chia thành hai cột phụ là “phổ thông” và “đặc biệt”:


Cột phổ thông (general) quy định mức thuế suất áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ

từ các nước được hưởng NTR nhập khẩu vào Hoa Kỳ (trung bình các dòng thuế khoảng
4%)


Cột đặc biệt (special) quy định mức thuế suất ưu đãi (thấp hơn mức thuế suất NTR

hoặc bằng 0) theo một hay nhiều chương trình ưu đãi thương mại và thuế quan đặc biệt
của Hoa Kỳ với các nước khác. Ví dụ: với các nước đang phát triển theo “Hệ thống ưu đãi

thuế quan phổ cập” (Generalized System of Preferences – GSP), các nước Bắc Mỹ theo
“Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ” (North America Free Trade Area – NAFTA), các
nước vùng vịnh Caribê “Đạo luật về phục hồi kinh tế các nước vùng vịnh Caribê”
(Caribean Basin Economic Recovery Act – CBERA), Ixraen theo “Khu vực mậu dịch tự
do Hoa Kỳ - Ixraen” (United States – Israel Free Trade Area)…
-

Cột 2: Thuế suất phi NTR dành cho các nước không được Hoa Kỳ cho hưởng quy

chế quan hệ thương mại bình thường như Cuba, Bắc Triều Tiên, Siri… Mức thuế suất này
rất cao, cao hơn nhiều so với mức thuế NTR (ví dụ: mức thuế suất NTR đối với mặt hàng
quần áo nam chất liệu bông – HTS 1603320000 là 13.8% còn mức thuế suất phi NTR là
90%).
Mỗi mặt hàng đều có mã số riêng tương ứng trong HTS và được phân loại theo các
nhóm và phân nhóm chi tiết đến 10 chữ số, hàng dệt may được phân loại rất chi tiết và cụ
thể trong HTS từ chương 50 đến chương 63.
2.3.1.2. Giá tính thuế
Giá tính thuế là giá giao dịch (theo quy định của GATT). Giá giao dịch ở đây
không phải là giá trên hóa đơn mà phải cộng thêm nhiều chi phí khác như chi phí đóng
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

22


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

gói, tiền hoa hồng cho trung gian nếu người mua phải trả, tiền máy móc thiết bị nhà nhập
khẩu cung cấp cho nhà sản xuất… Giá giao dịch để tính thuế không tính phí vận chuyển

và bảo hiểm lô hàng nên hàng hóa mua trên cơ sở CIF thì phần chi phí cho bảo hiểm và
vận tải sẽ được trừ đi trong giá tính thuế của hàng hóa.
Ngoài thuế nhập khẩu ra hải quan Hoa Kỳ còn thu các loại phí sau:
-

Phí xử lý hàng hóa: 0.21% trị giá hàng hóa

-

Phí cầu cảng: 0.125% trị giá hàng hóa

2.3.2. Hạn ngạch nhập khẩu
2.3.2.1. Khái niệm, phân loại và cách thực hiện hạn ngạch nhập khẩu
Đối với các nhà xuất khẩu có ý định xuất hàng sang Hoa Kỳ, nhất là các sản phẩm
dệt may, một trong những điều cần quan tâm đầu tiên là hàng của mình có bị hạn chế
không cho nhập hay chỉ cho nhập một số lượng giới hạn nào đó mà thôi.
Hạn ngạch nhập khẩu là những quy định của Chính phủ nhằm kiểm soát và giới
hạn số lượng hay giá trị một loại hàng hóa nào đó được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Có hai loại hạn ngạch: Hạn ngạch tuyệt đối (absolute quota) và hạn ngạch thuế
quan (tariff – rate quota).
-

Hạn ngạch tuyệt đối giới hạn số lượng một loại hàng hóa nhất định được phép nhập

khẩu hàng năm. Nếu số lượng nhập đã lên đúng chỉ tiêu cho phép thì số hàng hóa vượt
quá chỉ tiêu hạn ngạch sẽ không được phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ cho đến hết thời hạn
của hạn ngạch đó (số hàng này phải chuyển qua kho để tái xuất đi nước khác hoặc chờ
đến khi có hạn ngạch trở lại)
-


Hạn ngạch thuế quan cho phép một số lượng hàng hóa nhất định nhập khẩu vào Hoa

Kỳ trong một thời gian nào đó với một thuế suất thấp (reduced rate). Ở đây không có sự
hạn chế về số lượng nhập khẩu như hạn ngạch tuyệt đối nhưng số lượng hàng hóa vượt
quá chỉ tiêu trên sẽ phải chịu mức thuế suất cao hơn.
2.3.2.2. Visa hàng dệt may
Visa là một loại dấu chứng thực xác nhận trên hóa đơn hoặc trên “Giấy phép kiểm
soát nhập khẩu” do cơ quan trực thuộc Chính phủ của nước có sản phẩm dệt may xuất
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

23


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

khẩu sang Hoa Kỳ cấp. Theo Hiệp định về visa giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ
Hoa Kỳ thì hàng dệt may Việt Nam cần có visa mới được cấp phép nhập khẩu vào Hoa
Kỳ. Visa sẽ do cơ quan có thẩm quyển trực thuộc Chính phủ Việt Nam cấp (cụ thể ở Việt
Nam là Bộ Công thương và các Sở Thương mại), ngày cấp visa là ngày người có thẩm
quyền ký chứng thực, người ký visa phải là người được Chính phủ Việt Nam ủy quyền.
Một visa hợp lệ phải bao gồm các nội dung sau:
-

Số hiệu visa gồm 9 ký tự (ký tự đầu thể hiện năm xuất khẩu, 2 ký tự tiếp theo là mã

nước xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế ISO, 6 ký tự cuối là số visa theo thứ tự cấp. (Ví dụ
Visa No: 3VN001234)

-

Ngày cấp (Ví dụ 01 May 2005)

-

Chủng loại hàng (ví dụ Category 438)

-

Số lượng hàng hóa, có kèm đơn vị tính (ví dụ Quantity: 100, unit of quantity: dozen)

-

Chữ ký gốc của người cấp.
Nếu số lượng hàng hóa cập cảng lớn hơn số lượng hàng hóa ghi trong visa thì hàng

sẽ không được phép nhập khẩu.
Nếu số lượng hàng hóa cập cảng ít hơn số lượng ghi trong visa thì hàng vẫn được
phép nhập khẩu và số lượng hàng nhập khẩu thực tế sẽ được trừ vào hạn ngạch áp dụng.
Số lượng chênh lệch không được tính cho lô hàng khác.
Hàng hóa sẽ không được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ nếu: số hiệu visa,
chủng loại hàng, số lượng hàng hóa, đơn vị tính, chữ ký, ngày cấp visa không đầy đủ, bị
thay đổi, không hợp lệ hoặc thiếu chính xác.
Visa không được chấp thuận sẽ cần có một visa mới, phù hợp do cơ quan có thẩm
quyền trực thuộc Chính phủ Việt Nam cấp, hoặc có văn bản miễn trừ visa (visa waiver).
Văn bản miễn trừ visa do Bộ Thương mại Hoa Kỳ cấp theo yêu cầu của Đại sứ quán Việt
Nam tại Washington.
Hải quan Hoa Kỳ sẽ không trả lại visa không được chấp thuận sau khi hàng hóa đã
được nhập khẩu. Tuy nhiên, sẽ cung cấp một bản sao có giá trị của hóa đơn thương mại đã

được cấp visa.

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

24


Giảng viên hướng dẫn: ThS Đỗ Thị Hương

Sinh viên: Nguyễn Quân Sơn

2.3.3. Quy định về xuất xứ hàng dệt may
2.3.3.1. Các quy tắc chung
a. Hoàn toàn được sản xuất: Xuất xứ là nơi sản phẩm dệt hoặc may 100% được sản xuất
hay chế tạo ở nơi đó.
b. Sợi bao gồm cả sợi đơn và sợi tổng hợp: Xuất xứ sợi, chỉ, sợ xe, hay dây tết… được
xác định như sau:
-

Đối với xơ sợi chưa xử lý – là địa điểm xe sợi.

-

Đối với sợi tơ – là nơi sợi được sản xuất ra.

c. Vải: xuất xứ vải là nơi vải được dệt, đan, kết, ép… lại qua các quy trình sản xuất vải
khác.
d. Các sản phẩm dệt may khác: xuất xứ của tất cả mọi sản phẩm dệt may khác là nơi mà
các thành phần của nó được lắp ráp hoàn chỉnh (trừ các bộ phận nhỏ như khuy, chuỗi hạt,
… hoặc các bộ phận lắp ráp nhỏ như cổ, cổ tay áo, túi…).

e. Quy tắc áp dụng trong trường hợp sản xuất ở nhiều nước
Trường hợp không thể xác định được xuất xứ của sản phẩm dệt hoặc may theo một
trong các quy tắc trên và sản phẩm được tạo ra là kết quả của quy trình sản xuất ở hai hay
nhiều nước thì nước xuất xứ được xác định như sau:
-

Là nước mà tại đó quy trình sản xuất hay lắp ráp quan trọng nhất xẩy ra. Quy trình

này được xác định trong trường hợp cụ thể thông qua pháp quyết của Tòa án hay án lệ
(các bản án đã phán quyết trước đó).
-

Nếu không thể xác định được quy trình lắp ráp hoặc sản xuất quan trọng nhất thì

nước xuất xứ sẽ là địa điểm cuối cùng mà quy trình sản xuất hay lắp ráp đó xảy ra.
2.3.3.2. Tờ khai xuất xứ hàng dệt may
Tờ khai xuất xứ hàng hóa được nộp cho hải quan ngay khi hàng nhập vào. Có ba
loại tờ khai xuất xứ hàng dệt may khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ:
-

Tờ khai xuất xứ đơn (Single country declaration) được sử dụng cho việc nhập khẩu

hàng dệt may có nguồn gốc nguyên liệu và đã được sản xuất chỉ từ một quốc gia hoặc
hàng dệt may được gia công tại một quốc gia bằng các nguyên liệu được sản xuất từ một
quốc gia khác hoặc Hoa Kỳ.
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

25



×