Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Văn tiểu phẩm của ngô tất tố dưới góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

NGUYỄN HUY HOÀNG

VĂN TIỂU PHẨM CỦA NGÔ TẤT TỐ
DƢỚI GÓC NHÌN LOẠI HÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI, 2017

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

NGUYỄN HUY HOÀNG

VĂN TIỂU PHẨM CỦA NGÔ TẤT TỐ
DƢỚI GÓC NHÌN LOẠI HÌNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS Hà Văn Đức

HÀ NỘI, 2017



2


Mục lục
Phần mở đầu ................................................................................................................. 4
1.Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 4
2.Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 5
3.Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 6
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 10
5.Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................... 10
6.Cấu trúc luận văn ....................................................................................................... 10
Phần nội dung ............................................................................................................. 12
CHƢƠNG 1: VĂN TIỂU PHẨM TRONG SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG NGÔ
TẤT TỐ ....................................................................................................................... 12
1.Giới thuyết khái niệm Văn tiểu phẩm ....................................................................... 12
2.Đặc trƣng của Văn tiểu phẩm .................................................................................... 13
3.Vị trí văn tiểu phẩm trong sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố................................. 15
CHƢƠNG 2: NHỮNG BÌNH DIỆN HIỆN THỰC CƠ BẢN TRONG VĂN TIỂU
PHẨM CỦA NGÔ TẤT TỐ ...................................................................................... 23
2.1Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vạch trần bản chất xấu xa của các thế lực trong xã hội
thực dân phong kiến ..................................................................................................... 23
2.1.1 Giới thực dân cầm quyền ..................................................................................... 23
2.1.2 Quan lại địa phƣơng ............................................................................................ 34
2.1.3 Bọn làm giàu bất chính ........................................................................................ 43
2.1.4 Bọn bồi bút tay sai ............................................................................................... 46
2.2 Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố phản ánh thực trạng xã hội với sự xuống cấp về đạo
đức, lối sống ................................................................................................................. 51
Chƣơng 3: Đặc sắc tiểu phẩm của Ngô Tất Tố dƣới góc nhìn loại hình................ 60
3.1Văn tiểu phẩm trong sự giao thoa giữa văn học và báo chí..................................... 60

3.2Đặc sắc thể loại trong văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố ............................................ 63
3.2.1 Kết cấu của tiểu phẩm Ngô Tất Tố ...................................................................... 65
3.2.2 Các biện pháp nghệ thuật đƣợc sử dụng trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố……..75
3.2.3 Ngôn ngữ, giọng điệu trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố ..................................... 83
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 90

3


Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán giai
đoạn 1930 – 1945 và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn
học Việt Nam hiện đại. Hơn 30 năm cầm bút, Ngô Tất Tố đã để lại một một sự
nghiệp văn học phong phú, độc đáo, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng
sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu phẩm báo chí...và ở thể loại nào
cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Tác phẩm của Ngô Tất Tố không chỉ là tiếng nói
đanh thép tố cáo chế độ thực dân phong kiến tàn bạo, mà còn thể hiện tấm lòng
cảm thƣơng đối với nhân dân lao động. Với những đóng góp không nhỏ cho văn
học nƣớc nhà, năm 1996, Ngô Tất Tố vinh dự đƣợc nhà nƣớc trao tặng giải
thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.Nhắc đến Ngô Tất Tố, tác phẩm đƣợc
xem là tiêu biểu nhất mà ngƣời đọc nhớ tới, gợi liên tƣởng ngay đến tên tuổi của
ông đó chính là tiểu thuyết Tắt đèn, một tác phẩm xuất sắc đã góp phần đƣa vị thế
của nhà văn lên vị trí xứng đáng trong dòng văn học hiện thực Việt Nam trƣớc
Cách mạng. Từ khi mới ra đời Tắt đèn đã đƣợc nhiều nhà văn, nhà báo thời đó
khen ngợi và đánh giá cao "một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng
thấy". Không chỉ có Tắt đèn mà còn nhiều tác phẩm khác của Ngô Tất Tố nhƣ:
Việc làng, Lều chõng, những bài báo và các công trình khảo cứu, dịch thuật...
cũng đƣợc đông đảo công chúng độc giả đón nhận một cách nồng nhiệt.Bên cạnh

những sáng tác văn chƣơng, Ngô Tất Tố còn để lại khối lƣợng tác phẩm báo chí
đồ sộ gồm hàng trăm phóng sự, tiểu phẩm in trên 27 tờ báo, tạp chí mà ông đã
từng cộng tác: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần Chung, Phổ thông,
Ngọ báo, Công luận ... Trong thời gian đó, ông đã viết rất nhiều tạp văn, sau này
GS. Phan Cự Đệ gọi là văn tiểu phẩm. Thật thiếu sót khi nhắc tới Ngô Tất Tố mà
không nhắc tới Văn tiểu phẩm của ông. Bản chất của văn tiểu phẩm, đó là sự giao
thoa giữa báo chí và văn học. Chúng ta cần đƣa văn tiểu phẩm về đúng vị trí của
nó, ngang hàng với những thể loại sáng tác khác, từ đó dùng phƣơng pháp luận
nghiên cứu văn học để tiếp cận cũng nhƣ đánh giá thể loại đặc thù này một cách

4


chính xác. Đó cũng chính là lí do chúng tôi chọn “Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố
dưới góc nhìn loại hình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Chúng ta thƣờng nhắc đến Ngô Tất Tố với tƣ cách nhà văn với các tác
phẩm Tắt đèn, Lều chõng … Ngô Tất Tố với tƣ cách nhà nghiên cứu với tác phẩm
Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim.Ngô Tất Tố với tƣ cách nhà báo với hàng
loạt phóng sự nổi tiếng nhƣ Dao cầu thuyền tán, Tập án cái đình, Việc làng …Ở
vị trí nào Ngô Tất Tố cũng thể hiện tài năng của mình qua việc để lại hàng loạt tác
phẩm có giá trị. Đặc biệt trong lĩnh vực báo chí có một thể loại cũng góp phần
làm nên thành công của toàn bộ văn nghiệp của Ngô Tất Tố đó chính là thể loại
tiểu phẩm. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh
nhận xét: “Chƣa nói tới các lĩnh vực khác, chỉ riêng ở văn tiểu phẩm cũng đã thấy
rõ đƣợc tính chất phong phú và đa dạng trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Ông vừa
có tài “viết mỗi ngày một chuyện” lại vừa có tài viết mỗi bài một kiểu”. Vì thế
qua hơn một trăm bài báo của ông, không thấy có sự đơn điệu trùng lặp. Trái lại
độc giả dễ bắt gặp những thú vị bất ngờ.
Phan Cự Đệ cũng đánh giá cao văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố: “Toàn bộ

tiểu phẩm của Ngô tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã
hội thực dân phong kiến Việt Nam những năm trƣớc cách mạng Tháng tám, nó đã
cung cấp cho chúng ta những tài liệu quý giá về văn học, sử học, xã hội học, dân
tộc học (phong phú nhất là những tài liệu về nông thôn và nông dân Việt Nam)”.
Vừa là một tác gia, vừa là một nhà báo xuất sắc, đó là nét độc đáo hòa quyện
trong phong cách nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Nghiên cứu Văn tiểu phẩm của Ngô
Tất Tố, chúng tôi muốn góp phần làm sáng tỏ tƣ tƣởng tiến bộ và quan niệm của
ông về nghề báo và viết văn, qua đó khẳng định tài năng của ông trên lĩnh vực báo
chí, đồng thời khẳng định lại vị trí của các tác phẩm báo chí, trong toàn bộ sự
nghiệp văn chƣơng của ông. Ở Ngô Tất Tố, dù là nhà văn hay nhà báo, ông đều có
nét sắc sảo riêng, con ngƣời văn chƣơng và con ngƣời báo chí không tách biệt
nhau thậm chí quyện vào nhau tạo thành cá tính sáng tạo của tác gia này. Trong

5


giai đoạn hiện nay, hòa chung không khí đổi mới của đất nƣớc, báo chí Việt Nam
cũng từng ngày thay da đổi thịt. Có thể thấy số lƣợng báo chí phát hành nhiều, cả
báo giấy lẫn báo mạng, có hình thức trình bày trang nhã, nội dung phong phú, đa
dạng hấp dẫn ngƣời đọc. Yêu cầu đặt ra là các nhà báo cần có chuyên môn cao
đƣợc đào tạo qua trƣờng lớp, vừa phải có kinh nghiệm thực tế để tạo ra những tác
phẩm báo chí nóng hổi, theo sát đời sống nhƣng phải có sức sống lâu dài trong
lòng độc giả.
Việc nghiên cứu Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, là một việc làm cần thiết,
một cơ hội để chúng tôi nhìn thấy những thành quả của tác giả, từ đó soi chiếu lại
bản thân, nhận ra những điểm còn thiếu sót, trau dồi thêm kiến thức cho bản thân
đồng thời tích lũy kinh nghiệm cho công việc cũng nhƣ trong cuộc sống.
3. Lịch sử vấn đề
Từ trƣớc đến nay, ở Việt Nam đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về Ngô Tất
Tố, với tƣ cách một nhà văn cũng nhƣ nhà báo. Ngô Tất Tố nổi danh ở mảng tiểu

thuyết với tác phẩm Tắt Đèn,khi ông chuyển sang báo chí tiếp tục có những tác
phẩm mới là Lều chõng và Việc làng. Những tác phẩm này đã góp phần quan
trọng tạo cho Ngô Tất Tố một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn. Vũ Ngọc Phan
trong cuốn Nhà văn hiện đại đã đánh giá Ngô Tất Tố là nhà văn chuyên sâu về đề
tài nông thôn, am hiểu sâu sắc cuộc sống và phong tục làng quê. Ông phân tích và
khẳng định tác phẩm Việc làng: "Tập phóngsự về dân quê này là một tập phóng sự
rất đầy đủ về việc làng". Sau Cách mạng tháng Tám, khi hòa bình lập lại, những
tác phẩm văn học có giá trị thời kỳ trƣớc Cách mạng đƣợc lựa chọn và đƣa vào
giảng dạy ở nhà trƣờng. Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một trong số tác phẩm đầu tiên
của dòng văn học hiện thực phê phán đƣợc đƣa vào giảng dạy từ trƣờng phổ thông
đến đại học. Nhờ đó, tên tuổi Ngô Tất Tố đƣợc nhiều ngƣời biết đến hơn, và sự
nghiệp văn học của ông ngày càng thu hút giới phê bình, nghiên cứuSau khi Ngô
Tất Tố – nhà văn của những luống cày mất trên con đƣờng kháng chiến (1954),
tiếp tục có nhiều bài nghiên cứu và giới thiệu về ông nhƣ: Ngô Tất Tố của Nguyên
Hồng (Tạp chí văn nghệ số 54, tháng 8, năm 1954); Đọc lại Việc làng của Bùi

6


Huy Phồn (Tạp chí văn nghệ số 8tháng 1, năm 1958); Ngô Tất tố như tôi đã biết
của Nguyễn Đức Bính (Tạp chí văn nghệ số 61, tháng 6, năm 1962)...Trong
những bài viết tƣởng nhớ, khắc họa chân dung nhà văn Ngô Tất Tố, có nhiều bài
đánh giá cao tiểu thuyết Tắt đèn nhƣ: Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố của Nguyễn
Công Hoan, Lời giới thiệu truyện Tắt đèn của Nguyễn Tuân, Tắt đèn cuốn tiểu
thuyết hiện thực xuất sắc của Hồng Chƣơng, Tắt đèn và tiếng nói của Ngô Tất Tố
của Phong Lê, Giá trị nhận thức của Tắt đèn của Nhƣ Phong... Những bài viết về
chân dung Ngô Tất Tố và tiểu thuyết Tắt đèn càng khẳng định giá trị sự nghiệp
văn học của ông, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện
đại. Đây là cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu và giới thiệu Ngô Tất Tố.
Cũng trong thời điểm này, cần ghi nhận thành tựu nghiên cứu về Ngô Tất Tố của

hai tác giả Phan Cự Đệ và Nguyễn Đức Đàn. Có thể xem đây là công trình nghiên
cứu đầu tiên tập trung có hệ thống trên nhiều bình diện về sự nghiệp của Ngô Tất
Tố, công trình đƣợc Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1962, Nhà xuất bản Hội
nhà văn in lại năm 1999 với nhan đề Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ
thuật của Ngô Tất Tố. Sau đó nhà xuất bản Văn học in cuốn Tuyển tập Ngô Tất
Tố và tiếp theo là Toàn tập Ngô Tất Tố (1996) do giáo sƣ Phan Cự Đệ tuyển chọn
và giới thiệuỞ Việt Nam, Giáo Sƣ Phan Cự Đệ đƣợc biết tới nhƣ một chuyên gia
về Ngô Tất Tố. Viết về Ngô Tất Tố, ông có những chuyên luận, tiểu luận đáng
chú ý in trong các cuốn sách: Ngô Tất Tố (viết chung với Bạch Năng Thi, 1962),
Ngô Tất Tố tác phẩm (1975), Ngô Tất Tố (Giáo trình Văn học Việt Nam 1930 –
1945, tập1, viết chung với Hà Văn Đức, Nguyễn Hoành Khung, 1988), Di sản báo
chí Ngô Tất Tố – Ý nghĩa lý luận và thực tiễn (chủ biên, 2005)... Ông đánh giá
cao khả năng quan sát và khái quát nông thôn Việt Nam thời thực dân phong kiến
của nhà văn qua tiểu thuyết Tắt đèn và tập phóng sự Việc làng. Trong những tác
phẩm này, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc đằng sau sự phân tích xã hội, là sự đồng cảm
tha thiết của nhà văn với cuộc đời cay cực, tủi nhục, bế tắc của nông dân. Phan Cự
Đệ cũng là ngƣời khảo sát, phân tích có hệ thống về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố và
đánh giá cao những đóng góp của nhà văn – nhà báo này. Tiểu phẩm của Ngô Tất

7


Tố có giá trị nhƣ “một bộ sử biên niên của xã hội Việt Nam những năm ba mƣơi
và bốn mƣơi”, là “tài liệu quý giá về triết học, sử học, xã hội học, dân tộc học”, là
“phòng triển lãm những chân dung khác nhau của giai cấp thống trịay cho làng báo của nó, Ngô Tất Tố dùng toàn
những lời mỉa mai, bóng gió. Ông viết: “Có thế chớ, bài sớ của báo “tổ quốc
Việt Nam” thật đã thấu đến tai trời, mới có sự tốt lành ấy. Lá sớ quý giá ấy thật
là giá đáng ngàn vàng. Nếu không nếu tỉnh Hà Đông bị thiếu mất một ông tổng
đốc, thì tổ quốc có khi sẽ thành tổ … cò, chúng mình còm mặt mũi nào mà sống
ở đời nữa”. Những từ ngữ nhƣ “thấu đến tai trời”, “sự tốt lành”, “quý giá”, “giá

đáng ngàn vàng”…tƣởng chừng nhƣ nhà văn mừng thật. Nhƣng không phải,
ngẫm sâu vào giọng điệu ta sẽ thấy ngay thái độ không đồng tình của tác giả.
Đó chỉ là cách nói mỉa mai trƣớc hiện thực. Cách viết này xuất hiện nhiều trong
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, tạo thành phong cách độc đáo của ông. Trong bài
“Chỉ có ông ấy đáng làm dân biểu”, viết về ông Phạm Huy Nghiêm. ra ứng cử
dân biểu. Ngô Tất Tố thể hiện bản chất vô liêm sỉ của ông lại này bằng những
lời văn có vẻ tán dƣơng. Trƣớc hết, Ngô Tất Tố khẳng định chỉ có ông ấy “xứng
đáng làm dân biểu”, sau đó ông chỉ ra vì sao mà xứng đáng “xứng đáng là vì
82


trong lúc tranh cử, ông ấy đã làm một việc oanh liệt, ngƣời khác không thể làm
nổi. Việc lạy ngƣời sống”. Đến đây thì ngƣời đọc hiểu ngay thái độ của Ngô Tất
Tố và hiểu ông muốn chế giễu điều gì. Cũng cùng một phong cách nhƣ thế,
trong bài “Một đứa con quý”, ông viết: “Quý hoá thay ông con ấy. Thật đã có
công làm cho yên lòng những ngƣời không có con”.Hàm ý của câu đó là: thà
không có con còn hơn sinh ra những đứa con bất hiếu nhƣ thế!
Trong tình hình báo chí luôn bị kiểm duyệt chặt chẽ, lối viết này đã giúp
Ngô Tất Tố vƣợt qua tai mắt của những kẻ chuyên cắt xén bài viết. Tuy nhiên
lối viết m chỉ, hàm ý của Ngô Tất Tố không quá sâu xa, khó hiểu, vì vậy ngƣời
đọc vẫn dễ dàng nhận ra. Mục đích của ông là viết cho quần chúng, nhân dân
nên những thủ pháp nghệ thuật ông sử dụng cũng phải gần gũi và dễ hiểu đối
với họ.
3.2.3 Ngôn ngữ, giọng điệu trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố
Ngôn ngữ trong tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố có sự kết hợp chặt chẽ
giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí.
Tiểu phẩm trƣớc hết là một thể loại báo chí, vì vậy ngôn ngữ biểu đạt bao
giờ cũng ngắn gọn, chính xác. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã đạt đến độ gọn
gàng, chính xác và truyền đạt thông tin một cách sáng sủa. Ngôn ngữ trong tiểu
phẩm của ông luôn tạo cho ngƣời đọc cảm giác đó là ngôn ngữ tự thân mang

tính khách quan của sự việc, sự kiện, chứ không hề có sự suy diễn chủ quan của
ngƣời viết. Ngôn ngữ khách quan này bị chi phối bởi tích chất thời sự của vấn
đề mà Ngô Tất Tố đề cập. Phần lớn đề tài mà Ngô Tất Tố đề cập trong tiểu
phẩm của mình là những vấn đề chính trị, xã hội nóng bỏng.
Bên cạnh tính chất khách quan, chính xác. Ngôn ngữ trong tiểu phẩm của
Ngô Tất Tố còn giàu tính chiến đấu. Ngôn ngữ trong tiểu phẩm của ông, đặc
biệt trong những bài viết mang tính chất châm biếm, đả kích mạnh mẽ, thƣờng
rất sắc nhọn, gai góc. Ngòi bút của ông đại diện cho công lí, cho chính nghĩa và
quyền lợi của ngƣời lao động, vì vậy ngôn ngữ chính là vũ khí sắc bén, với
nhiệm vụ thiêng liêng là chiến đấu với kẻ thù của dân tộc. Cũng giống nhƣ Lỗ
83


Tấn, Ngô Tất Tố dùng văn tiểu phẩm để đấu tranh với kẻ thù và đấu tranh với
nội bộ quần chúng. Một mặt ông đánh thẳng vào bọn thực dân cƣớp nƣớc, bọn
quan lại bán nƣớc và làm tay sai cho kẻ thù. Mặt khác ông cũng chỉ ra những
cái xấu, cái chƣa tốt của quần chúng nhân dân, của đồng nghiệp…tuỳ từng đối
tƣợng chiến đấu mà ông dùng ngôn ngữ khác nhau. Nhƣng dù đối tƣợng đả kích
là ai thì ngôn ngữ trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố bao giờ cũng thể hiện một
cái nhìn đúng đắn, một sự phân tích, suy luận có cơ sở khoa học. Đảm bảo đƣợc
đặc điểm chung của ngôn ngữ báo chí. Chức năng này của Ngô ngữ không chỉ
tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung của tác phẩm mà còn
đƣợc thể hiện ngay ở “tít” của mỗi tiểu phẩm, ví dụ nhƣ Hiệp tác hay hiếp tác,
Mườinăm nữa báo chí Bắc kì sẽ cổ động đến thò lò quay đất, Một cuộc tẩy uế
nghị viện Bắc kì…
Thành công về ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không chỉ dừng lại ở đó. Ngôn
ngữ chính xác, khoa học, và giàu tính chiến đấu trong tiểu phẩm của ông lại
đƣợc kết hợp một cách nhuần nhuyễn với ngôn ngữ của văn chƣơng nghệ thuật.
Nhƣ ta đã biết, nhờ sự kết hợp giữa văn chƣơng và báo chí này, Ngô Tất Tố đã
đạt đƣợc những thành công không nhỏ ở thể loại phóng sự. Với khả năng sáng

tạo đó, ông lại gặt hái thành công ở thể loại tiểu phẩm. Có thể nói, ở Ngô Tất Tố
có sự hoà hợp của con ngƣời văn chƣơng và con ngƣời báo chí.
Ngô Tất Tố sống nhiều ở nông thôn, bản tích ông lại thích cái vẻ giản đơn,
mộc mạc, thâm thuý của ngƣời dân quê. Vì vậy trong tiểu phẩm của mình, ông
vận dụng khá điêu luyện vốn từ ngữ dân gian, những lời ăn tiếng nói hàng ngày
của ngƣời dân. Chính những vốn từ ngữ dân dã đó đã đem đến cho tiểu phẩm
của Ngô Tất Tố một sức hấp dẫn mãnh liệt, biến những bài báo khô khan của
ông thành những câu chuyện thú vị, dễ hiểu, và gần gũivới ngƣời đọc.
Trƣớc hết là những cụm từ, những thành ngữ, tục ngữ dân gian đƣợc Ngô
Tất Tố vận dụng đúng văn cảnh, bộc lộ đƣợc những khả năng diễn đạt phong
phú. Bản chất của sự vật, hiện tƣợng, con ngƣời đƣợc gọi tên một cách ấn
tƣợng. Ông gọi Phạm Quỳnh là một “nhà dở học giả, dở chính trị”, có tài “theo
84


gió bỏ buồm”, khiến bản chất của tên bồi bút tay sai, kẻ đầu cơ chính trị này thể
hiện một cách rõ nét. Còn ông gọi bọn tƣ sản, đóng vai ông chủ hầm mỏ, chủ
nhà máy là “Bọn ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột”, không còn câu nào có thể
diễn đạt bản chất tham lam, bóc lột của bọn họ hơn thế!. Bọn cho vay nặng lãi ở
nông thôn lại đƣợc ông gọi là “thứ đầu trâu, mặt ngựa, ăn thịt ngƣời không
tanh”. Còn bọn quan lại tham những ở chốn hƣơng thôn là “những kẻ bóp dân
nhƣ bà cô bóp cháu”…
Lời ăn tiếng nói hàng ngày, mang đậm sắc thi phƣơng ngữ Bắc bộ cũng
đƣợc ông khai thác triệt để, tạo nên những cảm xúc thẩm mĩ khó quên trong
lòng độc giả. Những từ nhƣ: “coi”, “ngó”, “bỏ ráo”, “chẳng mần vua thì mần
quan” trong Con cháu khôn hơn ông Vải, “Đi tu thì mặc nâu sồng mà lỵ” trong
Chẳng tu thì cũng như tu. Thậm chí cả những từ ngữ xuề xoà của ngƣời nông
dân nhƣ: “Cái ngôi đền ở giữa phố choèn choèn bằng cái quán nƣớc, thè lè ra
mép đƣờng đi, chẳng biết là thờ chi mà coi bộ sầm uất hết sức” trong Kiểu đất ở
phố hàng trống, hoặc: “Ông Thông Reo, ngƣời viết báo Trung lập, hôm nọ đã

bô bô đem cái việc ấy nói toẹt lên báo rồi” trong Ông Thông Reo dám tiết lộ bí
mật của ông Phạm Quỳnh… Ông đƣa vào tiểu phẩm cả những lời nói chua
ngoa, đáo để nhƣ: “ổng ăn dƣng ngồi rồi đã gần một năm rồi độ này ngứa nghề
lại vào làm quản lí báo Công luận”, hoặc: “nói ra thì ngứa máu ông Phan Khôi”
trong Có người bảo ông Nguyễn Văn B. thất tiết…
Ngô Tất Tố đã khéo léo kết hợp tính chất đả hích, châm biếm sắc sảo với
khẩu ngữ dân bình dân, gần gũi, tạo nên một giọng điệu trào phúng đặc sắc.
Phong cách của nhà văn thể hiện ở nhiều phƣơng diện, nhƣng ở Ngô Tất
Tố rõ nhất là ở ngôn ngữ và giọng điệu. Một nhà văn có tài bao giờ cũng có
tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, không pha tạp hoặc lẫn lộn với ai cả. Giọng
điệu đó phải gây đƣợc ấn tƣợng trong lòng ngƣời đọc.
Đọc tiểu phẩm, phóng sự, cũng nhƣ đọc những sáng tác khác của Ngô Tất
Tố, chúng ta dễ dàng nhận ra giọng điệu của ông. Giọng điệu trong tiểu phẩm
85


của Ngô Tất Tố rất gầnvới giọng điệu trong Việc làng và Tập cái án đình, đó là
giọng điệu trào phúng sâu sắc, nhẹ nhàng nhƣng thâm thuý.
Ngƣời đọc cảm thấy thích thú trƣớc cách nói quanh co, mát mẻ, khen đấy
m cũng chê đấy. Chẳng hạn, ông khen báo Grande Réfome đƣa ra đề nghị trừ
“nạn nhân mãn”, “bằng cách tuyệt đƣờng sinh dục” là “một cách giải quyết đến
tận gốc”, “cái giải pháp ấy mới giản dị làm sao!” Lại có lời bình: “nhân đạo
thay”! Sau đó ông vờ bàn cách “cứ để cho nhà xăm, nhà chứa và nhà cô đào tự
do hoành hành thì vi trùng hoa liễu có thể dần dần tiêu diệt cả dân tộc Việt
Nam”. Rồi cuối cùng, thật bất ngờ, ông thẳng thừng bác bỏ với lập luận: “Ở xứ
Đông Dƣơng cũng can đến ngƣời Việt Nam để làm cu li khai mỏ, lấy mủ cao su
và vỡ điền hoang cho những nhà đại điền chủ” trong Phải chừa lại số người làm
cu li. Lối mỉa mai này của Ngô Tất Tố tuy nhẹ nhàng, nhƣng đối tƣợng bị đả
kích lại rất đau. Chẳng hạn trong “Cô này làm gƣơng cho những nhà kén rể”,
ông viết: “Cái đám cƣới nàykể ra cũng là cái quả báo của nhà cụ nọ thật đấy,

song cũng còn đƣợc cô con gái ấy là hạng mặt dày mày dạn, nên ông cụ ấy mới
đƣợc có con, có cháu lại có rể. Nếu cô gái ấy là ngƣời có chút liêm sỉ thì đâm
đầu xuống ao chuôm rồi còn gì. Vậy thì cô đó cũng có thể làmgƣơng cho những
nhà kén rể”.
Nhà văn thƣờng sử dụng những kiểu câu song hành trong tiểu phẩm để tạo
giọng điệu mỉa mai châm biếm nhƣ khi liệt kê các chức vụ của Phạm Quỳnh:
“Tiên sinh Phạm Quỳnh hay là ông Thƣợng Chi, tức ông chủ nhiệm kiêm chủ
bút báo Nam Phong, tức là ngƣời đãđề xƣớng ra việc kỷ niệm ông Nguyễn Du,
tức ngƣời đã đem Truyện Kiều thành Thánh thƣ Phúc âm của dân tộc Việt Nam,
tức ông tổng thƣ kí của hội Khai trí Tiến Đức, tức ngƣời phù giá đức tiên hoàng
Khải Định trong khi đang du Pháp, tức ông chủ cái biệt thự “Hồng Nhân” ở ấp
quan Quận Hoàng, tức ông chủ cái nhà lầu số 5 phố Hàng Da Hà Nội (…), tức
ngƣời sáng lập ra cái “hiến pháp tam giác.”. Cách viết nhƣ thế này này còn thấy
ở các tiểu phẩm: Người khác làm ông Bùi Bằng Đoàn thì như thế nào?, Đố biết
ông Godard là người gì?…
86


Giọng điệu châm biếm của Ngô Tất Tố đƣợc vận dụng tối đa trong những
bài mang tính chất bút chiến. Liên tục ba bài bút chiến trên báo Phổ Thông để
đả kích việc báo Nông công thƣơng bợ đỡ Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố viết bằng
một giọng giễu cợt. Trong tiểu phẩm đăng ngày 7.19.1930, ông gọi báo Công
nông thƣơng là “em”, xƣng là “các ông anh”. Ông viết: “Em mình lại sợ thân
hình bé bỏng, sợ báo thù hoặc khó nhƣ nguyện, buộc luôn bác chủ Đông Tây
của em cái tội thoá mạ các báo để hùn cho các ông anh rộng mồm lớn xác vào
hùn mà binh. Thôi đi! Đã dại lại còn định hùn ai? Cái ngĩn hợp tung liên hoành
của em bay giờ dùng làm sao đƣợc?. Giọng điệu châm biếm giễu cợt đó khiến
báo Công nông thƣơng “nổi ngay cái tiết loài ngƣời lên” (từ dùng của Ngô Tất
Tố), viết lại một bài trả đũa, đáp lại, Ngô Tất Tố bồi thêm một đòn nặng nề hơn:
“Ấy, đại ý quý bài của Nông công thƣơng đại báo dơ thế, nhƣng đại báo viết

công phu lắm, có lẽ dùng hết tâm huyết, chỉ có một mẩu mà lôi thầy Ẩm Băng
vào, lại kéo cả Không Tử, Lão Tử và Trang Tử tới nữa. Cũng phải chẳng thế ai
biết đại báo có ngƣời biết chữ nho”. Đó là bài đăng ngày 10.10, còn bài đăng
ngày 13.10, Ngô Tất Tố lại gọi cái động thái của báo Công nông thƣơng là
“Vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa quay cổ lại vừa chạy, ấy thái độ của cái báo tí
hon”; rồi ông cơng kích trực diện: “bị dùi mà nín đi cũng chẳng ai nói đến làm
gì, nhƣng lại không nín, cãi lại, cãi lại cứ việc cãi lại, cũng chẳng hỏi tới, vì cải
lại mà giở giọng xúc xiếm chực hùn mình vào bè, chẳng vào bè với trẻ ranh,
cực chẳng đã mình phải nói toẹt chỗ hóm vặt ấy ra”.
Ngô Tất Tố cứ nhẹ nhàng vừa giễu vừa mắng. Ngƣời đọc cảm thấy ông rất
hóm hỉnh, còn đối tƣợng bị đả kích lại “tức lộn ruột” nhƣng không làm gì đƣợc,
vì lí lẽ, bt lực đâu mà cãi lại với Ngô Tất Tố – một ngƣời vốn uyên thâm về mọi
mặt, từng đƣợc xem là một tay ngôn luận kỳ khôi của làng báo Bắc Kì.
Trong tiểu phẩm của mình, tuỳ từng đối tƣợng mà ông lựa chọn giọng điệu
cho phù hợp. Đối với những thói hƣ tật xấu trong nội bộ nhân dân ông dùng
giọng hài hƣớc, giễu cợt nhằm bài trừ nó. Còn đối với bọn bồi bút, bọn tay sai
bán nƣớc, bọn đầu cơ chính trị ông dùng giọng văn mỉa mai, châm biếm. Đối
87


với bọn thực dân cƣớp nƣớc ông lại viết bằng một giọng văn cứng cỏi, thể hiện
thái độ bất hợp tác. Ông vạch r những thủ đoạn cai trị tàn bạo, thâm độc của
chúngbằng giọng câm biếm, đả kích sắc sảo (Hiệp tác hay hiếp tác, Một hạng
con nuôi của ả phù dung, Cho no đủ đã, Phải chừa lại số người làm cu li…).
Nhƣ vậy, giọng văn trào phúng trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố rất nhiều sắc
độ, luôn biến hóa linh hoạt và đặc biệt luôn mang đậm cái “tôi” của tác giả, nhà
văn Ngô Tất Tố.

88



PHẦN KẾT LUẬN
Ngô Tất Tố đã để lại một sự nghiệp văn chƣơng có giá trị, phong phú đặc
sắc ở nhiều thể loại từ văn chƣơng đến báo chí. Ông có một cá tính riêng, một
thế giới nghệ thuật riêng giàu tinh thần sáng tạo. Ngô Tất Tố là một nhà văn
hiện thực, nhà báo tiến bộ, có tri thức sâu sắc về văn hóa truyền thống phƣơng
Đông mà nhiều ngƣời xem ông là danh nhân văn hóa của Hà Nội. Sáng tác của
Ngô Tất Tố vừa mang đậm tính truyền thống lại vừa rất hiện đại, văn tiểu phẩm
của ông có sự "giao thoa" giữa văn học và ngôn ngữ báo chí, mang đậm tính
chất thể loại
Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là bức tranh chân thực về xã hội thực dân
phong kiến cũ. Trong tác phẩm của ông hiện lên đầy đủ mọi mặt của đời sống
xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn hóa; mọi hạng ngƣời trong xã hội từ dân đến
quan đều đƣợc khắc họa rõ nét. Không chỉ là một nhà văn, Ngô Tất Tố còn là
một nhà báo chuyên "vạch mặt chỉ trán" những tên chóp bu của chế độ phong
kiến đƣơng thời. Chính tố chất nhà báo đã tạo nên tính thời sự và tính chiến đấu
trong văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ trong các tác phẩm của ôngluôn
có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố văn học và báo chí. Hai yếu tố này
không hạn chế hay loại trừ nhau mà luôn bù đắp cho nhau. Chất văn học tăng
thêm giá trị về tình cảm, giá trị nhân văncủa nhiều bài báo, tạo cho tính thời sự
tính chiến đấu của tiểu phẩm báo chí có sức mạnh phong phú hơn.
Ngô Tất Tố và văn tiểu phẩm của ông vẫn có giá trị nghệ thuật lớn lao với
cuộc sống hôm nay, ông là "ngƣời cùng thời với chúng ta" (Phong Lê). Đến nay
cuộc đời và văn nghiệp Ngô Tất Tố trải qua nhiều chặng đƣờng, đƣợc đánh giá
và tiếp nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử, song Ngô Tất Tố đã đƣợc tôn vinh, đƣợc
đánh giá nhƣ một nhà văn lớn của thế kỷ XX, nhà văn xuất sắc của dòng văn
học hiện thực phê phán, nhà văn tin cậy của nông dân. Ngô Tất Tố xa chúng ta
đã hơn nửa thế kỷ, nhƣng ông vẫn hiện lên qua từng trang sách. Văn tiểu phẩm
của ông đã đƣợc nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí giữa những sáng tác của ông
nói riêng và giữa các thể loại văn học khác nói chung.

89


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tác phẩm của Ngô Tất Tố:
1. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập III, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập IV, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập V, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Ngô Tất Tố (2005), Cẩm hương đình, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
7. Ngô Tất Tố (2005), Tiểu phẩm báo chí, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
8. Ngô Tất Tố (2005), Chuyện người đương thời, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
* Những Tác phẩm văn học, Sách, Báo, Tạp chí khác:
9. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Phan Cự Đệ (1993), Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay,
Ngô Tất Tố với chúng ta, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
11. Phan Cự Đệ (1997), Ngô Tất Tố, Văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
12. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
13. Phan Cự Đệ (2005), Di sản báo chí Ngô Tất Tố ý nghĩa lý luận và thực
tiễn, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Cao Đắc Điểm (2003), Góp phần hoàn thiện chân dung Ngô Tất Tố,
Tạp chí Văn học (số 6), tr. 8 - 12.
15. Cao Đắc Điểm (2003), Từ Bắc Ninh tới Hà Nội: Một con ngƣời trọn
đời với nghề báo, nghiệp văn, Tạp chí Thăng Long - Hà Nội ngàn năm (số
17), tr. 44.

90


16. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
17. Hà Minh Đức (1998), Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố,
Tạp chí văn học (số 11), tr. 11 - 18.
18. Hà Văn Đức (1997), Ngô Tất Tố nhà văn tin cậy của nông dân, Các
nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
19. Nhiều tác giả (1996), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
20. Nhiều tác giả (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
21. Nhiều tác giả (1996), Từ điển giải thích thành ngữ Tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (2006), Ngữ văn 10 ( tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả (1988), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Lê Thị Đức Hạnh (1983), Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố,
Tạp chí Văn học (số 6), tr. 91.
25. Lê Thị Đức Hạnh (1993), Ngô Tất Tố một tài năng lớn, Tạp chí Văn
nghệ quân đội (số 12).
26. Mai Hƣơng, Tôn Phƣơng Lan (2000), Ngô Tất Tố Về Tác giả và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Mai Hƣơng (biên soạn) (1993), Ngô Tất Tố với chúng ta, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
28. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
29. Kim Lân (1997), Những ngày sống với bác Tố, Tuyển tập Kim
Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.
30. Phong Lê (1994), Ngô Tất Tố một chân dung lớn một sự nghiệp lớn,
Tạp chí văn học (số 1), tr. 1-5.
31. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và

phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội.
91


32. Nguyễn Đăng Mạnh (1973), Ngô Tất Tố, Lịch sử Văn học Việt Nam,
tập V (1930-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Thiết Khẩu Nhi (1930), Tiên sinh Phạm Quỳnh cãi lộn với ông Thƣợng
Chi, Phổ Thông, (số ra ngày 26-10).
34. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học - Hội nghiên
cứu giảng dạy Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Cù Đình Tú (2003), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
36. Trần Minh Tƣớc (1939) Một nhà văn của dân quê - Ngô tất Tố trong
Tắt đèn, Báo Mới (số 4).

92



×