Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Com cam tra tan va nguoc dai trong cac cong uoc quoc te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.66 KB, 20 trang )

CẤM TRA TẤN VÀ NGƯỢC ĐÃI TRONG CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VÀ
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

TS. Nguyễn Ngọc Khánh
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Kiểm sát - VKSNDTC

Tra tấn đã và tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Có ba lý do chủ yếu
khiến cho các chính quyền và các nhà chức trách phải dùng đến tra tấn như là
phương thức để:




Thu thập thông tin từ một người hoặc bảo đảm sự "nhận tội" về những hành
vi phi pháp.
Hủy hoại nhân cách của cá nhân để tác động đến hành vi của người đó trong
tương lai.
Gây ra sự sợ hãi và tuân phục trong dân chúng nhăm duy trì quyền lực.
Trong những trường hợp này, việc khai thác lời thú tội hoặc bất kỳ một lợi
ích cá nhân nào của người bì tra tấn đều chỉ là thứ yếu.

Ba lý do kể trên thường tồn tại đồng thời ở những quốc gia nơi các chính
quyền đã hoặc đang sử dụng tra tấn một cách liên tục và có hệ thống. Tuy nhiên,
việc sử dụng tra tấn không phải là một đặc điểm riêng của các chính quyền độc tài,
cũng không phải là một thực tiễn có thể gạt bỏ như một “đặc thù khu vực” ở một
vài quốc gia hoặc khu vực trên thế giới. Hành vi tra tấn có thể diễn ra ở bất cứ đâu,
điều này được minh chứng trong nhiều kết luận của các tòa án quốc gia, quốc tế và
trong nhiều báo cáo đáng tin cậy.
Sự thiếu rõ ràng của những quy định liên quan đến cấm tra tấn trong các văn
kiện của Liên Họp Quốc, mở đầu là Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (TNQTNQ)
và theo sau đó là hàng loạt những văn kiện nhân quyền, luật nhân đạo và hoạt động


tư pháp, cũng như các văn kiện khu vực đã không mang tại kết quả về quyền "tự do
khỏi bị tra tấn” được đưa ra trong Hội nghị Nhân quyên quốc tế năm 1993. Vấn đề
này vẫn tiếp tục đòi hỏi hành động và nỗ lực hơn nữa tử chúng ta.
1


TNQTNQ là một bước khởi đầu cho một quá trình quan trọng và liên tục để
bãi bỏ tra tấn. Một chiến lược trong tương lai cần phải bao gồm nhiều yếu tố như
được nhấn mạnh trong Hội nghị về tra tấn năm 1996. Mọi tầng lớp trong xã hội
đều nên tham gia, từ cấp lãnh đạo cao nhất trong chính phủ đến những cá nhân liên
quan ở cấp địa phương.
Ngày nay chúng ta có rất nhiêu văn kiện và giải pháp quốc tế, trong đó
những văn kiện quan trọng nhất sẽ được phân tích sau đây. Tuy nhiên, những
phương tiện này cũng sẽ chỉ là những lời sáo rỗng, nếu không có sự kiên định
chống lại việc không bì trừng phạt và không có những nỗ lực buộc những kẻ có
hành vi tra tấn phải chịu trách nhiệm. Những chế độ độc tài bất chấp các quy định
quốc tế cần phải bị quy trách nhiệm, cộng đông thế giới cần có phản ứng bất cứ khi
nào và bất cứ nơi nào diễn ra hành vi tra tấn và ngược đãi. Vai trò của các cơ quan
chính trị và chuyên môn của Liên Hợp Quốc có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
liên quan đến quyền con người tiếp tục giữ tầm quan trọng hàng đầu trong việc
kiên định chống lại các vi phạm nhân quyền. Theo đó, công việc tiếp theo nhằm
tham gia một Tòa án Hình sự Thường trực là một bước tiến quan trọng trong việc
tìm kiếm các biện pháp hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, một sự hưởng ứng có hiệu quả cần phải dựa vào cấp quốc gia.
Ngăn chặn, nâng cao nhận thức của người dân, huấn luyện những nhóm chuyên
môn liên quan và việc phục hồi cho các nạn nhân của hành vi tra tấn cần được
được thực hiện cùng với sự giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền trong
việc chống các hành vi tra tấn, ngược đãi.
Một điều khoản quy định việc cấm tra tấn và ngược đãi có thể được xem như
một thành tố quan trọng trong một tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Nhận thức

này xuất phát từ sự tàn bạo của cuộc Chiến tranh Thế giới II và việc thực hiện tra
tấn có hệ thống dưới chế độ Đức quốc xã ở chính quốc và các quốc gia bị chiếm
đóng. Do mối quan ngại chung của các thành viên sáng lập Liên Hợp Quốc, những
biện pháp hữu ích chống lại các hành vi trên cần được nhanh chóng đưa ra, trong
đó, việc phát triển một hệ thống văn kiện pháp lý quốc tế bảo vệ cá nhân và đặt ra
những nguyên tắc ứng xử cơ bản cho các chính phủ và giới cầm quyền được đặt

2


lên hàng đầu. Việc cấm tra tấn và ngược đãi là một phần hiển nhiên trong những nỗ
lực đó.
Có rất nhiều cuộc thảo luận về từ ngữ của một văn kiện mới. Phần lớn các
thảo luận tập trung và việc liệu có nên ghi nhận một sự cấm đoán đặc biệt đối với
những thí nghiệm y tế và khoa học không được sự đồng ý của đối tượng thí
nghiệm. Những kinh nghiệm dưới sự chiếm đóng Đức quốc xã đã thúc đẩy các
tranh luận này. Cuối cùng, một quy định như vậy đã không được ghi nhận trong
điều khoản, một phần do lập luận rằng cách quy đinh ngắn gọn hơn của điều khoản
này đã hàm ý rằng những thí nghiệm kiểu đó là phi pháp. Khi dự thảo Tuyên ngôn
được bỏ phiếu ở Đại hội đồng dưới hình thức từng điều khoản một, Điều 5 là một
trong những điều được đồng thuận tuyệt đối.
Từ khi Điều 5 của TNQTNQ được thông qua, việc cấm tra tấn và ngược đãi
đã được cộng đồng quốc tế lưu tâm. Như được đề cập dưới đây, sự cấm đoán này
cũng trở thành một quy phạm ràng buộc pháp lý trong nhiều văn kiện quốc tế khác,
đồng thời đưa đến nhiều khuyến nghị cụ thế, hướng đến những cá nhân và nghề
nghiệp có liên quan nhiều nhất. Theo đó, các thủ tục và nỗ lực hướng đến việc đảm
bảo trách nhiệm và việc thi hành, cũng như việc đền bù, phục hồi cho các nạn nhân
đã có những bước tiến đáng kể.
CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CHỐNG TRA TẤN
Công ước về tội diệt chủng

Công ước này được thông qua ở Đại hội đồng vào ngày 9 tháng 12 năm
1948, đúng một ngày trước khi TNQTNQ được thông qua. Mọi quốc gia thành
viên đều có nghĩa vụ trừng phạt hoặc dẫn độ tất cả những kẻ có hành vi diệt chủng,
có âm mưu, xúi giục hay dự định thực hiện hoặc đồng phạm trong các hành vi đó,
bất kể là thủ phạm đã tham gia vào hành vi đó bí mật hay công khai. Tội phạm diệt
chủng cũng bao gom cả các hành vi tra tấn và ngược đãi. Diệt chủng được định
nghĩa là các hành vi hướng đến tiêu diệt một phần hay toàn bộ các nhóm sắc tộc,
tôn giáo thông qua việc “gây ra tổn thương về thể chất hay tính thần” với các thành
viên của các nhóm đó hoặc thông qua việc giết hại trực tiếp, bất kể hành vi đó

3


được thực hiện trong giai đoạn chiến tranh hay hòa bình. Nhiều hành động khác
cũng bị trừng phạt trong phạm vi Công ước này.
Có một sự nhất trí chung, đã được khẳng định nhiều lần tại Đại hội đồng và
tại Tòa án Công lý Quốc tế rằng diệt chủng là tội phạm mà kể cả cá nhân ở quốc
gia chưa phê chuẩn Công ước diệt chủng cũng có thể phải chịu trách nhiệm. Do
vậy, diệt chủng trở thành một phần của luật tập quán quốc tế và việc cấm hành vi
này là quy phạm bắt buộc, như được định nghĩa trong Công ước Viên về Luật điều
ước năm 1969. Một cách tiếp cận tương tự cũng được áp dụng khi xem xét tội
phạm tra tấn. Trong nhiều điều ước cũng ghi nhận rõ ràng không có giới hạn nào
hay sự biện minh nào có thể được đưa ra đối với tội tra tấn.
Đồng thời, cũng cần nhận định rằng rất nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia
thành viên Công ước diệt chủng cũng do dự trong việc thực thi các điều khoản của
Công ước trong hệ thống tư pháp quốc gia của mình. Ngay cả khi có thể hành
động, các quốc gia cũng không làm gì; chẳng hạn khi có một cựu chỉ huy quân sự
cấp cao bị xem là có liên quan đến hành vi diệt chủng, người đó được hưởng miễn
trừ ở quốc gia của mình cũng như ở quốc gia người đó xin tị nạn, và lại đã đến
thăm nhiều nước khác nhau. Có rất nhiều lời giải thích liên quan đến các bằng

chứng và thậm chí mang tính kinh tế cho sự do dự này. Tuy nhiên, sự tiêu cực này
đã làm giảm giá trị của Công ước, đồng thời gây lo ngại về quyết tâm chính trị của
cộng đồng quốc tế trong vực áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự thi
hành tối đa của Công ước này.
Ngày nay, Công ước diệt chủng đã có được một vị trí mới tương xứng sau
các sự kiện bi thảm ở Cộng hòa Nam Tư cũ và Rwanda, và việc Hội đồng Bảo an
thành lập hai Tòa án đặc biệt ở hai quốc gia đó. Tội phạm diệt chủng thực hiện
trong một khoảng thời gian và lãnh thổ quy định sẽ thuộc thấm quyền xét xử của
tòa tương ứng. Hơn thế nữa, trong quá trình thảo luận về việc thành lập một Tòa án
Hình sự Quốc tế Thường trực, rõ ràng tội diệt chủng sẽ là một trong những tội
phạm mà Tòa có thẩm quyền xem xét.
Tội ác chống nhân loại bao gồm cả các tội tra tấn và ngược đãi thực hiện đến
một mức độ nhất định, mức tàn ác nhất của nó là diệt chủng, đều chịu sự điều
chỉnh của luật tập quán quốc tế. Hãm hiếp và lạm dụng tình dục là một phần của
4


chuỗi các hành động bị xem như hành vi tra tấn, ngược đãi và tội ác chống nhân
loại. Các hành vi khác bị xem như tội ác thống nhân loại là giết người tùy tiện và
cưỡng bức mất tích. Cũng như tội diệt chủng, tội ác chống nhân loại có thể thực
hiện trong giai đoạn chiến tranh cũng như trong thời bình và bị coi là tội phạm bất
kể vị trí hay chức năng của kẻ phạm tội. Những tội ác này nhiều khả năng sẽ được
đưa vào hệ thống các tội phạm của Tòa án Hình sự Quốc tế Thường trực.
Công ước Geneva 1949 và Các Nghị đinh thư
Luật nhân đạo quốc tế áp dụng trong các trường hợp có xung đột vũ trang và
thường được xem là một bộ phận của luật chiến tranh (jus in bello). Nó gồm nhiều
quy định cụ thể được đưa ra để áp dụng đối với các đối tượng khác nhau nhằm bảo
đảm quyền của các nhóm: thương binh hay bệnh binh, tù binh, thường dân trong
thời gian chiến tranh, nạn nhân của những xung đột vũ trang quốc tế và quốc gia.
Những người này thường được bảo vệ bởi các quy định vì quyền con người, mà

không thể bị giới hạn, chẳng hạn như quy định về cấm các hành vi tra tấn. Trong
một số trường hợp, sự bảo vệ theo các quy định của luật nhân đạo quốc tế cụ thể và
rõ ràng hơn so với các điều khoản về quyền con người, đôi khi ngược lại. Trong
trường hợp xung đột vũ trang nội bộ, hai lĩnh vực luật này có sự giống nhau nhiều
nhất.
Nguồn cơ bản của luật quốc tế nhân đạo là Công ước La Haye năm 1899 và
l907, bốn Công ước Geneva năm 1949 và hai Nghị định thư bổ sung năm 1977.
Cả luật nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế đều có các quyền căn bản giống
nhau, mà không thể bi giới hạn, trong đó có quyền không bị tra tấn. Điều 3 trong
cả bốn Công ước Geneva năm 1949 được áp dụng trong mọi trường hợp có xung
đột vũ trang nội bộ. Điều khoản này cấm mọi hành vi “hủy hoạt thân thể, đối xử
một cách tàn bạo và tra tấn hay hạ nhục". Theo đó, các hành vi hãm hiếp hay lạm
dụng tình dục cũng trong phạm vi đinh nghĩa này.
Nhìn chung, các tội phạm chiến tranh vi phạm đến mức trầm trọng các Công
ước Geneva 1949 và Nghị định thư bố sung số 1, được áp dụng trong mọi xung đột
vũ trang quốc tế, hoặc là vi phạm luật tập quán quốc tế về xung đột vũ trang phạm
vi quốc tế hay quốc gia. Các hành vi này bao gồm tra tấn, đối xử vô nhân đạo, cố ý
5


gây thương tích trầm trọng cho cơ thể và sức khỏe con người, trong đó có hãm hiếp
và các hành vi lạm dụng tình dục khác. Thí nghiệm y tế, khoa học và nhục hình
cũng được coi là tương tự như tra tấn, ngược đãi và được đều chỉnh bởi luật nhân
đạo quốc tế.
Theo các Công ước Geneva và các Nghị định thư bổ sung, việc đến thăm nơi
giam giữ những người bị ảnh hưởng trong các cuộc xung đột vũ trang có thể được
thực hiện bởi Ủy banChữ thập đỏ Quốc tế (International Committee of the Reo
Cross - ICRC). Theo Quy chế Hiệp hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế,
ICRC được trao quyền có những "sáng kiến nhân đạo", theo đó tố chức này có thế
đề xuất những giúp đỡ của mình, bao gồm việc tới thăm những nơi giam giữ ở bất

kỳ quốc gia nào là thành viên các Công ước Geneva. Sự bảo vệ của Chữ thập đỏ
trong các trường hợp này chủ yếu chi áp dụng đối với tù nhân chính trị hay tù binh
trong xung đột vũ trang. Tuy nhiên, việc thanh tra hiệu quả và thường xuyên của tổ
chức này mang lại hiệu quả phòng ngừa quan trọng đối với tra tấn, ngược đãi ở
một quốc gia cụ thể.
Các tội phạm chống nhân loại, bao gồm cả tội diệt chủng, thường được phân
loại thuộc đối tượng điều chinh của luật nhân đạo quốc tế. Tuy nhiên, do những tội
phạm này có thể được thực hiện cả trong xung đột vũ trang cũng như trong thời
bình, có lẽ logic hơn khi xem chúng là một bộ phận của luật nhân quyền quốc tế.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Năm l966, cùng với việc thông qua Công ước quốc tế về các quyềnkinh tế,
xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công ước quốc tế tê các quyên dân sự và chính trị
(ICCPR) với Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất cho phép khiếu kiện cá nhân,
việc cấm các hành vi tra tấn trở thành nghĩa vụ điều ước ràng buộc đối với các
quốc gia thành viên của các công ước. Đáng tiếc là có rất ít các gốc gia đã trở
thành thành viên của Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất của ICCPR. Nghị
định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước này được thông qua vào năm l989
với mục đích xóa bỏ án tử hình, cũng liên quan đến chủ đề đang thảo luận ở đây
Điều 7 ICCPR quy định rằng “không ai bị tra tấn hay bị trừng phạt hoặc đối
xử một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Cụ thể là, không ai phủ chịu
6


những thí nghiệm y tế hay khoa học nếu như không có sự chấp thuận của người
đó”. Ở đây chúng ta nhận thấy rằng việc cấm các thí nghiệm y tế và khoa học, đã
được bàn luận trong giai đoạn dự thảo Điều 5 TNQTNQ, nay được đưa trở lại và
được đưa vào điều ước. Nghĩa vụ trong Điều 7 là một quy định không thể bị giới
hạn.
ICCPR không chỉ cấm tra tấn, mà còn đặt ra những quy định tích cực cho
việc đối xử nhân đạo đối với những người bị giam giữ. Quy định này được ghi

nhận ở Điều 10, khoản l: “Những người bị tước quyền đều phải được đối xử nhân
đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người”. Các khoản sau đó của
Điều 10 cũng đề ra những quy đinh cơ bản cho những đối xử này: bị can được
giam giữ riêng biệt với người đã bị kết án; bị cáo vị thành niên được giam giữ
riêng biệt với người lớn, được đưa ra xét xử nhanh chóng , những người phạm tội
chưa thành niên sẽ được đối xử phù hợp với tuổi và địa vị pháp lý của họ và cuối
cùng, mục đích đầu tiên và trước nhất của hệ thốong trại giam là nhằm cải tạo và
tái hòa nhập xã hội cho tù nhân.
Có thể nhận thấy rằng, các điều khoản này không nêu định nghĩa của nhiều
thuật ngữ được sử dụng. Về điểm này ICCPR có phạm vi áp dụng rộng hơn Công
ước chống tra tấn, nó cho phép có những sự đau đớn và chịu đựng “phát sinh từ,
do hoặc gắn với các chế tài hợp pháp”. Ủy ban Nhân Quyền (Human Rights
Committee), cơ quan được thành lập theo Công ước có nhiệm vụ giám sát và kiểm
tra những báo cáo của các quốc gia thành viên đã có Bình luận số 20/44 về Điều 7
và số 21/44 về Điều 10 cung cấp cho các quốc gia thành viên và các quốc gia khác
những chỉ dẫn về các hành động mà nó coi là cơ sở cho các tiêu chuẩn. Ủy ban
cũng ghi nhận rằng nó không “thấy cần thiết phải đưa ra một danh sách các hành vi
bị cấm hay phân biệt rõ giữa các loại hình phạt hay đối xử sự khác biệt này phụ
thuộc vào bản chất, mục đích và mức độ khắc nghiệt trong cách đối xử”.
Công ước chống tra tấn hay trừng phạt hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc
hạ nhục khác
Cho dù việc cấm tra tấn được ghi nhận ở nhiều văn kiện chính của luật nhân
quyền và nhân đạo, vào những năm 1970, tra tấn không phải là một hiện tượng dễ
loại trừ. Vào thời điểm đó, công luận bắt đầu yêu cầu có những hành động hiệu quả
7


hơn chống lại những chế độ sử dụng tra tấn ngày càng nhiều trong việc đàn áp đối
lập trong nước hay trong cuộc chiến chống lực lượng du kích.
Vào năm 1972, Tổ chức ân xá Quốc tế (Amnesty International) đã phát động

Chiến dịch Xóa bỏ tra tấn. Nhiều tổ chức phi chính phủ và các chính phủ đã hưởng
ứng. Vào mùa thu 1973, vấn đề tra tấn đã được đem ra trước Đại hội đồng trong
một dự thảo nghị quyết về vấn đề trong chương trình nghị sự nhân dịp kỉ niệm 25
năm TNQTNQ ra đời. Những quốc gia khởi xướng nghị quyết này, bao gồm Thụy
Điển, Áo, Costa Rica, Hà Lan, Trinidad và Tobago, đã nhận được sự ủng hộ đông
đảo. Nó càng được ủng hộ nhiều hơn sau khi các phương tiện thông tin trên toàn
cầu đã đưa tin về hành vi tra tấn diễn ra trên phạm vi rộng do chế độ quân sự ở
Chilê theo sau cuộc đào chính đẫm máu lật đổ chính quyền Allende tiến hành.
Sau đó, từ phiên họp năm 1984 cua Đại hội đồng, những buổi tham vấn
không chính thức đã được triệu tập. Cuối cùng, những giải pháp hợp lý để được
thống nhất qua việc thay đổi một số điều khoản liên quan trong dự thảo, những
điều khoản vốn được đặt trong ngoặc vuông, và thêm vào một điều khoản mới.
Vào ngày l10 tháng 12 năm 1984, Đại hội đồng đã thông qua bản thảo cuối cùng
của Công ước chống tra tấn và mở ra cho ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Công ước
có hiệu lực năm l987 và hiện nay đã có 102 quốc gia thành viên. Mặc dù đây là
một con số ấn tượng, cũng cần lưu tâm rằng đây là công ước có sự gia nhập ít nhất
trong số 6 điều ước có hiệu lực về quyền con người được giám sát bởi các cơ quan
của điều ước.
Công ước chống tra tấn được chia thành 3 Phần. Phần đầu tiên bao gồm nội
dung cơ bản (Điều 1 đến 16) trong đó hầu hết liên quan đến tra tấn, một số đề cập
đến cả tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo vô nhân đạo hoặc hạ
nhục khác. Phần hai bao gồm các điều khoản thi hành (Điều 17 đến 24), quy định
việc thiết lập Ủy banchống Tra tấn bao gồm 10 chuyên gia quốc tế hoạt động với tư
cách cá nhân, đồng thời đưa ra nhiều hình thức giám sát khác nhau đối với việc
tuân thủ của các quốc gia thành viên với nghĩa vụ của mình quy định bởi công ước.
Phân 3 (điều 25 đến 32), bao gồm các điều khoản cuối cùng liên quan đến phê
chuẩn, thời điểm có hiệu lực, các sửa đổi và những vấn đề tương tự.
Nghị định thư không bắt buộc của Công ước chống tra tấn
8



Vào năm 1991, chính phủ Costa Rica đã trình lên Ủy banNhân quyền bản dự
thảo Nghị định thư không bắt buộc của Công ước chống tra tấn. Nghị định thư này
nhằm thiết lập một cơ quan mới của Liên Hợp Quốc, thông qua việc đến thăm các
cơ sở giam giữ, sẽ hỗ trợ các chính phủ trong những nỗ lực phòng ngừa các hành
vi tra tấn và ngược đãi. Dựa vào những chuyến thăm này, cơ quan mới sẽ đề xuất
các phương thức để các chính phủ nâng cao điều kiện của các cơ sở giam giữ hoặc
bất cứ nơi nào mà người bị tước tự do bởi cơ quan công quyền bị giam giữ.
Vào năm 1992, sau khi các quốc gia đã nghiên cứu dự thảo Nghị định thư
không bắt buộc trình lên bởi Costa Rica vào năm 1991, Ủy ban Nhân quyền đã
quyết định thành lập một nhóm công tác với nhiệm vụ ghép dự thảo Nghị định thư
không bắt buộc này vào với Công ước chống tra tấn, xem xét mối liên hệ giữa
Nghị định thư không bắt buộc, các văn kiện khu vực và Ủy ban chống Tra tấn.
Nhóm công tác đã nhóm họp hai tuần vào tháng mười hàng năm, kể từ năm 1992
tới năm 1995, nhóm này đã kết thúc lần xem xét thảo luận đầu tiên về dự thảo
Nghị định thư không bắt buộc, năm 1996 nhóm tiếp tục lần xem xét thứ hai và là
cuối cùng.
Dự thảo Nghị định thư mang tính thủ tục và không có điều khoản nội dung
thực chất nào. Công ước chống tra tấn và Công ước về các quyền dân sự và chính
trị, cùng với nhiều văn kiện pháp lý liên quan khác, như Những tiêu chuẩn tối
thiểu về đối xử với tù nhân và Các quy tắc ứng sử của cán bộ thực thi pháp luật
của Liên Hợp Quốc, đã là nguồn tham khảo cho cả cơ quan mới thành lập và các
quốc gia liên quan. Nghị định thư mang tính đột phá trong việc nhấn mạnh vào hai
vấn đề cơ bản: ngăn ngừa thông qua các cuộc viếng thăm trực tiếp, đối thoại và
hợp tác giữa cơ quan mới thành lập với các quốc gia nhận được khuyến nghị. Có
triển vọng rằng các quốc gia với quyết tâm chính trị để nâng cao điều kiện của các
cơ sở giam giữ, nhưng lại không đủ điều kiện tài chính sẽ có thể có được sự hỗ trợ
từ cộng đồng quốc tế.
Khi công bố, nhiều điều khoản trong dự thảo Nghị định thư đã không được
đưa vào bản cuối cùng. Các chính phủ đã có những quan điểm khác biệt về nhiều

vấn đề cơ bản, bao gồm sự cần thiết được đồng ý trước của các quốc gia trước mọi
chuyến thăm, quyền tự do hành động của Tiểu ban khi thực hiện nhiệm vụ bao
9


gồm cả quyền gặp gỡ riêng với bất kỳ đối tượng nào, khả năng đưa ra những tuyên
bố công khai trong trường hợp không có được sự hợp tác của một quốc gia thành
viên, và cuối cùng, liệu bảo lưu đối với công ước này có được phép hay không.
CÁC VĂN KIỆN KHU VỰC
Hội đồng châu Âu
Trong Công ước châu Âu, việc cấm tra tấn được nêu ra trong Điều 3, quy
định rằng “không ai bị tra tấn hay bị trừng phạt hoặc đối xử một cách vô nhân đạo
hoặc hạ nhục”. Trừ việc không có từ “tàn bạo" thì điều khoản này giống với Điều
5 của TNQTNQ. Sự khác biệt về từ ngữ này không hàm chứa bất kì sự khác biệt
nào về nội dung, điều sau này đã được khẳng định bởi các cơ quan xét xử của hề
thống châu Âu. Với việc giám sát sự tuân thủ của các quốc gia, hay cơ quan giám
sát đã được thành lập dưới Công ước châu Âu : Ủy banNhân quyền châu Âu và
Tòa án Nhân quyền châu Âu. Hai cơ quan này theo quy định của nghị định thư mới
sẽ sớm được sáp nhập thành một Tòa án thường trực hoạt động thường xuyên và có
thể tiếp nhận khiêu kiện cá nhân cũng như liên quốc gia.
Nguyên tắc cấm tra tấn và đối xử tàn bạo mang tính tuyệt đối ở chỗ nó
không cho phép bất kỳ việc giới hạn nào. Cùng với thời gian, có rất nhiều các phán
quyết liên quan đến các cáo buộc vi phạm Điều 3 của các quốc gia thành viên trong
hệ thống châu Âu. Hầu hết các vụ việc là dựa trên các khiếu nại của cá nhân, tuy
nhiên, cũng có nhiều khiếu nại giữa các quốc gia trước Hội đồng châu Âu hay Tòa
án châu Âu liên quan đến các vấn đề về tra tấn. Chẳng hạn, vào nhưng năm 1950,
Hy Lạp cáo buộc rằng Anh đã thực hiện các hành vi tra tấn trên đảo Cyprus. Đan
Mạch, Na Uy và Thụy Điển cáo buộc rằng Hy Lạp đã vi phạm Điều 3 sau cuộc đảo
chính quân sự năm 1967. Hội đồng châu Âu đã tìm thấy những bằng chứng có thể
khẳng định những cáo buộc này, và chúng cũng đã được khẳng định bởi Hội đồng

bộ trưởng. Một ví dụ khác là sự đối xử của Anh đối với các tù nhân chính trị ớ Bắc
Ireland. Ngoài ra còn có vụ việc năm l982 do Đan Mạch, Pháp, Hà Lan, Na Uy và
Thụy Điển đệ trình. Vụ này liên quan đến các cáo buộc về tra tấn ở Thổ Nhĩ Kỳ,
ban đầu do Hội đồng xử lý nhưng về sau đã kết thúc bằng con đường giải quyết
thân thiện.
10


Năm 1987, Công ước châu Âu về chống tra tấn đã được thông qua và bắt
đầu có hiệu lực từ năm 1989. Nó thiết lập một Ủy ban với quyền hạn giám sát rộng
rãi, thực hiện nhiệm vụ bằng cách đến thăm các trại giam và gửi báo cáo tới các
quốc gia thành viên. Trong các bản báo cáo của mình, Ủy ban đề xuất phương tiện
và phương thức nhằm nâng cao sự bảo vệ đối với những người bị giam giữ khỏi sự
tra tấn và ngược đãi. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải mở tất cả các nơi
giam giữ bất kể được gọi bằng cái tên nào - nhà tù, trại giam quân đội, bệnh viện
tâm thần - để Ủy bantới khảo sát. Nơi giam giữ được coi là nơi mà trong địa bàn
của nó, người ta có thể tìm thấy những người bị tước quyền tự do bởi một hành vi
của cơ quan công quyền. Ủy ban có quyền được khảo sát vào bất kỳ thời điểm nào,
và đồng thời có quyền được phỏng vấn riêng bất cứ người bị giam, sĩ quan cảnh
sát, quản giáo, bác sỹ, luật sư hay bất cứ cá nhân nào.
Sau mỗi chuyến thăm, Ủy ban soạn một bản báo cáo mật chứa đựng các kết
luận và kiến nghị. Nếu một chính phủ tử chối hợp tác trong việc thực thi các kiến
nghị thì Ủy ban có thể đưa ra lời tuyên bố công khai về tình hình trong quốc gia
đó. Mục tiêu của các hoạt động của Ủy ban là việc phòng chống sự ngược đãi
trong thực tiễn. Việc này tách biệt vai trò của Ủy ban với Hội đồng châu Âu và Tòa
án châu Âu, hai cơ quan có vai trò tìm giải pháp và giải quyết các tranh chấp pháp
lý. Ở khía cạnh này, công việc của Ủy ban đã tỏ ra hiệu quả và được đánh giá cao
vì các chính phủ nhận được các khuyến nghị có tính thực tiễn và cụ thể về cách
thức nâng cao sự bảo vệ đối với những người bị giam giữ. Các văn kiện pháp luật
hiện đang được soạn thảo tương tự ở cấp độ quốc tế với hình thức một Nghị định

thư không bắt buộc của Công ước chống tra tấn (Nghị định thư này đã được Đại
hội đồng thông qua vào ngày l8/12/2002 - ND).
Tổ chức các quốc gia châu Mỹ
Công ước châu Mỹ về quyền con người (ACHR) đã được thông qua vào năm
l969 ở San Jose, Costa Rica và có hiệu lực vào năm 1978. Điều 5 về quyền được
đối xử nhân đạo chứa đựng trong đoạn 2 của nó quy định về việc cấm tra tấn với
quy định giống như điều khoản ban đầu có trong Tuyên bố châu Mỹ về quyền và
nghĩa vụ của con người. Thêm vào đó, Điều 5 cũng quy định về nghĩa vụ phải tôn
trọng các quyền về sự toàn vẹn cá nhân, nghĩa vụ đối xử với những người bị tước
11


tự do, tôn trọng sự toàn vẹn của họ. Điều khoản này cũng đưa ra các điều kiện cơ
bản, tương tự như các điều kiện trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (ICCPR), về cách đối xứ đúng đắn đối với những người bị buộc tội hoặc
bị tuyên phạt. Theo Điiều 27, khoản 2 của ACHR, việc không tuân thủ quy định
cấm tra tấn và ngược đãi là không được phép kể cả trong chiến tranh hay bất kỳ
trường hợp khẩn cấp nào đe dọa tới nền độc lập hay an ninh quốc gia.
ACHR cũng quy định về tổ chức, chức năng và thẩm quyền của cả Ủy ban
liên Mỹ về Quyền con người và Tòa án liên Mỹ về Quyền con người. Hơn nữa, cần
phải lưu ý rằng Ủy ban tiếp tục duy trì thẩm quyền đối với tất cả quốc gia thuộc
OAS chứ không chỉ những quốc gia là thành viên của Công ước 1969 cũng như
thẩm quyền của nó liên quan đến Tuyên bố châu Mỹ năm 1948. Hầu hết các thành
viên của OAS đều là thành viên của Công ước châu Mỹ, các ngoại lệ nổi bật là Hoa
Kỳ và Canada, dù có tư cách là thành viên của OAS nhưng lại không tham gia vào
văn kiện khu vực này.
Trong những nỗ lực gần đây có các công việc chuẩn bị, bắt đầu từ năm l978,
cho một điều ước đặc biệt về tra tấn trong khuôn khổ OAS. Những nỗ lực này cuối
cùng đã dẫn đến sự ra đời của Công ước liên Mỹ về phòng chống và trừng trị tội
tra tấn. năm 1985, được ký kết ở Caltagena de Indias, Colombia. Điều 2 định

nghĩa về tra tấn, mà về một phương diện nào đó rộng hơn định nghĩa trong Công
ước chống tra tấn. Tuy nhiên, trong một số khía cạnh khác, Công ước liên Mỹ năm
1985 lại yếu hơn. Ví dụ việc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục chỉ được đề
cập đến ở một vài điều khoản và ở Lời mở đầu.
Công ước liên Mỹ quy định thẩm quyền tài phán toàn cầu đối với tội phạm
tra tấn, các quốc gia có nghĩa vụ có các biện pháp hiệu quả nhằm phòng ngừa và
trừng trị tội tra tấn trong phạm vi thẩm quyền. Một khi các biện pháp trong nước
đã được sử dụng hết, các vụ việc liên quan đến sự cáo buộc từ tra tấn có thể được
đệ trình lên cơ quan quốc tế có thầm quyền. Thông thường thì cơ quan được chọn
sẽ và Ủy ban Liên Mỹ, cơ quan đồng thời có trách nhiệm phân tích “hiện trạng ở
các quốc gia thành viên của Tố chức các Quốc gia châu Mỹ liên quan đến việc
phòng chống và loại trừ tội tra tấn" và xuất bản những kết luận của mình trong các
báo cáo thường niên.
12


Tổ chức Liên minh châu Phi
Năm 1981, Tổ chức Liên minh châu Phi (OAU) đã thông qua Hiến chương
châu phi về quyền con người và các dân tộc(Hiến chương châu Phi). Bản Hiến
chương có hiệu lực vào tháng l0 năm 1986. Ngày nay, hầu hết các quốc gia thuộc
OAU đã tham gia vào điều ước khu vực này. Điều 5 của Hiến chương châu Phi ghi
rằng:
Mọi cá nhân có quyền được tôn trọng về nhân phẩm vốn có trong mỗi con
người và về sự thừa nhận địa vị pháp lý của họ. Mọi hình thức bóc lột và hạ nhục,
đặc biệt là chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, tra tấn, trừng phát và đối xử một cách tàn
nhân, vô nhân đạo hay hèn hạ bị cấm.
Bản Hiến chương không chứa đựng bất cứ điều khoản nào liên quan đến
việc giới hạn hay đình chỉ thực hiện trong các tình huống đặc biệt. Nó cũng thiết
lập một Ủy ban châu Phi về quyền con người và các dân tộc với nhiệm vụ thúc đẩy
và bảo vệ các quyền được liệt kê trong Hiến chương. Ủy ban có quyền nhận và

xem xét các đơn khiếu nại từ cả cá nhân lẫn các quốc gia. Hơn nữa, một dự thảo
Nghị định thư về việc thành lập một Tòa án đã được chuẩn bị và hiện đang được
thảo luận trong khuôn khố OAU. Một tiến triển khác khá thú vị của sự phòng
chống tra tấn và bạo hành chính là quyết định của Ủy ban châu Phi năm l996 chỉ
định một Báo cáo viên với nhiệm vụ triển khai các nỗ lực nhằm cải thiện điều kiện
tại các nơi giam giữ.
NHỮNG TIÊU CHUẨN KHÁC CÓ LIÊN QUAN
Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân
Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân của Liên Hợp Quốc
năm l955 đã được thông qua với phiên bản đầu tiên tại Hội nghị Liên Hợp Quốc
lần thứ nhất về Phòng chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại
Geneva năm 1955. Các quy tăm quy định đề những vấn đề “nhìn chung được chấp
nhận như các nguyên tắc và thực tiễn tốt về đối xử đối với các tù nhân và việc quản
lý các tổ chức", đồng thời thúc đấy các cuộc thanh tra thường là của các thanh tra
đạt chuẩn và có kinh nghiệm đối với các cơ quan và hoạt động tư pháp hình sự.
Quy tắc 31 quy định rằng “nhục hình, hình phạt bằng cách nhốt vào buồng giam tối
13


và tất cà các hình phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục với tư cách là những hình
phạt đối với vi phạm kỷ luật phải bị cấm hoàn toàn.
Các nguyên tắc hướng dẫn cho Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử
với tù nhân được đưa ra trong một triết lý làm nền tảng cho sự đối xử với mọi
người bị tước tự do. Đối với những người bị án phạt tù, mục tiêu của sự đối xử sẽ
là hình thành trong họ quyết tâm sống theo pháp luật và tự lực sau khi được trả tự
do và chuẩn bị để cho họ làm điều đó. Hơn nữa sự đối xử sẽ thúc đẩy lòng tự trọng
của họ và phát triển ý thức trách nhiệm của họ. Năm l990, Đại hội đồng đã thông
qua Các Nguyên tắc cơ bản đối xử đối với tù nhân; văn bản này liệt kê và cập nhật
các nguyên tắc quan trọng một cách cô đọng, phần lớn các nguyên tác này được xử
lý chi tiết hơn trong Các Quy tắc tiêu chuẩn tối

Tuyên ngôn về bảo vệ mọi người khỏi trở thành đối tượng của tra tấn và đối xử
hoặc trừng phạt tàn nhẫn, vô nhân đạo, hay hạ nhục khác
Bản Tuyên ngôn này được thông qua bởi Đại hội đồng văn năm 1975. Nó đã
đưa ra định nghĩa về tra tấn và theo đó chia khái niệm này làm hai phần: “tra tấn”
và “các hình thức đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác”.
Việc phân chia công thức được sử dụng trong Điều 5 của TNQTNQ đã đi theo
hướng ngược lại, thực tế, những người dự thảo Điều 5 của TNQTNQ dường như
đã cố tạo ra một công thức vừa linh hoạt vừa đáp ứng được các cách giải thích phát
triển trong tương lai. Các yếu tố trong định nghĩa “mới” này phần lớn dựa trên một
tuyên bố của Hội đồng châu Âu trong bản báo cáo về vụ việc ở Hy Lạp nêu trên.
Sự quan trọng của bản Tuyên ngôn đã sớm bị giảm như bởi sự phát triển của Công
ước chốn tra tấn. Tuy nhiên, bản Tuyên ngôn vẫn tiếp tục được sử dụng như một
cam kết đạo đức và chínhh trị quan trọng, đặc biệt thích hợp với các quốc gia chưa
tham gia vào Công ước.
Bộ Nguyên tắt bảo vệ mọi người trong bất kỳ hình thức giam giữ hay cầm tù
nào
Ý tưởng về việc soạn thảo một bộ các nguyên tắc bảo vệ mọi người bị giam
giữ đã được Hy Lạp, Hà Lan và Thụy Điển đưa ra lần đầu tiên tại Đại hội đồng vào
năm 1975. Tiểu ban Phòng ngừa phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số, một cơ
14


quan chuyên gia bổ trợ của Ủy ban Nhân quyền, đã đệ trình bản dự thảo đầu tiên
lên Ủy ban vào năm 1978. Ủy ban sau đó đã đệ trình lên ECOSOC và Đại hội đồng
để xem xét thêm. Sau khoảng thời gian dài trì hoãn và xem xét bởi một số cơ quan
của LHQ, cuối cùng bản dự thảo đã được thông qua bởi Đại hội đồng vào tháng 12
năm 1988.
Các nguyên tắc chứa đựng những định nghĩa có gía trị về các thuật ngữ được
sử dụng trong mối liên hệ với sự giam giữ và cầm tù, cũng như các cơ chế bảo vệ
chống lại tra tấn và bạc đãi. Ví dụ, Nguyên tắc 6 quy định về việc cấm tra tấn và

ngược đãi, cụ thể nêu rằng không một trường hợp nào có thể được viện dẫn để biện
minh cho những hành vi đó. Một ghi chú của nguyên tắc đó đã làm rõ ràng cụm
“đối xừ tàn nhẫn, vô nhân đạo hay hạ nhục” phải được giải thích theo cách có thể
bao quát sự bảo vệ rộng nhất nhằm chống lại sự lạm dụng, dù là thể xác hay tinh
thần. Do đó nó bao gồm cả việc giam giữ tù nhân trong điều kiện tước đi, tạm thời
hay lâu dài, khả năng sử dụng các giác quan tự nhiên hay nhận thức về thời gian và
địa điểm của họ.
Hơn nữa, ghi chú này cũng ghi rằng không một người bị giam giữ nào, dù có
sự đồng ý của họ hay không, sẽ trở thành đối tượng của các thí nghiệm khoa học
có khả năng gây hại tới sự khỏe của họ.
Bộ quy tắc xử sự cho các cán bộ thi hành pháp luật và Những nguyên tắc cơ
bản về sử dụng vũ lực và súng của cán bộ thi hành pháp luật
Những nhóm nghề nghiệp có liên quan trực tiếp nhiều nhất đến tra tấn và
ngược đãi là cảnh sát và các cán bộ thi hành pháp luật khác, bao gồm cả quân đội.
Mục đích của một bộ quy tắc đạo đức là tạo ra những hành động được mong đợi
của cá nhân trong nhóm nghề nghiệp nhất định. Bộ quy tắc xử sự cho các cán bộ
thi hành pháp luật đã được Đại hội đồng thông qua bằng Nghị quyết 34/169 vào
tháng 12 năm 1979. Nó không chỉ được áp dụng cho các Cảnh sát, mà cho tất cả
những ai được sử dụng quyền cảnh sát, đặc biệt là quyền bắt giữ và giam cầm.
Năm l990, Hội nghị Liên Hợp Quốc lần thứ tám về Ngăn ngừa tội phạm và
đối xử nới người phạm tội đẫ thông qua Những nguyên tắc cơ bản về sử dụng vũ
lực và súng của cán bộ thi hành pháp luật. Các nguyên tắc được trình bày theo hệ
15


thống để giúp các quốc gia trong việc chuẩn bị xây dựng luật, các quy định và thực
tiễn nhằm đến việc tạo mối quan tâm từ các nhóm nghề nghiệp liên quan.
Những Nguyên tắc về đạo đức y học của Liên Hợp Quốc năm 1982
Những Nguyên tắc về đạo đức y học được Đại hội đông thông qua vào năm
1982 và trực tiếp hướng đến chăm sóc sức khỏe đội ngũ cán bộ với một phạm vi

rộng.
Được thảo ra trong khuôn khổ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các nguyên tắc
này chủ yếu bắt nguồn từ Tuyên bố Tokyo - Các hướng dẫn đối với những bác sĩ
liên quan đến tra tấn và đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục
trong khi giam giữ hoặc cầm tù – được Hội đồng Y khoa Thế giới lần thứ 29 thông
qua vào tháng l0 năm l975. Cả hai văn kiện này đều cấm đội ngũ cán bộ y khoa
dính dáng đến tra tấn hoặc các hình thức ngược đãi khác.
Bất kể những nguyên tắc của Liên Hợp Quốc thế nào đi chăng nữa, ngoài tra
tấn, vẫn có một số “vùng tối” cấu thành hình thức ngược đãi bị cấm. Sự mơ hồ này
dẫn đến những khó khăn trong việc đưa ra hướng dẫn rõ ràng cho hoạt động của
đội ngũ cán bộ y tế. Trong số các “vùng tối” đó và việc tham gia thi hành hình phạt
tử hình hoặc nhục hình, chứng nhận rằng một người phù hợp cho việc chịu hình
phạt đó, điều trị tù nhân để khôi phục lại sức khỏe trước khi thẩm vấn... Trong
những vấn đề này, đội ngũ cán bộ y khoa không nhận được một số hướng dẫn rõ
hàng từ các nguyên tắc này.
CƠ CHẾ VÀ BIỆN PHÁP
Công việc của Báo cáo viên về tra tấn của Liên Hợp Quốc
Năm 1982, Tiểu ban Ngăn ngừa phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số đã
lưu ý Ủy ban Nhân quyền nên quan tâm đến những thông tin nghe và nhận được,
liên quan đến tra tấn và ngược đãi. Vào thời gian đó, Ủy ban đã bắt đầu phát triển
cơ chế giám sát những vấn đề theo chủ đề và về một số quốc gia cụ thề. Cơ chế
chuyên biệt đầu tiên được thành lập vào năm 1980 với sự ra đời của Nhóm Công
tác và Mất tích cưỡng bức hay không tự nguyện. Năm 1982, Báo cáo viên đặc biệt,
về giết người tùy tiện và không qua tiến trình pháp lý, được chỉ định. Người này có
chức năng xem xét các vụ giết người không theo quy định của pháp luật và việc
16


lạm dụng hình phạt tử hình trong những trường hợp không thỏa mãn tiêu chuẩn tối
thiểu của một phiên tòa công bằng.

Báo cáo viên đặc biệt về tra tấn được chỉ định đầu tiên vào năm 1985, với
thẩm quyền được thay đổi nhiều lần sau đó, trở thành một chiếc cầu nối thứ ba
giữa những cơ chế nêu trên, được thành lập để chuyên giải quyết những vi phạm
nhân quyền nghiêm trọng và đáng lên án. Trách nhiệm của Báo cáo viên đặc biệt là
tìm kiếm và tiếp nhận thông tin liên quan đen tra tấn và phản ứng một cách hiệu
quả. Qua thời gian, phương thức hoạt động của Báo cáo viên đặc biệt dần dần tiến
triển. Mỗi năm, Báo cáo viên đặc biệt trình bày trước Ủy ban Nhân quyền một báo
cáo về quy mô, phạm vi tra tấn và ngược đãi trên thế giới, bao gồm cả một bản tóm
tắt các vụ cá nhân bi tra tấn ở từng quốc gia cụ thể. Bản báo cáo cũng phải có cả
kết luận và kiến nghị của người báo cáo.
Thêm vào đó, Báo cáo viên đặc biệt đã mở rộng các thủ tục khiếu nại khấn
cấp, thực hiện yêu cầu thông tin về các biện pháp của chính phủ trong điều tra và
xét xử những vụ việc liên quan đến tra tấn. Báo cáo viên đặc biệt có thể trình bày
những phân tích sâu về tình hình ở những quốc gia đã đi thị sát. Trong một số
trường hợp, những cuộc thị sát như vậy được nhiều người cùng thực hiện. Đáng
tiếc là không phải quốc gia nào mà Báo cáo viên muốn đến cũng nhận thức được
tầm quan trọng và sẵn sàng hợp tác bằng việc nhanh chóng gửi lời mời. Hai người
từng giữ trách nhiệm Báo cáo viên là giáo sư Peter Kooijmans đến từ Hà Lan, ông
đã từ chức khi trở thành Bộ trưởng Ngoại giao, và giáo sư Nigel Rodley đến từ
Anh quốc, ông được bổ nhiệm làm người kế vị Kooijman từ năm 2OO3.
Quỹ của Liên Hợp Quốc dành cho nạn nhân bị tra tấn
Đại hội đồng với nghị quyết 36/151 vào ngày 16 tháng 12 năm 1981 đã
thành lập Quỹ tình nguyện dành cho nạn nhân bị tra tấn của Liên Hợp Quốc. Quỹ
này nhận được sự đóng góp tình nguyện cho việc phân phối, thông qua thành lập
các kênh hỗ trợ nhân đạo, pháp lý và tài chính, để giúp những người bị tra tấn và
gia đình của họ. Quỹ này được xem như là một sự mở rộng của Quỹ tương trợ cho
Chilê của Liên Hợp Quốc với mục đích giúp đỡ các nạn nhân bị vi phạm nhân
quyền ở nước này. Với kiến nghị của Ủy ban thứ ba, Đại hội đồng đã bỏ phiếu mở
rộng trách nhiệm của Quỹ tương trợ cho Chilê giúp đỡ cả các nạn nhân bị tra tấn từ
17



các quốc gia khác, không giới hạn về địa lý. Qua các năm, sự hỗ trợ từ quỹ này
ngày càng phát triền cả về phạm vi và vai trò. Ngày nay, phần lớn viện trợ được
dùng cho các dự án điều trị và phục hồi, đồng thời cung cấp cho các nạn nhân, gia
đình của họ dịch vụ điều trị bệnh, vật lý trị liệu, chăm sóc tâm thần, các hỗ trợ về
kinh tếvà xã hội khác. Một ban gồm năm người có kinh nghiệm trong lĩnh vực
nhân quyền sẽ giúp Tổng thư ký phân bổ quỹ này.
ĐỀ XUẤT VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT TRONG TƯƠNG LAI
Để thực thi đầy đủ việc cấm tra tấn và ngược đãi, chính phủ cũng như toàn
xã hội phải cùng tăng cường nỗ lực theo hướng này. Trong số những cách hiệu quả
nhất gồm có: nâng cao giáo dục và nhận thức cụ thể về quyền con người hướng
đến cộng đồng nói chung và các nhóm nghề nghiệp đặc thù nói riêng; tăng cường
hợp tác với các tố chức quốc gia, khu vực và quốc tế. Cuối cùng, một bước quan
trọng trong nỗ lực thực thi đầy đủ là yêu cầu về trách nhiệm giải trình ở tất cả các
cấp, bất kể tra tấn là hành động đơn lẻ do một công chức cụ thể thực hiện, hay là
một phần của thực tiễn ở một đơn vị, một địa phương cụ thể nào đó.
Trong số những vấn đề cần được quan tâm hơn nữa trong lĩnh vực cấm tra
tấn và ngược đãi, danh sách sau đây gồm một số đề xuất hành động tích cực:
-

-

-

-

-

Thành lập các kế hoạch và chương trình quốc gia nhằm xóa bỏ tra tấn

ngược đãi;
Nỗ lực tham gia vào Công ước chống tra tấn và các văn kiện nhân quyền
liên quan;
Phát triển giáo dục về quyền con người hiệu quả hơn, tập trung cụ thế
vào việc cấm hoàn toàn hành vi tra tấn, ngược đãi và về các tiêu chuẩn
đạo đức, quy tắc xử sự cho các nhóm nghề nghiệp;
Hướng đến việc tham gia Nghị định thư tùy chọn của Công ước chống
tra tấn vào khoảng năm 2015 với cơ chế viếng thăm thực địa kiểm tra
ngăn ngừa;
Hướng đến khả năng tham gia trong tương lai Tòa án Hình sự quốc tế
ICC với thẩm quyền giải quyết các tội ác chống nhân loại và những vi
phạm nhân quyền nghiêm trọng, bao gồm cả hành động tra tấn;
18


-

-

-

Có một lập trường rõ ràng trong cộng đồng quốc tế chống lại nhục hình
và hành động quyết đoán hơn chống lại các tập tục truyền thống có hại và
bạo lực;
Một yếu tố phức tạp khác trong việc chống lại tra tấn và ngược đãi là
ranh giới mong manh giữa hành vi vũ lực hợp pháp và không hợp pháp
đối với một người thì không phải luôn luôn rõ ràng. Sự không rõ ràng
này chủ yếu phát sinh liên quan đến quy định của pháp luật. Điều đó
cũng có nghĩa, cần hoàn chỉnh định nghĩa pháp lý về tra tấn trong Bộ luật
Hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Định nghĩa về tra tấn có thế

được tìm thấy ở điều khoản đầu tiên của Công ước chống tra tấn
(Convention Against Torture - CAT). Các án lệ và những bình luận được
đưa ra bởi các tòa án quốc tế, khu vực và các tổ chức nhân quyền là
những nguồn quan trọng để xem xét những hành vi nào có thể được xem
là tra tấn. Một định nghĩa được các tổ chức quốc tế và các tòa án quốc tế
đưa ra sử dụng và có thể được chúng ta tham khảo trong quá trình lập
pháp, theo đó: tra tấn là “một hình thức nghiêm trọng và cố ý trong việc
trừng phạt hoặc đối xử một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục”.
Tra tấn ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ liên quan đến
các hành vi gây ra thương tích thân thể mà còn đối với các hành vi gây ra
những thương tổn tinh thần đối với các nạn nhân. Theo đó, sự cấm tra tấn
đó cần được mở rộng ra đến mọi hành vi trừng phạt thân thể, bao gồm cả
việc đánh đập quá mức được sử dụng như hình phạt đối với một tội ác
hay như là biện pháp giáo dục hay kỷ luật.
Tôn trọng và thừa nhận nguyên tắc cấm tra tấn và ngược đãi cần phải dẫn
đến việc chúng ta cần chuẩn bị thông qua một số lượng lớn các tiêu
chuẩn quan trọng, đa số là ở dưới dạng các khuyến nghị của Liên Hợp
Quốc và các tổ chức khu vực, liên quan đến hoạt động tư pháp và đối xử
đối với những người bị tước quyền tự do. Những khuyến nghị này cần
được sử dụng như một nguồn quan trọng cho quá trình lập pháp quốc gia
và cả như một điểm tham chiếu giá trị cho các tổ chức quốc tế và các cơ
quan giám sát. Pháp luật nước ta, trước hết là pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự, cần cụ thể hóa nhiều nguyên tắc quan trọng liên quan đến cấm
19


tra tấn và ngược đãi như: (1) Nguyên tắc các cán bộ thi hành pháp luật
tránh sử dụng những vũ khí gây sát thương, trừ những trường hợp vũ khí
là cần thiết cho việc bảo vệ tính mạng. Những nguyên tắc khác gồm thực
hiện giam giữ, sử dụng vũ lực tương xứng với mối đe dọa và không được

viện bất cứ ngoại lệ nào để biện minh cho sự trệch hướng khỏi những
nguyên tắc cơ bản này. (2) Nguyên tắc quy định về quyền của người bị
bắt giữ được hỗ trợ về pháp lý và được cơ quan có thấm quyền thông tin
đầy đủ về quyền này ngay sau khi bị bắt. Các điều khoản khác bao gồm:
quyền được liên lạc với thế giới bên ngoài, lưu trữ hồ sơ bắt buộc, giám
sát tư pháp mọi giai đoạn giam giữ quyền khiếu nại tính hợp pháp của
việc giam giữ hoặc xử lý và quyền được xét xử trong khoảng một thời
gian hợp lý trong các vụ án hình sự.

20



×