Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Com cac nguyen tac cua to tung hinh su trong dieu kien xay dung nha nuoc phap quyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.91 KB, 20 trang )

Các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong điều kiện...
CÁC NGUYÊN TẮC CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 khóa VIII tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân và chỉ rõ “việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của
chúng ta còn rất ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm”. Như vậy xây dựng
nhà nước pháp quyền trong điều kiện một nước mới bước vào thời kỳ đầu của công nghiệp hóa như
nước ta với nền kinh tế còn lạc hậu, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn thấp sẽ phải
trải qua quá trình lâu dài, phức tạp và nhiều khó khăn. Xây dựng nhà nước pháp quyền không có
nghĩa là chỉ hoàn thiện tổ chức quyền lực được gọi là nhà nước mà là xây dựng một tổng thể những
nền tảng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Điều này đòi hỏi trong khi tiến hành cải cách chính trị-pháp lý phải
luôn luôn xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, phát huy những thành tựu, những
kinh nghiệm quý báu sau hàng chục năm xây dựng và hoàn thiện nhà nước XHCN của chúng ta.
Nói cách khác, cải cách phải trên quan điểm phù hợp với thực tiễn, không tiếp thu một cách máy
móc những thiết chế và thể chế của các nước đã trải qua hàng trăm năm dân chủ tư sản và một
nền kinh tế phát triển.
Trong định hướng chung này, việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự lẽ dĩ nhiên cũng không thể
không xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của nước ta, tình hình tổ chức và hoạt động tố tụng hàng
chục năm, những kinh nghiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm rất quý báu đã tích lũy
được, quán triệt tinh thần “ đổi mới ở khâu đòi hỏi cấp bách nhất và đã có những cơ sở đổi mới.
Những vấn đề chưa đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thì tiếp tục nghiên cứu thêm để giải quyết ở
những bước tiếp theo” (Nghị quyết Đại hội VIII). Tuy nhiên, phải khẳng định rằng chúng ta mới bắt
đầu xây dựng nền tư pháp pháp quyền, đang quá độ đi đến một nền tư pháp như vậy. Tính khoa
học và tính thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự (cũng như pháp luật nói chung)
chính là ở tính chất quá độ này. Do đó, khi sửa đổi BLTTHS, cần tiếp thu tích cực những tư tưởng
tiến bộ có tính phổ biến của một nền tư pháp dân chủ, nhưng không được lý tưởng hóa, nhầm lẫn
những yếu tố hình thức với những vấn đề thực tế đòi hỏi. Đặt vấn đề nghiên cứu các biểu hiện của
các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong quá trình từng bước hoàn thiện phù hợp với tính chất quá
độ nói trên.


1. Khái niệm và các hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự.
Theo quan niệm chung nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ
hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động nhất định[1]; “ là những quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố
tụng hình sự”[2]; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng
hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận[3].
Nhìn chung, những quan niệm tương tự trên đây đều nhấn mạnh tính chỉ đạo của các nguyên tắc
mà chưa nhấn mạnh một tính chất khác của nguyên tắc – đó là tính đòi hỏi khách quan là yêu cầu
khách quan đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự đạt được mục đích, được phản ánh trong pháp
luật, trở thành những bảo đảm pháp lý. Nếu không nhấn mạnh tính đòi hỏi khách quan này của
nguyên tắc thì việc xây dựng pháp luật tố tụng hình sự không thể đảm bảo tính khoa học và những
đổi mới sẽ ít nhiều dễ bị tùy tiện, chủ quan, duy ý chí.
Vấn đề cần xác định là có phải tất cả các quy định tại Chương I của BLTTHS hiện hành đều là
nguyên tắc của tố tụng hình sự và hơn nữa lại là nguyên tắc cơ bản hay không? Nội dung quy định
của từng nguyên tắc có phù hợp với bản chất của từng nguyên tắc chưa?
Thiết nghĩ, không nên coi các điều quy định tại Chương I BLTTHS đều là nguyên tắc, nhất là nguyên
tắc cơ bản, ví dụ, Điều 1 đã ghi rõ là “Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự” thì không thể gọi là
nguyên tắc nữa, còn các Điều 5( Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân),
Điều 6 ( Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân), Điều 7 ( Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công
dân), có là nguyên tắc cơ bản không nếu đã có Điều 3 quy định về nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân.
Hơn nữa, nếu đã coi những quy định trong Chương I của BLTTHS đều là nguyên tắc cơ bản thì còn
có những nguyên tắc nào không phải là nguyên tắc cơ bản. Vì vậy, Chương I của BLTTHS chỉ nên
ghi là những quy đinh chung, còn trong số các quy định đó sẽ có những tư tưởng được coi là
nguyên tắc.


Một điểm nữa là nội dung của từng nguyên tắc chưa được thể hiện trong BLTTHS một cách khoa
học, có khi một điều luật lại gồm nội dung của hai nguyên tắc và một nguyên tắc lại được ghi ở hai,

ba điều luật ngay trong Chương I. Đành rằng các nguyên tắc có liên quan chặt chẽ với nhau và việc
xem xét độc lập các nguyên tắc chỉ là tương đối vì chúng được thể hiện cụ thể tại nhiều điều luật ở
các phần tiếp theo của BLTTHS. Nhưng dù sao, trong Chương I, các nguyên tắc phải nêu được
những yêu cầu khái quát của chúng.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
đòi hỏi phải đề cao những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ, công bằng, nhân đạo và pháp chế,
có ý nghĩa bao quát và quyết định đối với toàn bộ hoạt động tố tụng. Dưới góc độ đó có thể coi
những nguyên tắc sau đây là những nguyên tắc cơ bản:
1) Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
2) Nguyên tắc pháp chế;
3) Nguyên tắc suy đoán vô tội;
4) Nguyên tắc bảo đảm việc xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ;
5) Nguyên tắc công minh;
6) Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo;
7) Nguyên tắc tranh tụng và bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa;
8) Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Dưới đây chúng tôi xin đề cập nội dung cơ bản của những nguyên tắc kể trên theo tinh thần đổi
mới nhằm làm rõ thêm ý nghĩa của chúng trong việc bảo đảm tính pháp quyền của tố tụng hình sự
nước ta.
2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đây là một nguyên tắc Hiến định. Nguyên tắc này có hai ý nghĩa:
Thứ nhất: Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là giá trị cao quý nhất mà pháp luật tố tụng hình
sự phải bảo vệ.
Thứ hai: Mọi hoạt động tố tụng không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Để bảo đảm nguyên tắc này, vấn đề quy định các biện pháp cưỡng chế tố tụng có ý nghĩa quan
trọng hơn cả, trong đó trước hết là những biện pháp ngăn chặn.
+ Về tạm giam: Cần quy định thời hạn tạm giam chính xác hơn cho giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm. Theo Điều 151 BLTTHS thì thời hạn chuẩn bị xét xử là thời hạn tính đến ngày Thẩm phán ra
một trong những quyết định…chứ không phải tính đến ngày mở phiên tòa, chưa kể trường hợp trả
hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn còn kéo dài hơn. Như vậy, quy định của Điều 152: “ Thời hạn

tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 151…”
được hiểu là tính đến ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, nếu như vậy thì không phù hợp với
thực tế là cần phải tạm giam cho đến ngày mở phiên tòa.
Vì vậy, đoạn 2 Điều 152, nên chăng cần sửa đổi là: “ Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không
quá … tính từ khi nhận hồ sơ vụ án đến ngày mở phiên tòa”. Quy định như vậy sẽ tương tự như
điều 215a về thời hạn tạm giam ở giai đoạn phúc thẩm.
+ Về căn cứ tạm giam: Căn cứ chủ yếu để tạm giam phải là tính chất nghiêm trọng của hành vi bị
truy tố tức là căn cứ vào khung hình phạt của tội đó. Vì vậy Điều 61 của BLTTHS là không cần thiết
vì không phân biệt được cơ sở để áp dụng cho các loại biện pháp ngăn chặn khác nhau, nhất là có
thể bắt tạm giữ, tạm giam khi cho rằng có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo “sẽ tiếp tục phạm tội”.
Hơn nữa, căn cứ để áp dụng từng biện pháp ngăn chặn cụ thể đã được quy định tại các Điều 63,
64, 68, 70. ngoài ra theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì cách diễn đạt tại các Điều 61, 63, 64, 65,
66, 68, 70 là không chính xác vì đã coi những người bị bắt là những người phạm tội. Vì vậy nên
diễn đạt theo tinh thần những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ là người bị tình nghi, bị can, bị
cáo, những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa phải là người phạm tội.
Chúng tôi cho rằng có thể lấy lại thuật ngữ “nghi can” thay cho “người bị tình nghi”.


+ Gia hạn tạm giam: Có nên tiếp tục để cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao gia hạn
thêm không xác định đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia như khoản 3 Điều 71 không? Thiết
nghĩ thời hạn tối đa đối với tạm giam chỉ nên là 2 năm.
+ Về cách gia hạn tạm giam: Cách quy định như hiện nay tại Điều 71: Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát quân sự Trung ương gia hạn thêm không quá 4
tháng (trong cả ba lần) đối với tội đặc biệt nghiêm trọng để dẫn đến tình trạng không cần gia hạn
thêm 4 tháng nhưng để “chắc ăn” cứ gia hạn đến 4 tháng. Vì vậy nên chăng quy định số lần gia
hạn nhiều hơn nhưng mỗi lần gia hạn lại ngắn hơn. Vả lại, đã là gia hạn, thì theo logic thông
thường thời gian mỗi lần gia hạn phải ít hơn lần trước. Đây cũng chính là một trong những lý do để
sửa đổi Điều 71 ngày 9/6/2000 vừa qua theo cách lần gia hạn sau ít hơn lần trước. Tuy nhiên, để
triệt để và chính xác hơn cần ghi là có thể gia hạn “đến…” chứ không phải là “không quá…”.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 71 ngay từ đầu cần ghi là “ Thời hạn tạm giam… đối với người bị truy tố vể

tội…” chứ không phải là tạm giam “đối với tội…” để phân biệt “thời hạn điều tra… đối với tội…”
(Điều 97)
_ Đối với việc trả tự do cho người bị tạm giam hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thì trong
mọi trường hợp cần phải thông báo cho Viện kiểm sát biết.
+ Trong tố tụng hình sự không chỉ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, của người bị kết án
mà của những người tham gia tố tụng khác đều phải được tôn trọng và bảo vệ. BLTTHS phải có
những quy định bảo đảm an toàn và bù đắp những thiệt hại cho người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch v.v…, bảo đảm quyền lợi của họ khi họ “buộc phải lôi cuốn vào vòng tố tụng”.
Điều đó cũng sẽ phát huy tính tích cực của họ trong việc hợp tác tự nguyện cũng như khi thực hiện
nghĩa vụ công dân. “ Có thể nói quy định của Điều 24 BLTTHS chưa đi vào cuộc sống bởi lẽ nó chưa
được cụ thể hóa, chưa có cơ chế bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, quyền lợi, cũng như chưa
có quy định thế nào là oan sai”[4]. Vì vậy cần phân biệt khôi phục quyền lợi, danh dự khi xử lý oan
sai với hoàn trả các chi phí cho người tham gia các tố tụng, cần thiết thì phải ghi rõ là thiệt hại
được bồi thường đầy đủ từ ngân sách Nhà nước mà không phụ thuộc vào lỗi của cán bộ điều tra.,
Viện kiểm sát hay Tòa án[5].
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra mấy kết luận:
1) Để phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền thì BLTTHS phải coi nguyên tắc này là đặc
biệt quan trọng, nguyên tắc đầu tiên. Tên điều cũng như nội dung phải rộng hơn Điều 3 của BLTTHS
hiện hành, cụ thể là “Tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” chứ không
chỉ đối với quyền cơ bản mà thôi.
2) Các quy định tại các Điều 4,5,6,7,8 về tôn trọng và bảo đảm (bảo hộ) các quyền cơ bản của
công dân phải được coi là sự cụ thể hóa những yêu cầu chủ yếu của nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
3) BLTTHS không nhất thiết phải ghi nhận lại nguyên văn những quy định của Hiến pháp mà cụ thể
hóa, xác định rõ hơn nữa những nội dung chỉ mới được nêu khái quát trong Hiến pháp.
4) Đưa nội dung về khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường cho người bị thiệt hại… quy định tại
đoạn 3 Điều 24 BLTTHS vào thành đoạn cuối của Điều 3 như là một đòi hỏi của nguyên tắc tôn
trọng và bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
3. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ và pháp chế là hai yêu cầu cơ bản của một Nhà nước pháp quyền. Vì vậy bảo đảm pháp

chế XHCN là một trong những nguyên tắc bao quát của tố tụng hình sự. Nguyên tắc này được ghi
nhận tại Điều 2 và từ 9/6/2000 được bổ sung thêm, cụ thể hóa thêm bằng Điều 10a của BLTTHS.
Nguyên tắc pháp chế XHCN có những yêu cầu cơ bản sau đây:
1) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng không chỉ nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTHS mà còn phải tuân thủ BLHS.
Tuân thủ những quy định của BLHS là một tất yếu trong hoạt động tố tụng, vì vậy nội dung này
phải được ghi nhận vào Điều 2 của BLTTHS. Đáng tiếc là Điều 10a được bổ sung ngày 9/6/2000 đã
không kết hợp được với Điều 2 để cùng thể hiện nguyên tắc pháp chế XHCN, mặc dù chính Điều
10a mới thể hiện đầy đủ hơn nguyên tắc pháp chế XHCN.
2) Tuân thủ BLTTHS là bảo đảm mọi hành vi tố tụng, đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế tố tụng
phải được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, không được làm những gì mà pháp


luật tố tụng hình sự không cho phép, đồng thời lại không được lẫn tránh những gì pháp luật bắt
buộc. Đó là nghĩa vụ khởi tố vụ án, xử lý nghiêm minh, bảo đảm các quyền của người tham gia tố
tụng , phối hợp với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc xác minh, xử
lý tội phạm, người phạm tội.
3) Tuân thủ pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự là đảm bảo hoạt động kiểm tra, kiểm sát, giám
đốc các hoạt động tố tụng, các hành vi tố tụng một cách kịp thời, đúng đắn. Trường hợp phát hiện
vi phạm thì nhất thiết phải kịp thời hủy bỏ, khắc phục hậu quả như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ
án, điều tra bổ sung, hủy bản án, trả tự do cho người bị tạm giam, tạm giữ v.v….
Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự phải đảm bảo thực hiện tốt hơn những yêu cầu trên đây của
nguyên tắc pháp chế XHCN. Thiết nghĩ cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
1) Bộ luật tố tụng hình sự phải quy định chính xác hơn về thẩm quyền của các cơ quan và người
tiến hành tố tụng, tức là quy định đầy đủ hơn, nhất quán hơn, cụ thể hơn quyền và nghĩa vụ của
người tiến hành tố tụng; mối quan hệ kiểm tra, kiểm sát, giám đốc trong các giai đoạn tố tụng.
Điều này sẽ được thực hiện tốt hơn nếu đưa các quy định về hoạt động tố tụng đang nằm rải rác ở
các văn bản khác nhau vào Bộ luật tố tụng hình sự, trước hết là những quy đinh định của Pháp lệnh
tổ chức điều tra hình sự ngày 04/4/1989 liên quan đến hoạt động điều tra. Pháp lệnh này chỉ nên là
pháp lệnh về tổ chức cơ quan điều tra hình sự. Các quy định trong pháp lệnh tổ chức Tòa án quân

sự về thẩm quyền xét xử, về các hoạt động tố tụng cũng cần đưa vào Bộ luật tố tụng hình sự. Đối
với pháp lệnh thi hành án phạt tù cũng cần xem xét tương tự như vậy.
Đồng thời cần hạn chế hơn nữa, tiến tới việc loại bỏ TAND, VKSND, Bộ công an hoặc liên ngành các
cơ quan nói trên ban hành những văn bản hướng dẫn nhưng thật chất là quy định những vấn đề
thuộc đối tượng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự .
2) Về thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án: Cần xác định và phân định quyền và
nghĩa vụ, các hành vi tố tụng cụ thể của Điều tra viên, Thủ trưởng cơ quan điều tra, Kiểm sát viên
được phân công kiểm sát điều tra đối với vụ án. Nói cách khác phải cụ thể hóa hơn nữa hoạt động
của người trực tiếp điều tra, người lãnh đạo điều tra. Điều này chỉ có thể làm được trên cơ cở xác
định rõ điều tra là hoạt động thực hiện quyền tư pháp để phân biệt với hoạt động quản lý hành
chính của cơ quan công an[6]. Điều tra là hoạt động tư pháp và chỉ căn cứ vào quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, hạn chế tối đa sự lệ thuộc về tổ chức của người tiến hành tố tụng đối với cấp
quản lý hành chính trong quá trình điều tra vụ án. Về lý thuyết, và phù hợp nhất với đòi hỏi của
Nhà nước Pháp quyền, bảo đảm cho tư pháp độc lập thì lập một hệ thống cơ quan điều tra tố tụng
duy nhất hoặc chủ yếu trực thuộc Viện kiểm sát, tức là thuộc cơ quan thực hành chức năng công tố
vì điều tra và truy tố phải là chức năng, nhiệm vụ của một hệ thống thuộc về tư pháp.
Thế nhưng thực tế của ta lại không cho phép như vậy vì hệ thống điều tra chủ yếu là thuộc Bộ
Công an, còn Viện kiểm sát mới làm được việc “kiểm sát từ xa” và sau đó “truy tố lại” cái mà cơ
quan điều tra đã làm. Giữa điều tra và truy tố đã không thành một khối chặt chẽ. Vậy thì, trong khi
điều tra và truy tố độc lập với nhau như ở nước ta hiện nay thì không thể không tập trung hoạt
động điều tra vào cơ quan điều tra của công an và do đó cố gắng xác định rõ hơn, đầy đủ hơn
quyền hạn, nhiệm vụ của điều tra viên, hạn chế sự “giáp ranh giữa hành pháp và tư pháp”[7].
Về thẩm quyền, giới hạn điều tra của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ điều tra ban đầu cũng
cần được khẩn trương cụ thể hóa hơn nữa. Bộ luật tố tụng hình sự có thể sử dụng khái niệm các cơ
quan điều tra ban ban đầu trên cơ sở các quy định của Điều 93 BLTTHS, và vì vậy tên Điều 93 có
thể ghi rõ: “ Hoạt động điều tra ban đầu”.
- Đối với thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, có thể nói rằng trong tất cả các phương án, nếu xuất
phát từ yêu cầu pháp chế XHCN thì cách liệt kê các điều khoản cụ thể của Bộ luật hình sự để làm
căn cứ xác định thẩm quyền là chuẩn xác hơn cả. Tính phức tạp của từng vụ án không thể là căn
cứ điển hình để phân biệt thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Không thể cho rằng “ thẩm quyền xét

xử phải căn cứ vào tính nghiêm trọng lẫn tính phức tạp” và tính phức tạp thì lại “được xem xét ở
khả năng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm”[8]. Nếu cứ tiếp tục lấy tính phức tạp làm cơ sở để phân
biệt thẩm quyền thì khó có thể xác định dứt khoát được về mặt pháp lý (tức là về pháp luật tố tụng
hình sự) đối với vấn đề này.
- Hoàn chỉnh cơ chế kiểm sát điều tra và cơ chế truy tố, phân biệt chức năng kiểm sát điều tra và
chức năng truy tố. Liệu Kiểm sát viên có thể đại diện cho Nhà nước chịu trách nhiệm chính trước
Nhà nước trong suốt quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự (kể từ khi khởi tố vụ án) hay không?
Điều này là không thực tế. Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố tại Tòa án nhưng thực hiện chức
năng công tố (theo nghĩa rộng) là từ khi tiếp cận hồ sơ với bản kết luận điều tra của cơ quan điều
tra. Từ thời điểm này Viện kiểm sát mới xem xét các căn cứ, các yếu tố để quyết định làm cáo
trạng. Như vậy hoạt động này khác hẳn hoạt động kiểm sát điều tra tức là chủ yếu xem xét tính


hợp pháp của hành vi điều tra mà chưa tập trung, quan tâm đến thu nhập, xem xét, đánh giá
chứng cứ của cơ quan điều tra. Vì vậy trong Bộ luật tố tụng hình sự cần có sự phân biệt về pháp lý
hơn nữa hoạt động kiểm sát điều tra và hoạt động truy tố.
- Pháp chế XHCN không loại trừ những trường hợp ngoại lệ và linh hoạt cho phép một khi được
pháp luật quy định. Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục cần được nghiên cứu kỹ để có thể
áp dụng. Có nhiều ý kiến, nhiều phương án về vấn đề này liên quan đến phạm vi, loại tội, thời gian,
thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, những vấn đề về áp dụng biện pháp
ngăn chặn, về bảo đảm quyền bào chữa. Để phù hợp với thực tế và các nguyên tắc xét xử, việc rút
ngắn thủ tục tố tụng hình sự chủ yếu ở giai đoạn điều tra, truy tố, còn đối với việc xét xử thì nói
chung vẫn theo thủ tục thông thường. Cách đặt vấn đề như vậy theo chúng tôi là đúng mức.
4. Nguyên tắc suy đoán vô tội.
Suy đoán vô tội là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của một nền tư pháp hình sự dân chủ,
“phẩm giá của một nền tư pháp văn minh”, “nguyên tắc nền tảng của tố tụng hình sự”[9].
Nội dung cơ bản của suy đoán vô tội được thể hiện tập trung tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và
Điều 10 BLTTHS: “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Đối với nhiều nước đây là một nguyên tắc hiến định. Trong tố
tụng hình sự Xô Viết và XHCN trước đây trong một thời gian dài, nguyên tắc này được coi là biểu

hiện của quan điểm pháp lý tư sản. Mãi đến năm 1989, Liên Xô mới ghi nhận vào Điều 14 của đạo
luật “Những nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự” với chính thuật ngữ La tinh gốc:
“Praesumptio” – có nghĩa là giả định.
Suy đoán vô tội bao gồm những yêu cầu sau đây:
a) Không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng
không có lỗi, nghĩa là “không làm oan người vô tội” (Điều 1 BLTTHS);
b) Việc khởi tố bị can phải có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật (các Điều 13, 103
BLTTHS);
c) Phải bảo đảm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (Điều 11, Điều 50 BLTTHS);
d) Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 11 BLTTHS; Điều này cũng có nghĩa là
nghiêm cấm mọi hình thức thu thập chứng cứ một cách trái pháp luật (yêu cầu này có thể bổ sung
vào Điều 49 BLTTHS);
e) Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của
vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội (Điều 54
BLTTHS);
f) Bản án kết tội phải là bản án có đủ các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh
được là bị cáo có tội ( Điều 198 BLTTHS): Tư tưởng này cần được khẳng định ngay tại khoản 1 của
Điều 198;
g) Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng, người bị hại trình bày, nếu
họ không thể nói rõ hơn vì sao biết được tình tiết đó (khoản 2 Điều 51; Điều 52 BLTTHS);
h) Bị cáo có quyền không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử. Tư tưởng này cần được đưa vào
Điều 183 BLTTHS;
i) Nếu không thể thu thập thêm chứng cứ thì phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án (Điều 139 và
Điều 155 BLTTHS). Nội dung này cần được quy định thêm vào Điều 89 vì Điều 89 chưa quy định chi
tiết này.
Nhìn chung, những quy định trên đây của BLTTHS đã thể hiện khá đầy đủ những khía cạnh của suy
đoán vô tội, và đều tập trung vào vấn đề chứng minh tội phạm, xác định và đánh giá chứng cứ. Vì

vậy khoản 2 của Điều 11 về trách nhiệm chứng minh tội phạm phải được coi là một nội dung của
nguyên tắc suy đoán vô tội và sẽ hợp lý hơn nếu được đưa vào Điều 10 BLTTHS.


Ngoài ra, một khía cạnh đặc biệt quan trọng khác của suy đoán vô tội là yêu cầu mọi nghi ngờ phải
được giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Nếu có sự nghi ngờ mà không thể bổ sung gì
hơn được về chứng cứ thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi phải “có căn cứ xác định bị
cáo vô tội” như Điều 198 BLTTHS. Khía cạnh này cần được quy định vào Bộ luật tố tụng hình sự sửa
đổi.
Suy đoán vô tội là niềm tin nội tâm là hai mặt của quá trình đánh giá vụ án. Niềm tin nội tâm là
một nội dung của nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – một số nguyên tắc gắn
liền với nền dân chủ tư sản, đối lập với nền tư pháp độc đoán phong kiến và của Tòa án giáo hội.
Tuy nhiên niềm tin nội tâm của người tiến hành tố tụng lại gắn liến với nguyên tắc suy đoán vô tội,
tức là mối liên hệ giữa ý thức chủ quan và đòi hỏi khách quan. Trong khi người tiến hành tố tụng có
quyền và thậm chí tin vào bị can, bị cáo là người có tội thì đồng thời xác định nếu không đủ chứng
cứ để khẳng định được điều đó thì phải tuyên bố bị cáo vô tội.
Từ những nội dung trên đây, nhất là xuất phát từ những quy định trong Bộ luật hiện hành, có cơ sở
để có thể ghi rõ “suy đoán vô tội” vào tên của Điều 10 BLTTHS. Ngoài ra về kỹ thuật lập pháp, tiêu
đề của Điều 10 và phần diễn giải của quy định là gần như nhau (trừ cụm từ “và phải chịu hình
phạt”) cũng là điều không hợp lý. Nếu trước đây chúng ta e ngại thì nay một khi đã coi xây dựng
nền tư pháp pháp quyền là cần thiết thì công việc ghi nhận nguyên tắc này một cách trang trọng
vào BLTTHS chỉ làm cho nó có ý nghĩa hơn mà thôi.
5. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.
Nguyên tắc này có thể sẽ chính xác hơn nếu thể hiện Điều 11 như sau: “Bảo đảm việc xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”. Đây cũng chính là nhiệm vụ bao trùm
của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.
Toàn diện, khách quan, đầy đủ là những đòi hỏi có tính chỉ đạo từ việc thu thập đến kiểm tra, đánh
giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án.
Niềm tin nội tâm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán khi đánh giá chứng cứ chỉ có thể dựa
trên cơ sở đã xem xét toàn diện, đầy đủ, khách quan vụ án. Điều này được thể hiện bằng những

yêu cầu cụ thể sau đây:
a) Mọi chứng cứ và tình tiết của vụ án phải được thu thập, xem xét, đánh giá, kết luận;
b) Chứng cứ phải thu thập đủ đến mức để khẳng định những vấn đề làm cơ sở cho việc khởi tố,
truy tố, xét xử hoặc đình chỉ vụ án.
c) Việc đánh giá chứng cứ và các tình tiết của vụ án phải được tiến hành một cách vô tư;
d) Việc vi phạm nguyên tắc đảm bảo khách quan, toàn diện, đầy đủ đều dẫn đến hệ quả tố tụng:
trả vụ án để điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án, tuyên bố bị cáo vô tội hoặc hủy bản án tại cấp phúc
thẩm.
Nguyên tắc này liên quan chặt chẽ với nguyên tắc suy đoán vô tội và tạo tiền đề cho nhau. Tuy
nhiên bản chất pháp lý của chúng khác nhau. Suy đoán vô tôi là định hướng khách quan, còn
nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là đòi hỏi trực tiếp đối với mọi hành vi tố tụng của người tiến
hành tố tụng trong việc thu thập và đánh giá các chứng cứ và các tình tiết của vụ án. Vì vậy như
trên đã nói, phần 2 của Điều 11 BLTTHS (trách nhiệm chứng minh tội phạm) là nội dung của
nguyên tắc suy đoán vô tội nên cần được quy định vào Điều 10 của BLTTHS thì hợp lý hơn.
6. Nguyên tắc công minh.
Đây là nguyên tắc chưa được thể hiện đúng mức trong BLTTHS.
Cần phân biệt nguyên tắc công minh với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật quy định tại Điều 4 tại BLTTHS.
Thực chất của nguyên tắc công minh được quy định tại cả hai điều; Điều 4 “Bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” và Điều 13 BLTTHS: “Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án
hình sự” với những nội dung sau đây:
a) Khi có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm khởi tố vụ án, xác định
tội phạm và xử lý người phạm tội;


b) Không được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ
đã được bộ luật tố tụng hình sự quy định;
c) Phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án trong những trường hợp Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
d) Phải hủy bỏ các bản án và các quyết định trái pháp luật;
e) Khi có căn cứ thì phải tuyên bố bị cáo vô tội và khôi phục quyền lợi hợp pháp của họ;

f) Người tiến hành tố tụng không lệ thuộc vào người khác khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố
tụng;
g) Công minh gắn liền với công khai, bình đẳng;
h) Công minh gắn liền với nhân đạo;
Bảo đảm nguyên tắc này chính là để thực hiện nhiệm vụ, mục đích của tố tụng hình sự được quy
định tại Điều 1 là xử lý công minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, nguyên tắc công minh càng trở nên đặc biệt quan trọng, và
xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Điều 13 và những quy định khác của Bộ luật tố tụng
hình sự hiện hành như Điều 10, 10a, 12, 15, v.v… chưa thể hiện đầy đủ những yêu cầu trên đây
của nguyên tắc công minh, vì vậy trước hết cần phải mở rộng nội dung của Điều 13 chứ không chỉ
giới hạn ở “trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự”.
Một điểm nữa cần phân biệt nguyên tắc hiến định “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”
(Điều 52 của Hiến pháp đã được cụ thể hóa tại Điều 4 BLTTHS) với nguyên tắc công minh trong
TTHS. Bình đẳng trước pháp luật là nhấn mạnh quyền cơ bản của công dân, còn bảo đảm công
minh trong TTHS là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy hợp lý nhất là kết hợp Điều 4
với Điều 13 như sau: “ Bảo đảm sự công minh trong tố tụng hình sự và quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật”.
7. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Bào chữa gồm tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo, tập trung ở quyền không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu không có tội.
Bộ luật tố tụng hình sự nước ta đã quy định khá đầy đủ những vấn đề liên quan đến bảo đảm
quyền bào chữa, vì vậy không thể cho rằng vai trò của luật sư còn hạn chế là do pháp luật tố tụng
hình sự mà là do nhiều nguyên nhân: trong đó có vấn đề nhận thức chung của các cơ quan tiến
hành tố tụng và của luật sư ( và nói chung là của bị can, bị cáo và người bào chữa), về trình độ của
luật sư ( vấn đề quy chế hoạt động của luật sư, v.v…
Để góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chế định bào chữa, BLTTHS cần được hoàn chỉnh
thêm về những vấn đề cơ bản có tính khả thi sau đây:
1) Về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa, nên tiếp thu ý kiến của đa số người đề nghị
để người bào chữa tham gia kể từ khi có quyết định tạm giữ[10], đối với vụ án rút gọn từ khi khởi
tố vụ án và có quyết định áp dụng thủ tục rút gọn;

2) Về sự tham gia của người bào chữa khi cơ quan điều tra tiến hành những hành vi tố tụng: Có ý
kiến cho rằng người bào chữa có quyền tham gia hỏi cung bị can[11]. Ở đây cần xác định quyền có
mặt tức là quyền được chứng kiến việc hỏi cung bị can nhưng có được đặt câu hỏi cho bị can hay
không ( chứ không phải là “ tham gia hỏi cung”), khi có mặt thì người bào chữa được ghi chép được
xác nhận ( để sau này sử dụng làm cơ sở bào chữa) những hành vi hoặc hình thức hỏi cung trái quy
định của pháp luật như mớm cung, đe dọa, nhục hình, xúc phạm bị can v.v...
Đòi hỏi người bào chữa phải được quyền tham gia hỏi cung thì không hợp lý vì hỏi cung là nhiệm
vụ của người tiến hành điều tra nhằm để thu thập chứng cứ và xác định những tình tiết khác của
vụ án. Tuy nhiên khoản 2 Điều 36 quy định nếu có mặt khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên
đồng ý thì người bào chữa được hỏi bị can. Thiết nghĩ có thể mở rộng như sau: “Được hỏi bị can về
những vấn đề thuộc nội dung vụ án nhưng ngoài những vấn đề mà bị can đã trả lời điều tra viên”.
3) Vấn đề gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Đây là quyền cực kỳ quan trọng của người bào chữa
của bị can, bị cáo. Gặp bị can, bị cáo có cần quy định cụ thể hay không? Nến bị can, bị cáo tại
ngoại thì người bào chữa có quyền trao đổi, tính toán việc bào chữa với bị can, bị cáo, phản bác ý
kiến của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng nếu bị can, bị cáo bị tạm giam thì sự tiếp xúc đó


dĩ nhiên bị hạn chế một cách đặc biệt. Vì vậy phải có quy định cụ thể hơn quyền của người bào
chữa khi gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, nếu không việc gặp này chỉ là hình thức và bị hạn
chế của cơ quan điều tra.
4) Khoản 3 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp
luật quy định để làm sáng tỏ những tình tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ”. Nhưng “điều đáng lưu ý là pháp luật chưa quy định cụ thể về các biện pháp
mà người bào chữa có thể sử dụng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án” [12], hơn nữa cũng
không thể quy định được. Thiết nghĩ, quy định này tại Điều 36 về nghĩa vụ của người bào chữa là
không thực tế và không thể hiện tính chất dân chủ. Vì vậy, hợp lý hơn, và cũng dân chủ hơn mà
không sợ luật sư lạm dụng thì có thể thể hiện như sau: “Bị can, bị cáo và người bào chữa có quyền
sử dụng mọi biện pháp mà pháp luật không cấm để thực hiện quyền bào chữa”.
5) Bảo đảm quyền bào chữa là một nguyên tắc hiến định. Điều 132 của Hiến pháp chỉ mới đề cập

đến bị cáo. Nếu BLTTHS quy định người bị tình nghi, bị can, bị cáo đều có quyền được bảo đảm
quyền bào chữa thì phải sửa Điều 132 của Hiến pháp cho phù hợp. Ngoài ra chúng tôi cho rằng đây
là quyền cơ bản của công dân, không nên để ở Chương X của Hiến pháp mà cần quy định ở
Chương V, sau điều 72 của Hiến pháp và với nội dung của Điều 12 BLTTHS thì sẽ đầy đủ hơn. Vả lại
Chương X của Hiến pháp chỉ quy định những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án còn
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã vượt ra khỏi ý nghĩa đó – đây là quyền
cơ bản của công dân mà Hiến pháp nhiều nước ghi nhận.
8. Nguyên tắc tranh tụng
Tranh tụng có phải là nguyên tắc không? Nếu là nguyên tắc thì cần được thể hiện như thế nào
trong BLTTHS? Đây là vấn đề lớn nhưng lại nặng về thực tiễn hơn là lý luận. Nhiều người cho rằng
đây là một nguyên tắc và phải được khẳng định vào BLTTHS, coi “ tranh tụng là điều quan trọng
nhất để tìm ra chân lý khách quan của vụ án nhưng mới chỉ được “ thể hiện một cách mờ nhạt tại
Điều 20 của BLTTHS với tên gọi là “bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án”, và vì vậy đã cho rằng
tố tụng hình sự của ta chỉ là nguyên tắc công tố mà thôi” [13]. Hơn thế có tác giả còn nhận định là
tố tụng hình sự của ta “ đã đặt bị cáo phải đối mặt với hai kiểu luận tội: luận tội của người giữ
quyền công tố và luận tội của bản thân các vị thẩm phán đã không phát huy được quyền bào chữa
của bị cáo và làm cho hoạt động của luật sư không thực sự phát huy được tác dụng và hiệu quả
mong muốn”[14], rằng “bản chất dân chủ của tố tụng hình sự không phải ở chỗ truy tố, buộc tội
mà ở chỗ tạo ra một thủ tục để làm sáng tỏ tính chất của các hành vi xác định phạm tội hay không
phạm tội”[15]. Và vì vậy, “ tính chất của ngành luật hình thức không phải ở việc xác lập chế độ tố
tụng” và “ luật tố tụng cần đổi thành luật tranh tụng[16].
Chúng tôi cho rằng những nhận định trên đây về cơ bản đã lý tưởng hóa nguyên tắc tranh tụng và
thực ra cũng chưa xác định được thực chất của tranh tụng là gì và BLTTHS của ta đã thể hiện
nguyên tắc này ở mức độ nào, trong điều kiện bước đầu xây dựng nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp thì nên tiếp thu những nội dung của nguyên tắc này phù hợp với thực tế ở nước ta ra
sao? Để trả lời những câu hỏi trên thì trước hết nên hiểu tranh tụng là gì? Có hai quan niệm: tranh
tụng theo nghĩa rộng và tranh tụng theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng thì tranh tụng bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố bị can và kết thúc khi bản án
về vụ án đã có hiệu lực pháp luật[17], còn theo nghĩa hẹp thì quá trình tranh tụng được tiến hành
tại phiên tòa bắt đầu từ thời điểm công bố cáo trạng (từ giai đoại thẩm vấn) và kết thúc khi bản án

có hiệu lực pháp luật[18], và “ quá trình tranh tụng ở nghĩa đầy đủ nhất chỉ có thể được tiến hành
tại phiên tòa sơ thẩm”[19]. Điều 123 của Hiến pháp Nga và Điều 429 BLTTHS Nga coi tranh tụng
với nghĩa hẹp này.
Chúng tôi cho rằng nếu hiểu tranh tụng theo nghĩa hẹp tức là đòi hỏi phải có ba bên thực hiện ba
chức năng: buộc tội (Viện kiểm sát), bào chữa (bị cáo và người bào chữa) và trọng tài [20] (Tòa án)
thì ý nghĩa của tranh tụng sẽ không đầy đủ, dễ đồng nhất tranh tụng với tranh luận như một phần
của xét xử. Vì vậy nên coi thực chất của tranh tụng “ là một quá trình xác định sự thực khách quan
về vụ án đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích và các nhiệm vụ đặt ra của tố tụng
hình sự”, chứ không chỉ là “ một cuộc tranh luận (tranh cãi) giữa các chủ thể khác nhau về vụ án
trước mặt người thứ ba đứng giữa hai bên làm trọng tài phân xử đó là Tòa án”[21] và chỉ giới hạn
nội dung của tranh tụng ở hai nội dung cơ bản là “bảo đảm sự bình đẳng cả về mặt pháp lý và thực
tế giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong quá trình tố tụng hình sự, đặc biệt là ở tại phiên tòa và
ở sự phân định rõ chức năng xét xử của Tòa án không bao gồm cả việc buộc tội”[22].
Vì vậy, để thực sự khách quan thì phải thừa nhận về mặt pháp lý ( còn trên thực tế lại là một vấn
đề khác) rằng BLTTHS của ta đã bao gồm rất nhiều quy định cụ thể thể hiện những khía cạnh
nguyên tắc tranh tụng. Tính chất tranh tụng thể hiện trong toàn bộ quá trình tố tụng tức là theo
nghĩa rộng chứ không chỉ là trong giai đoạn xét xử, hơn nữa – cũng về mặt pháp lý – hoạt động
thẩm vấn tại phiên tòa hoàn toàn không phải là căn cứ để cho rằng Tòa án đã cùng Viện kiểm sát


thực hành việc buộc tội. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng thể hiện ở nhiều quy định của
BLTTHS: Điều 20 (quyền bình đẳng đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh tụng trước Tòa án);
Điều 17 ( thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật); Điều 11
( xác định sự thật khách quan, toàn diện và đầy đủ chứng cứ và những tình tiết của vụ án); các
Điều 34 đến 46; các điều quy định về thu thập chứng cứ ( Chương IV); về thủ tục tố tụng tại phiên
tòa (Điều 159;162; các Điều từ 164 đến 168; Điều 170;197; các Điều từ 217 đến 219; Điều 249).
Tranh tụng đã tồn tại, đã được thể hiện cùng với các nguyên tắc khác trong một thể thống nhất
như bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc xác định
sự thật của vụ án; nguyên tắc pháp chế XHCN. Vì vậy, nếu chỉ Điều 20 của BLTTHS thì chưa thể
hiện đầy đủ nội dung của nguyên tắc tranh tụng, vì Điều 20 chỉ mới nói đến bình đẳng trước Tòa án

mà tranh tụng thì có nội dung thể hịên trong toàn bộ quá trình tố tụng một khi – ít nhất – là thừa
nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Như vậy sự bình đẳng giữa bên buộc tội và
bên bào chữa đã được đặt ra ngay trong các giai đoạn điều tra, truy tố. Về bản chất, nguyên tắc
tranh tụng phụ thuộc nhiều nhất vào các quy định bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, vào
khả năng luật sư, người bào chữa thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình. Vì vậy, tranh tụng và
bình đẳng giữa các bên, cũng như các nguyên tắc khác phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên ngoài,
yếu tố pháp lý. Vì vậy nếu cho rằng do không có cơ chế tranh tụng nên Tòa án của ta hiện nay chưa
làm đúng chức năng xét xử, chức năng trọng tài thì chưa thỏa đáng. Thiết nghĩ, tình trạng này
không hoàn toàn xuất phát từ vấn đề pháp lý. Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, BLTTHS
đều đã khẳng định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử và hoạt động xét xử của Tòa án tại các phiên
tòa đều là nhằm xem xét, đánh giá, kiểm tra chứng cứ và những tình tiết đã có, đặc biệt có những
quy định như trả hồ sơ để điều tra bổ sung ( Điểm a,b và khoản 2 Điều 154); đình chỉ vụ án ( Điều
155); Điều 170 về giới hạn của việc xét xử, không hạn chế thời gian tranh luận (Điều 192), trường
hợp trở lại việc xét hỏi ( Điều 193; 197), đặc biệt quy định tại điều 196 (nghị án): “Nếu việc rút truy
tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên” và “
khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa” và những
quy định khác đều chứng tỏ Tòa án không phải là cơ quan buộc tội mà chỉ là cơ quan xét xử. Việc
Tòa án kết tội bị cáo vì có đủ căn cứ đã có trong hồ sơ không có nghĩa là Tòa án buộc tội mà là
nhân danh Nhà nước kết án bị cáo. Ở đây cần phân biệt nghĩa vụ chứng minh tội phạm thông qua
xét xử, kiểm tra chứng cứ vốn là một yêu cầu cơ bản của suy đoán vô tội mà Tòa án phải tuân thủ (
Điều 11, Điều 47 v.v…) với việc ra bản án kết tội - kết luận cuối cùng của quá trình xét xử.
Như vậy, xung quanh tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng còn những vấn đề phải bàn luận nhưng
cần khẳng định rằng:
1) BLTTHS của nước ta đã thể hiện những nội dung cơ bản và cơ chế của tranh tụng, vấn đề là, với
tinh thần đổi mới và quan điểm nhà nước pháp quyền, điềi này cần được khẳng định rõ trong
BLTTHS sửa đổi.
2) Mở rộng Điều 20 BLTTHS thành một nguyên tắc với nội dung tranh tụng như sau: “ Điều tra, truy
tố, xét xử (hoặc “hoạt động tố tụng”) được tiến hành phù hợp với yêu cầu tranh tụng và đảm bảo
bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa”
9. Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại điều 130 Hiến pháp năm 1992 và Điều 17
BLTTHS. Tư pháp độc lập là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của nhà nước pháp quyền và
của nền tư pháp dân chủ. Sự độc lập của Tòa án biểu hiện cụ thể bằng sự độc lập trong xét xử, sự
độc lập đó dựa trên cơ sở là chỉ tuân theo pháp luật.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nguyên tắc này đang được từng bước bảo
đảm bằng những quy định về tổ chức, về quy chế thẩm phán đến những quy định của pháp luật tố
tụng:
- Về tổ chức, đã thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, tuy nhiên, chúng tôi cho rằng nhiệm kỳ
của Thẩm phán cần phải được kéo dài hơn, nhất là cấp tỉnh, có thể là 10 năm.
- Về quy chế Thẩm phán, cần có những quy định pháp lý đề cao hơn nữa vị trí của thẩm phán như
bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể đối với Thẩm phán; đòi hỏi trình độ chuyên môn,
kiến thức pháp lý của Thẩm phán, hạn chế tình hình bố trí Thẩm phán bằng cách đưa cán bộ các
ngành, các đoàn thể sang Tòa án sau đó mới đi học chuyên môn pháp luật; phải có đội ngũ Hội
thẩm nhân dân có kiến thức pháp lý cần thiết, có thể tiến tới tăng số lượng Thẩm phán trong Hội
đồng xét xử và giảm số lượng Hội thẩm nhân dân. v.v…
- Để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì pháp luật hình
sự và pháp luật tố tụng hình sự đều phải được quy định chính xác, thống nhất, chặt chẽ. Tòa án độc
lập đối với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước khác. Hạn


chế việc giải quyết các vụ án theo chủ trương án trọng điểm, vừa để bảo đảm nguyên tắc công
minh nhưng cũng là tránh sự chỉ đạo và sự lấn át của hành pháp đối với hoạt động của Tòa án.
- Đối với các vụ án cụ thể, Hội đồng xét xử chỉ tuân theo hướng dẫn chung áp dụng pháp luật, về
đường lối xét xử nhưng không được phép để có sự áp đặt của Tòa án cấp trên về những vấn đề áp
dụng pháp luật hình sự, về đánh giá vụ án và áp dụng hình phạt.
KẾT LUẬN
Trong hệ thống các nguyên tắc tố tụng hình sự còn những nguyên tắc khác, nhất là những nguyên
tắc về xét xử của Tòa án. Sửa đổi BLTTHS phải bao bồm việc xác định, quán triệt hơn nội dung của
cả những nguyên tắc đó. Tuy nhiên có những nguyên tắc có thể nói về pháp lý không có vấn đề gì
lớn để xem xét như: Tòa án xét xử tập thể, có Hội thẩm nhân dân tham gia, xét xử công khai, tiếng

nói và chữ viết v.v… Có chăng là cần xem xét trong số những nguyên tắc đó có thể có nguyên tắc
phát huy hiệu quả thấp chẳng hạn nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia cần điều
chỉnh cho phù hợp hơn nữa với yêu cầu của thực tế xét xử.
Cuối cùng, thiết nghĩ, nguyên tắc sẽ chỉ là những tuyên ngôn (kể cả nguyên tắc Hiến định) nếu
không có những cơ chế cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện các nguyên tắc. Để nguyên tắc có thể trở
thành những tư tưởng chủ đạo, những yêu cầu cơ bản được đảm bảo trong thực tế thì những nội
dung của các nguyên tắc cần phải được thể hiện rõ ràng, đầy đủ hơn mà không nhất thiết lập lại
nguyên văn các quy định của Hiến pháp, vì rằng Luật cần cụ thể hóa Hiến pháp.

Người bào chữa trong tố tụng hình sự
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại chương 3 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 thì
người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý
luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và thống
nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những
người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Hơn nữa, xuất phát từ nhiều lý do
khác nhau nên người bào chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào
chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực
định. Bài viết này như là một trong những cố gắng chung để làm sáng tỏ ngững vấn đề còn bất cập
nói trên.
I. Về khái niệm người bào chữa:
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác nhau về người bào
chữa. Có một số quan điểm cho rằng:: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định
tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp
luật”[1]. Một tác giả khác còn khẳng định rõ hơn rằng người bào chữa là người tham gia tố tụng để
giúp đỡ Tòa án[2]. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm người bào chữa là “thầy cãi”…
Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng
của người bào chữa cũng như chưa phân biệt được người bào chữa với người tiến hành tố tụng, với
người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thật ra, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là
người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham
gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do những chủ thể
khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân
danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, cũng không thể đồng nhất khái niệm người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Ngay trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã có sự phân biệt giữa người bào chữa vời
người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tiêu chí để phân biệt chính là chức năng của họ và đối tượng
mà họ bào chữa, bảo vệ[3]. Người bào chữa tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho
đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia
tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào
chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải
được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng


hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào
chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên
ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị
buộc tội.
Từ những phân tích trên chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình
sự như sau: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô
tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa”.
II. Các loại người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:
Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự quy định người bào chữa có thể là:

- Luật sư;
- Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo;
- Bào chữa viên nhân dân.
Trong những người nói trên thì luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp. Pháp lệnh tổ chức luật sư
1987 đã quy định một trong những hình thức giúp đỡ pháp lý chủ yếu của luật sư là tham gia tố
tụng với tư cách là người bào chữa. Thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta cũng cho thấy sự
hiện diện của luật sư với tư cách là người bào chữa trong các vụ án hình sự ngày càng phổ biến.
Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo cũng được pháp luật xác định là người bào chữa trong
tố tụng. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời đến nay đã hơn 10 năm nhưng
về phương diện pháp lý chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích rõ người đại diện hợp
pháp của bị can, bị cáo là ai. Trong Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 18/12/1988 của Tòa án
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi đề cập đến quyền kháng cáo đã hướng dẫn:
“Đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên là bố mẹ hoặc người đỡ đầu của họ”[4]. Nội dung
trên đã gián tiếp làm rõ người đại diện hợp pháp nhưng chỉ là người đại diện hợp pháp của bị cáo là
người chưa thành niên chứ không phải là người đại diện hợp pháp cho bị can, bị cáo nói chung như
quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1991 đã khẳng định: “ Người thân thích của bị cáo không
phải là người bào chữa, nhưng thực tiễn cho thấy có những vấn đề, có những tình tiết thuộc về vụ
án, thuộc về nhân thân của bị cáo thì chỉ có những người thân thích mới thấu hiểu và nắm bắt được
một cách tường tận và do đó họ có thể giúp cho Hội đồng xét xử cân nhắc việc xử lý được chính
xác hơn, bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó,
người thân thích của bị cáo có quyền làm người bào chữa cho bị cáo” [5]. Rõ ràng, nội dung hướng
dẫn trên chứa đựng sự mâu thuẫn có tính chất nội tại khi khẳng định người thân thích của bị cáo
không phải là người bào chữa nhưng sau đó lại cho phép người thân thích của bị cáo có quyền
tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho bị cáo. Hơn nữa, hướng dẫn này cũng đã không làm rõ
người thân thích của bị cáo là ai. Thực tiễn tố tụng hình sự những năm qua cũng cho thấy là chưa
có trường hợp nào người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách người
bào chữa. Đây là một thiếu sót lớn của pháp luật thực định cần sớm được khắc phục.
Người bào chữa trong tố tụng hình sự còn có thể là Bào chữa viên nhân dân. Chức danh Bào chữa
viên nhân dân ở nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949. Sau đó, Nghị định số

01 – NĐ – VY ngày 12/1/1950 của Bộ Tư pháp đã quy định rõ tiêu chuẩn Bào chữa viên nhân dân.
Trong suốt thời gian dài ( từ 1949 – 1987) Bào chữa viên nhân dân đã đóng một vai trò rất lớn trong
tố tụng hình sự. Đến năm 1987 cả nước có 30 Đoàn Bào chữa với tổng số gần 400 Bào chữa viên
nhân dân[6]. Tuy nhiên từ năm 1989 đến nay khi các Đoàn luật sư được khôi phục lại ở các địa
phương thì các Đoàn Bào chữa đã chấm dứt hoạt động và giải thể, do đó chức danh Bào chữa viên
nhân dân chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý.
Từ những lý do nói trên mà người bào chữa trong tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu chỉ là luật sư.
Đội ngũ luật sư ở nước ta hiện nay vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng lại phân bổ không
đồng đều ở các địa phương nên chẳng những làm hạn chế sự lựa chọn của bị can, bị cáo mà trong
nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số
liệu thực tế cho thấy những vụ án hình sự có luật sư tham gia bào chữa chiếm tỉ lệ rất thấp trên
tổng số án hình sự mà Tòa án đã đưa ra xét xử ( Theo báo cáo của 46 Đoàn Luật sư thì từ khi thành
lập Đoàn cho đến năm 1993 các Luật sư đã tham gia bào chữa được 22.331 vụ chiếm tỉ lệ khoảng
16% so với tổng số án hình sự mà Tòa án đã đưa ra xét xử[7]).


Thực trạng đó buộc chúng ta phải suy nghĩ khi nói đến nguyên tắc hiến định là đảm bảo quyền bào
chữa của bị can, bị cáo. Vấn đề đặt ra là cần phải mở rộng phạm vi những người có quyền tham gia
tố tụng với tư cách là người bào chữa cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn.
III. Một số kiến nghị:
Với những suy nghĩ trên đây chúng tôi thấy cần phải nêu lên những kiến nghị cụ thể sau:
+ Một là, trước mắt và về lâu dài cần tăng cường đội ngũ luật sư cả về số lượng lẫn chất lượng để
đáp ứng kịp thời và có hiệu quả nhu cầu của thực tiễn tố tụng hình sự. Để thúc đẩy tiến trình này
trước hết cần sớm ban hành Pháp lệnh tổ chức luật sư mới để thay thế Pháp lệnh tổ chức luật sư
năm 1987 vốn đã quá lạc hậu. Theo đó, Pháp lệnh mới sẽ được quy định rõ hơn, đầy đủ hơn về
điều kiện, tiêu chuẩn của luật sư, trong đó chú trọng đến tiêu chuẩn về đạo đức và nghiệp vụ của
luật sư. Đồng thời Pháp lệnh mới cần tạo ra quy trình công nhận luật sư theo hướng thông thoáng
hơn trên cơ sở bảo đảm được sự quản lý của Nhà nước và tôn trọng tính tự quản của tổ chức luật
sư.
+Hai là, việc sữa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự sắp tới cần làm rõ người đại diện hợp pháp

của bị cáo trong tố tụng hình sự là những đối tượng nào để tạo điều kiện cho quy định đó được thi
hành trong thực tiễn tố tụng hình sự. Theo chúng tôi, nên tham khảo những quy định về người đại
diện hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
+ Ba là, cần khôi phục lại chế định Bào chữa viên nhân dân. Đã đến lúc Chính phủ nên ban hành
Quy chế hoặc Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Đoàn Bào chữa viên nhân dân để chính
thức khôi phục lại chế định có nhiều ưu điểm này.
+ Bốn là, trong tương lai cần nghiên cứu để từng bước mở rộng phạm vi của những người có quyền
tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa không chỉ giới hạn trong khuôn khổ của Điều 35 Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành mà phải tiến tới khả năng cho phép bất kỳ ai có nhân thân tốt, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có bằng cử nhân Luật, được tín nhiệm của bị can, bị cáo và sự
chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng thì đều có quyền tham gia bào chữa. Dĩ nhiên, khi đó
pháp luật tố tụng hình sự sẽ phải có những quy định chặt chẽ về việc tham gia bào chữa của này.
Thiết nghĩ, tất cả những kiến nghị nêu trên nếu được chấp thuận sẽ góp phần trực tiếp vào việc
thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong thực tiễn tố tụng hình
sự ở nước ta.

Vấn đề mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm
VẤN ĐỀ MỞ RỘNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và đang được tiến hành một cách toàn diện, sâu sắc.
Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới mang lại đã tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất
nước ta bước vào một thời kỳ mới. Hiến pháp 1992 được ban hành đã tạo ra cơ sở pháp luật quan
trọng cho hoạt động của Nhà nước và toàn bộ đời sống xã hội. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992,
Nhà nước ta đã và đang tiến hành cải cách đổi mới hệ thống pháp luật cho phù hợp với Hiến pháp,
với sự phát triển của xã hội, trong đó có việc hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng
hình sự ban hành năm 1988 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1989. Sau hơn 10 năm thi hành
đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự đã ba lần sửa đổi, bổ sung. Tuy vậy, Bộ luật tố tụng hình sự vẫn
bộc lộ những hạn chế nhất định . Quá trình tổng kết 10 năm thi hành luật của ngành Kiểm sát, Tòa
án, Nội vụ, Tư pháp có khoảng 50% số điều luật được đề nghị sửa đổi. Nhiều quy định về phân cấp

thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự chưa phù hợp, đặc biệt là phân định thẩm quyền xét xử của
Tòa án các cấp. Xác định được tầm quan trọng của cuộc cải cách tư pháp, Nghị quyết hội nghị lần
thứ VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đưa ra quan điểm chỉ đạo về việc sửa đổi
Bộ luật tố tụng hình sự, trong đó nghiên cứu mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện,
cụ thể là “Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện, quận theo hướng xét xử
sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Tòa án
nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử thống nhất theo pháp
luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Nghiên cứu thành lập Tòa án chuyên
môn”.
Như vậy nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện là một trong
những nội dung quan trọng của việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự, xác định sự cần thiết khách
quan của việc sửa đổi, làm rõ các cơ sở để xác định mức thẩm quyền phù hợp là việc làm hết sức
cần thiết.


I
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẩn
trương bắt tay xây dựng củng cố bộ máy Nhà nước để bảo vệ thành quả Cách mạng, xây dựng một
Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân. Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh thành
lập Tòa án quân sự ở các địa phận khác nhau trong cả nước. Tuy nhiên vì yêu cầu Cách mạng lúc
bấy giờ, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới chỉ thiết lập các tòa án quân sự mà chưa tổ
chức hệ thống Tòa án các cấp và các Tòa án quân sự cũng chỉ xét xử các vụ án hình sự mà không
xét xử các vụ án dân sự.
Ngày 24/01/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 13 về tổ chức Tòa án và ngạch thẩm
phán. Sắc lệnh này đã phân chia Tòa án xét xử thành hai cấp sơ cấp và đệ nhị cấp. Tòa án cấp sơ
cấp gồm các Tòa án của phủ, huyện, châu. Tòa án đệ nhị cấp là gồm các Tòa án tỉnh. Nhưng để
phân biệt thẩm quyền của các Tòa án, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 51 ngày 17/04/1946 ấn định
thẩm quyền xét xử của các Tòa án. Theo quy định của Sắc lệnh này thì thẩm quyền xét xử của Tòa
án sơ cấp về hình sự có quyền xét xử chung thẩm: những án phạt bạc từ 0,50 đồng đến 9,00 đồng;
những án xử bồi thường từ 150 đồng trở xuống do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh

thỉnh cầu trong đơn khiếu kiện hay chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra Tòa xử và sơ thẩm những vụ
án phạt giam từ 1 đến 5 ngày. Việc phân định thẩm quyền xét xử về hình sự trong Sắc lệnh này tồn
tại một thời gian khá dài, cho đến ngày 14/07/1960 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa khóa II đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Trên cơ sở của Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân ngày 23/6/1967 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ
thể về tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương. Pháp lệnh này quy định Tòa án nhân dân thành
phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền phân xử những
việc hình sự nhỏ không phải mở phiên Tòa; sơ thẩm những vụ án hình sự có thể bị phạt tù từ 2 năm
trở xuống. Năm 1980, khi Hiến pháp 1980 ban hành, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 04/7/1981 theo quy định tại Điều 36 Luật này
thì các Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án hình sự trừ những loại việc sau đây:
+ Những tội xâm phạm an ninh quốc gia
+ Những tội xâm phạm khác có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả quá lớn
Ngày 28/8/1988 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự, đồng thời Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung luật Tòa án nhân dân và Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh
tổ chức Tòa án quân sự. Theo quy định tại hai văn bản pháp quy này thì thẩm quyền xét xử của Tòa
án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được quy định cụ thể hơn…Theo Khoản
1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án nhân dân huyện và Tòa án quân sự khu vực có thẩm
quyền xét xử những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 7 năm tù trở xuống trừ
các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và trừ các tội quy định tại các Điều 89, 90,
91, 92, Khoản 3 Điều 101, các Điều 102, 179, 231, và 232 Bộ luật hình sự. Quy định trên về thẩm
quyền của Tòa án nhân dân các cấp tập trung vào Tòa án nhân dân huyện. Khi quy định và hướng
dẫn này đã đầy đủ thì việc thực hiện thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân tỉnh sẽ giảm đi nhiều
vướng mắc. Vì vậy, sau khi Bộ luật tố tụng hình sự ban hành, để thi hành một số quy định của Bộ
luật này về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã có văn bản hướng dẫn như Thông tư liên ngành
số 02 ngày 12/1/1989 và Thông tư liên ngành số 02 ngày 15/2/1990. Ngày 9/6/2000 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định: “ Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa
án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 7

năm tù trở xuống trừ những tội sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc qia.
- Các tội quy định tại các Điều 95, 96, khoản 1 Điều 172 và các Điều 222, 223, 263, 293, 294, 295,
296, Bộ luật hình sự.
II
Như vậy, về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện đã có nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành nhưng đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền xét xử của Tòa án này trong
lĩnh vực xét xử hình sự. Trên cơ sở Nghị quyết lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
đã có hai loại ý kiến khác nhau về việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng bước đầu chỉ nên tăng thẩm quyền xét xử cho một số Tòa án nhân
dân cấp này mà không nên tăng thẩm quyền theo kiểu đồng loạt với lý do là về cơ sở vật chất, tổ
chức con người ở Tòa án cấp này hiện tại không đồng đều nhau. Mặt khác, ở một số Tòa án nhân
dân tỉnh (phần lớn miền núi) thì số lượng vụ án hình sự xét xử hàng năm không nhiều. Nếu tăng


thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện thì số lượng vụ án mà Tòa án nhân dân tỉnh xét xử
sơ thẩm sẽ giảm xuống và do đó sợ rằng Tòa án cấp tỉnh sẽ không có việc làm. Vì vậy, theo quan
điểm này thì chỉ nên tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện cho một số Tòa án như
các Tòa án nhân dân quận của thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng ta dễ thấy rằng, loại ý kiến này xuất phát từ mục đích giảm bớt sự
quá tải, san bớt gánh nặng mà không xuất phát từ nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước, không
xuất phát từ nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và sẽ quy định như thế nào
về vấn đề này để có sự thống nhất trong nhân dân. Bên cạnh đó, sẽ giải thích như thế nào về chế
độ chính sách đối với các Tòa án cấp này được tăng thẩm quyền; đối với Thẩm phán, cán bộ các
Tòa án này, chưa nói đến yêu cầu, tiêu chuẩn đối với Thẩm phán các Tòa án được tăng thẩm quyền
có khác với yêu cầu, tiêu chuẩn của Thẩm phán các Tòa án không được tăng thẩm quyền hay
không?
Loại ý kiến thứ hai là nên tăng thẩm quyền xét xử về hình sự cho tất cả các Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Tòa án quân sự khu vực với lý do bảo đảm sự
thống nhất trong tổ chức bộ máy Nhà nước, bảo đảm sự thống nhất trong pháp luật. Đặc biệt đảm

bảo thực hiện thống nhất đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc từng bước tăng
thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện là Tòa án xét xử sơ thẩm đại đa số các vụ án hình sự.
Mặc dù ở các Tòa án nhân dân huyện hiện nay cơ sở vật chất, tổ chức, con người ở Tòa án này
không đồng đều, ở một số Tòa án cấp tỉnh số lượng các vụ án hình sự xét xử sơ thẩm hàng năm
không nhiều. Thế nhưng việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cho Tòa án cấp
huyện không chỉ phụ thuộc vào số lượng vụ án hình sự mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử hàng
năm nhiều hay ít mà còn phụ thuộc vào cơ sở vật chất, tổ chức, con người, vào nguyên tắc tổ chức
bộ máy Nhà nước và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm… mà đây là những vấn đề mang
tính tạm thời và có khả năng khắcc phục được. Vì vậy chúng tôi ủng hộ loại ý kiến thứ hai này. Tuy
nhiên tăng thẩm quyền xét xử về hình sự cho tất cả các Tòa án nhân dân cấp huyện đến bao nhiêu
và tăng như thế nào thì trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn còn nhiều phương án khác nhau
chưa thống nhất, cụ thể là:
- Phương án 1: Căn cứ vào việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự mới, quy định cho Tòa án
nhân dân huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng và tội rất nghiêm trọng trừ các tội xâm phạm an ninh quốc qia, những tội phạm do người
nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam; các tội khác quy định tại các điều của Bộ luật hình sự
như giết người, ma túy, buôn lậu qua biên giới…
- Phương án 2: Có thể quy định liệt kê trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) những điều luật và
khung hình phạt cụ thể của Bộ luật hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện
theo hướng được áp dụng tất cả các khung 1, khung 2 và khung 3 trừ một số trường hợp ngoại lệ.
- Phương án 3: Mở rộng thẩm quyền cho Tòa án quận, huyện được xét xử những tội phạm mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tới 10 năm hoặc 12 năm, 15 năm tù trừ các tội xâm hạm an ninh
quốc gia, những tội do người nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam và một số tội khác.
Chúng tôi ủng hộ phương án này, vì đây là cách tăng hợp với việc quy định thẩm quyền xét xử cho
Tòa án huyện có tính truyền thống từ trước đến nay, cụ thể là từng bước mở rộng thẩm quyền xét
xử sơ thẩm cho Tòa án (các huyện) một cách phù hợp với tình hình thực tiễn về trình độ, số lượng
Thẩm phán và cơ sở vật chất kỹ thuật của Tòa án huyện. Với điều kiện hiện nay, chúng tôi nhận
thấy cần mở rộng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân huyện đến 10 năm tù trừ các tội xâm phạm an
ninh quốc gia (tại chương XI Bộ luật hình sự 1999 trừ những tội do người nước ngoài thực hiện trên
lãnh thổ Việt Nam).

III
Theo chúng tôi việc tăng thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện được xét xử những tội phạm mà
Bộ luật hình sự qui định hình phạt đến 10 năm tù là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp với
điều kiện thực tế của xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển chung và có tính khả thi với những lý do
sau:
1) Hệ thống pháp luật hiện nay đã được cơ bản hoàn thiện. Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự
cùng các luật và văn bản dưới luật khác trong hệ thống pháp luật là cơ sở thuận lợi cho việc điều
tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
2) Việc xét xử ở Tòa án nhân dân cấp huyện bao giờ cũng thuận lợi hơn cho những người tham gia
tố tụng có mặt tại phiên tòa. Đó là một trong những yếu tố đảm bảo cho việc xét xử khách quan,
chính xác đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và các đương sự. Vì phạm vi lãnh thổ của
tỉnh quá rộng nên tình trạng xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng ở các Tòa án cấp tỉnh
xảy ra phổ biến hơn ở các Tòa án nhân dân cấp huyện.
3) Xét ở góc độ kinh tế, việc xét xử ở Tòa án nhân dân cấp huyện tiết kiệm hơn nhiều so với xét xử
ở cấp tỉnh. Từ việc chi phí cho các hoạt động điều tra, xét xử đến chi phí đi lại, sinh hoạt của những


người thamgia tố tụng, tổ chức xã hội tham gia phiên tòa khi phải xét xử ở Tòa án nhân dân tỉnh thì
luôn dẫn đến sự hao tốn nhiều về thời gian, tiền của, nhân lực.
4) Việc xét xử ở Tòa án nhân dân huyện có nhiều điều kiện thuận lợi như về phương tiện đi lại, thời
gian… nên ít có trường hợp phải hoãn phiên tòa vì vắng mặt người tham gia tố tụng, vì vậy thời
hạn xét xử không bị kéo dài, số án tồn đọng ít hơn so với việc xét xử ở Tòa án nhân dân tỉnh.
5) Thực trạng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân hiện nay: đội ngũ cán bộ Tòa án nói chung, Tòa
án nhân dân huyện nói riêng hình thành sau chiến tranh. Lúc này do thiếu cán bộ nên chủ yếu cán
bộ ở Tòa án là từ quân đội hoặc từ các cơ quan đoàn thể khác chuyển sang. Số cán bộ này hầu như
không qua đào tạo cơ bản chuyên ngành. Trong nước, các trường Đại học Luật thành lập muộn hơn
so với các trường Đại học khác. Những điểm này đã ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cán bộ Tòa
án nói chung và Tòa án huyện nói riêng. Mặc khác, chế độ bầu cử Thẩm phán lúc ấy chưa quy định
tiêu chuẩn cụ thể về chuyên môn của Thẩm phán, thủ tục tuyển chọn Thẩm phán có phần thiếu
chặt chẽ so với hiện nay. Từ khi có Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm phán nhân dân ngày

14/5/1993, Thẩm phán Tòa án các cấp được chủ tịch nước bổ nhiệm, tiêu chuẩn được bổ nhiệm
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định khá chặt chẽ. Hiện nay, Thẩm phán của Tòa
án nhân dân cấp huyện ngoài những tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 pháp lệnh thì họ phải có trình
độ cao đẳng Tòa án, hoặc đại học Luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ 4 năm trở lên, có
năng lực xét xử các vụ án theo thẩm quyền. Với qui định như hiện nay, thực trạng số lượng Thẩm
phán Tòa án nhân dân huyện và trình độ chuyên môn như thế nào? Theo báo cáo số 124CP-PCM
ngày 28/10/1997 của Chính phủ trước Quốc hội thì từ đầu nhiệm kỳ đến nay Chủ tịch nước đã bổ
nhiệm 908 Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh; 2199 Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện;
108 Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và khu vực. Nhìn chung đội ngũ Thẩm phán Tòa án địa
phương đã được tăng cường về số lượng. Tuy nhiên so với số lượng Thẩm phán mà ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định cho Tòa án nhân dân huyện thì số Thẩm phán hiện có của Tòa án nhân dân
huyện còn thiếu 1316 người (tỉnh thiếu 210 người, Tòa án quân sự thiếu 32 người) số lượng thẩm
phán thiếu chủ yếu tập trung vào phía Nam, một số huyện mới chia tách và các địa phương ở vùng
sâu vùng xa, vùng miền núi. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Tư pháp đã có phương án giải quyết
là các địa phương có kế hoạch chuẩn bị nguồn bổ sung. Nguồn này chủ yếu là đội ngũ thư ký,
chuyên viên các Tòa án ở địa phương với hơn 1000 người có trình độ Đại học và tham gia công tác
tại cơ quan Tòa án từ 2 đến 3 năm trở lên. Mặc khác, trong nước đã có trường đào tạo chức danh tư
pháp đã mở lớp đào tạo tư pháp khóa 2, số này ra trường có thể tuyển chọn để bổ nhiệm Thẩm
phán cấp huyện. Bộ Tư pháp có phương án phối hợp với Tòa án tối cao để điều động thuyên chuyển
nhằm đảm bảo số Thẩm phán thiếu hụt cho các tỉnh phía Nam.
6) Khảo sát trình độ chuyên môn của Thẩm phán Tòa án huyện qua hai nhiệm kỳ đã cho thấy sự
phát triển đội ngũ Thẩm phán cả về số lượng và chất lượng. Thẩm phán huyện đã từng bước nâng
cao trình độ học vấn, chuyên môn và đạt tiêu chuẩn cần thiết theo quy định của pháp luật. Cụ thể
theo nhiệm kỳ trước năm 1993, Thẩm phán (huyện) có trình độ đại học chỉ có 250 người, chiếm tỉ
lệ 18,2%. Từ nhiệm kỳ 1994 – 1999 đã có 1282 Thẩm phán (huyện) có trình độ đại học, chiếm tỉ lệ
58,3%. Mặc khác, chất lượng xét xử của Tòa án huyện ngày càng được nâng cao thể hiện ở kết quả
xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể, năm 1997 có 5922 vụ trong đó y án
90,18%, hủy án 3,07%, sửa án 6,75%; năm 1998 có 5211 vụ trong đó y án 63,92%, hủy án 7,53%,
sửa án 28,54%; 3 tháng cuối năm 1998 và 3 tháng đầu năm 1999 có 3095 vụ trong đó 61,83% y
án, hủy án 6,09%, và sửa án 32,04%. Nhìn chung trong những năm qua Tòa án nhân dân huyện

trong cả nước đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên chất lượng xét xử không đồng đều
qua các năm, tỉ lệ sửa án và hủy án tương đối cao.
7) Vấn đề Hội thẩm nhân dân, cơ sở vật chất củaTòa án huyện cũng là một vấn đề cần quan tâm
khi mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án huyện. Theo pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân năm 1993 thì tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, trình độ học vấn của Hội thẩm nhân dân chưa
được quy định, do đó chất lượng Hội thẩm nhân dân là vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra đa số đều không
được đào tạo và không có chuyên môn về xét xử, việc quản lý Hội thẩm nhân dân, bồi dưỡng
nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân cấp huyện là khâu yếu hiện nay. Trong khi đó, khi xét xử, Tòa án
xét xử theo nguyên tắc xét xử tập thể, quyết định theo đa số, mà Hội thẩm nhân dân trong thành
phần Hội đồng xét xử sơ thẩm cấp huyện lại chiếm đa số, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng án hình sự của Tòa án cấp huyện. Ngoài ra, điều kiện cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân
huyện cũng cần phải kiện toàn mới có khả năng đáp ứng yêu cầu khi tăng thẩm quyền cho Tòa án
huyện.
8) Nghiên cứu hệ thống khung hình phạt trong Bộ luật hình sự mới (có hiệu lực từ ngày 1/7/2000)
cho thấy có tổng số 626 khung hình phạt trong đó tăng số khung có mức cao nhất dưới và từ 7
năm tù trở xuống có 343 khung, chiếm 54,79%; tổng số khung có mức cao nhất dưới và từ 10 năm
tù trở xuống có 405 khung, chiếm 64,69%; tổng số khung có mức cao nhất dưới và từ 12 năm tù
trở xuống có 432 khung, chiếm 69%; tổng số khung có mức cao nhất dưới và từ 15 năm tù trở
xuống có 504 khung, chiếm 80,5%. Theo Bộ luật hình sự hiện hành có 431 khung, nếu tính theo
quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ được xét
xử 229 khung, chiếm tỉ lệ 39,67%. Như vậy, nếu mở rộng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân


cấp huyện được xét xử những tội mà khung hình phạt quy định đến 10 năm tù theo Bộ luật hình sự
mới, Tòa án huyện sẽ được xét xử 405 khung, chiếm tỉ lệ 64,69% và so với thẩm quyền xét xử hiện
hành thì Tòa án nhân dân huyện đã được xét xử tăng thêm 176 khung.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, việc tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện
trong giai đoạn này là hoàn toàn hợp lý và là một nhu cầu cấp thiết. Việc mở rộng thẩm quyền cho
Tòa án cấp huyện như thế sẽ giảm bớt gánh nặng xét xử sơ thẩm cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Các Tòa án nhân dân tỉnh tập trung chủ yếu vào việc xét xử phúc thẩm, và đồng thời cũng giảm
bớt việc xét xử phúc thẩm cho Tòa án nhân dân tối cao, để Tòa án nhân dân tối cao tập trung vào
giám đốc xét xử và tổng kết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật cho các Tòa án địa phương,
và đây là sự mở rộng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện một cách hợp lý và có tính khả
thi cao.

Trong tố tụng hình sự:
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa cho mình (Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự). Cần chú ý là trong một số trường
hợp Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa
cho bị cáo hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt
trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình (khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố
tụng hình sự);
- Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
(Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự);
- Xác định sự thật của vụ án (Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự). Khi xét xử Toà án phải áp
dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội,
những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo;
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về người tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân. Bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội.
* Trong tố tụng dân sự:
- Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự);
- Cung cấp chứng cứ và chứng minh là quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 6 Bộ luật
tố tụng dân sự). Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường
hợp Bộ luật tố tụng dân sự có quy định;
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự);
- Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự);
- Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự

thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự (Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự).
* Trong tố tụng hành chính:
- quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải Quyền
quyết các vụ án hành chính);
- Cung cấp chứng cứ và chứng minh là quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 5 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính);
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính (Điều 20 Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính);
- Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 23 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính);
- Toà án không tiến hành hoà giải, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà
án tạo điều kiện để các bên có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án (Điều 3
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).

Tính hình sự của vụ án là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự.


Tính hình sự được thể hiện ở mức độ nghiêm trọng của tội phạm theo quy định của
Bộ luật hình sự:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.

Tính hình sự của vụ án phụ thuộc vào chính sách pháp luật hình sự của nhà nước
Việt Nam.
Ở nước ta Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Để giải quyết vấn đề pháp lý hình sự của mình hoặc người thân bạn nên liên hệ với
Luật sư chuyên trách Hình sự để được tư vấn chính xác và cụ thể. Asimic là một đối
tác sẵn sàng chia sẻ những tâm tư và nguyện vọng của bạn.

Vụ án hình sự
16/03/2011
Vụ án hình sự là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong
Bộ luật hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật hình sự
tố tụng. Người vi phạm pháp luật đã bị khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử theo các quy định của Bộ luật hình sự tố tụng tức đã can án hình sự sẽ bị
áp dụng một số biện pháp do luật quy định như phải khai cung, phải có mặt tại nơi


và vào thời gian do các cơ quan tiến hành tố tụng - cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án quy định, có trường hợp bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế như tạm giam,
khám nhà, vv. Có thể bị phạt tù, bị cấm hành nghề nếu qua xét xử tòa án đã đủ
chứng cứ chứng minh là phạm tội và đã ra quyết định bằng một bản án hình sự.
Một vụ án hình sự trải qua các trình tự tố tụng hình sự sau:
- Khởi tố bị can, khởi tố vụ án (Quyết định: Công an - Viện Kiểm sát (Phê chuẩn))
- Điều tra vụ án (Công an: Điều tra – Viện Kiểm sát (Giám sát))
- Truy tố (Viện Kiểm sát)
- Xét xử (Tòa án: Xét xử – Viện Kiểm sát (Giám sát, cùng tham gia))

- Thi hành án. (Tòa án – Công an – Viện Kiểm sát- cơ quan thi hành án dân sự)

Tội phạm hình sự
15/03/2011
Tội phạm hình sự là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định
trong Bộ luật hình sự, tội phạm hình sự được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm


năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác

Trọng án hình sự
14/03/2011

Trọng án là vụ án hình sự được các cơ quan tiến hành tố tụng xác định có tính chất
nghiêm trọng và ảnh hưởng lớn đến xã hội.
Các vụ án được coi là trọng án hình sự là loại là tội phạm nghiêm trọng gây nguy
hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy
năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình.
Đối với từng vụ án hình sự tùy theo tính chất nghiêm trọng và tình hình an ninh
chính trị địa phương mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định là trọng án. Các vụ
án này thường được thể hiện bằng thuật ngữ “án điểm” được các quan tiến hành tố
tụng xác định trong buổi họp giao ban liên nghành bởi tính chất nghiêm trọng và ảnh
hưởng lớn tới xã hội, cần được xét xử nghiêm minh để răn đe, trừng trị tội phạm và
mang tính giáo dục chung cho xã hội.
Những vụ trọng án hình sự thường được Tòa án chọn để xét xử lưu động để giáo dục pháp
luật rộng rãi trong nhân dân, thực hiện mục tiêu an ninh chính trị địa phương.

Tố tụng hình sự
19/03/2011
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố xét xử và thi hành án
hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ
của những người tham gia tố tụng và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
công dân, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi


hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Luật tố tụng
hình sự chia hoạt động tố tụng hình sự thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án hình sự. Mỗi giai đoạn do cơ quan và người tiến hành tố tụng

khác nhau thực hiện.
Tố tụng hình sự được quy định cụ thể tại Bộ Luật tố tụng hình sự Số: 19/2003/QH11
Ngày 26/12/2003. Ngoài ra còn được điều chỉnh tại các thông tư liên nghành các cơ
quan tiến hành tố tụng, Luật Luật sư, Các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân Tối cao và các văn bản Luật, dưới Luật khác



×