Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

So sánh sự giống và khác nhau giữa triết học phương đông và triết học phương tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.17 KB, 17 trang )

1

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu cũng như
phong tục, tập quan của mỗi dân tộc mà con người áp dụng các
phương thức sản xuất để cải tạo thế giới tự nhiên, đem lại của cải
vật chất. Ở phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ, manh mún,
còn phương Tây là phương thức sản xuất tư bản công nghiệp. Bên
cạnh điều kiện tự nhiên, phương thức sản xuất thì nền văn hoá
phương Đông mang nặng tính chất cộng đồng khác hẳn nền văn hóa
phương Tây mang tính cá thể.
Bắt nguồn từ điều kiện đó, các tư tưởng triết học đầu tiên
trong lịch sử xuất hiện vào (khoảng từ thế kỷ VIII – VI trước công
nguyên) tại một số trung tâm văn minh ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc
cổ đại, Hy Lạp, La Mã cổ đại và ở nhiều nước khác trên thế giới để
lý giải sự tồn tại của thế giới tự nhiên, xã hội, con người theo mỗi
một quan điểm khác nhau. Trường phái triết học phương Đông đa
phần thiên về duy tâm, coi nhận thức những vấn đề trong chính cuộc
sống của con người. Trường phái phương Tây quan niệm thế giới là
lửa (Hêraclit), Talet coi thế giới là nước nước, Đêmocrit quan điểm
thế giới là nguyên tử… Như vậy, mỗi trường phái triết học lại có tư
tưởng nhìn nhận, đánh giá thế giới tự nhiên, xã hội, con người theo
một quan điểm riêng không giống nhau.
Để làm rõ một phần nào đó sự giống và khác nhau giữa tư
tưởng triết học của phương Đông và phương Tây trong giai đoạn
lịch sử này là lý do em chọn đề tài : “So sánh sự giống và khác
nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây ” để
làm bài tiểu luận.


2



B. NỘI DUNG
1. Sự giống nhau giữa triết học phương Đông và triết
học phương Tây.
Đây là sự kết tinh nhũng giá trị tinh túy nhất của tất cả các
thời kỳ lịch sử, thể hiện quan điểm của con người trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định, quan điểm của con người về mọi vấn
đề: tự nhiên, nhận thức, chính trị - xã hội.
Đều là sự phản ánh những quy luật chung nhất về tri thức
vừa mang tính khái quát, vừa mang mang tính trừu tượng .
2. Sự khác nhau nhau giữa triết học phương Đông và
triết học phương Tây.
2.1. Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Đông và
phương Tây
2.1.1.Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Đông
Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Đông là lấy xã
hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn xung quanh. Do đó đối
tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, chính trị,
đạo đức, tâm linh và do vậy xu hướng là hướng nội, lấy trong để
giải thích ngoài. Thiên về duy tâm.
2.1.2 Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Tây
Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng, gồm toàn bộ
thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo
hướng lấy ngoại (ngoài con người) để giải thích trong (con
người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.
2.2 Quan điểm của các trường phái triết học phương
Đông và phương Tây.


3


2.2.1 Các quan điểm về giới tự nhiên, con người của các nhà
triết học phương Đông
Các trường phái triết học phương Đông đa phần thiên về
duy tâm, coi nhận thức những vấn đề trong chính cuộc sống của
con người. Tiêu biểu là trường phái triết học Ấn Độ cổ trung
đại: Phật giáo thể hiện rõ nét ở quan niệm tự thân sinh thành.
Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý về nhân sinh sâu sắc dẫn
đến tính chất duy tâm. Cũng như nhiều trường phái triết học của
Ấn Độ cổ đại, phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh
ở sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng
thái tồn tại niết bàn. Nội dung của triết học nhân sinh phật giáo
tập trung trong thuyết “tứ đế” – có nghĩa là bốn chân lý: khổ đế,
nhân đế, diệt đế, đạo đế. Bốn luận đề này thực chất là giải thích
các vấn đề diễn ra trong cuộc sống con người và tìm ra con
đường tu đạo của con người. Ví dụ: Khổ đế (Duhkha-satya).
Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có tám nỗi khổ hay
tập đế hay nhân đế, phật giáo cho rằng “cuộc sống đau khổ là có
nguyên nhân.” Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, phật giáo đưa
ra thuyết “thập nhị nhân duyên”- đó là mười hai nguyên nhân và
kết quả nối theo nhau cuối cùng dẫn đến các đau khổ của con
người. Từ sự khổ đó phật giáo lại chỉ ra con đường giải thoát nỗi
khổ đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Triết học Trung Hoa cổ trung đại: coi con người là tiểu vũ
trụ trong hệ thống lớn, “trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta
là một”. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính
chất, những huyền bí của vũ trụ bao la, chỉ cần suy xét ở trong


4


tâm, tận tâm của mình mà thôi. Trong đó tư tưởng triết học nổi
bật trong thời kỳ này là: triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn
liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo
đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học
tự nhiên có phần mờ nhạt. Hai là, tư tưởng chính trị đạo đức, các
nhà triết học Trung Hoa đều theo đuổi luân lý đạo đức như là
hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị
trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Ba là, nhất mạnh sự hài hòa
thống nhất giữa tự nhiên và xã hội, coi trọng tính đồng nhất của
các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hòa
mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Bốn là, tư
duy của triết học Cổ đại Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là
có trong sự cảm nhận, đặt mình giưa đối tượng, tiến hành giao
tiếp lý trí, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc
lát, từ đó mà nắm bản thể trừu tượng và họ coi trọng cái tâm, coi
cái tâm là gốc rễ của nhận thức “lấy tâm để bao quát vật”, cái
gọi là đến tận cùng của chân lý, của Đạo gia, Phật giáo, lý học
nặng về áp thị, nặng về trực giác mà cảm nhận nên thiếu sự
chứng minh rành rọt. Vì vậy, các tư tưởng triết học thời kỳ này
thiếu đi những phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ thống
lý luận khoa học về thế giới tự nhiên và con người trong thực tại
xã hội.
Bên cạnh đó, ở phương Đông triết học còn là các học thuyết
chính trị- xã hội. Trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là thời
kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến. Xã hội lúc này ở vào tình trang hết sức hỗn loạn, sự tranh


5


giành quyền lực, cát cứ đã đẩy xã hội trung hoa vào tình trạng
chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó một loạt các
học thuyết triết học gắn với các vấn đề chính trị- xã hội đã xuất
hiện. Tiêu biểu là học thuyết của phái Nho gia. Kinh điển của
Nho giáo thể hiện ở Tứ thư, Ngũ kinh. Qua hệ thống kinh điển
có thể thấy hầu hết là các kinh sách viết về xã hôi, về những
kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng
biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là tư tưởng cốt lõi
của Nho gia. Nho gia coi những quan hệ chính tri - đạo đức là
quan hệ nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan
hệ vua- tôi, cha-con, chồng- vợ; lý tưởng của Nho gia là xây
dựng một xã hội đại đồng, lấy giáo dục là phương thức chủ yếu
để đạt tới xã hội đó, và theo Nho gia thì bản tính con người là
Thiện. Nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang
tính hệ thống, nó còn là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Trung
Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Ngoài ra ở Trung Hoa thời đó còn có phái Đạo gia ( học
thuyết về Đạo): với cốt lõi chủ thuyết chính trị- xã hội là luận
điểm vô vi. Vô vi không phải là cái thụ động, bất động hay
không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự
nhiên của Đạo; Thuyết “Kiêm ái” của phái Mặc gia là một chủ
thuyết chính trị- xã hội mang đậm nét tiểu nông với chủ trương:
mọi người thương yêu nhau không phân biệt than sơ, đẳng cấp;
học thuyết Pháp trị của phái Pháp gia, Hàn Phi Tử đã nhấn
mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Phép trị
quốc của Hàn Phi Tử bao gồm: pháp, thế và thuật.


6


Như vậy, mặc dù vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải
thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội
nhưng những học thuyết này đã góp phần rất lớn trong việc xác
lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến
trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trịđạo đức phong kiến Phương Đông.
2.2.2 Các quan điểm về giới tự nhiên, con người của các nhà
triết học phương Tây.
Đối với các trường phái triết học phương Tây lại chủ yếu
hướng ra và tìm hiểu thế giới, tìm cách giải thích, chinh phục thế
giới; con người dường như tách mình ra khỏi thế giới để nhận
thức thế giới:
Các nhà triết học phương Tây tự đặt ra câu hỏi và trả lời
câu hỏi “khởi nguyên của thế giới bắt đầu từ đâu”: Theo các
quan điểm duy vật thì khẳng định thế giới được hình thành từ
những dạng vật chất cụ thể. Mà đại diện tiêu biểu cho trường
phái triết học này là: Hêraclit (520-460 tr. CN), ông quan niệm
về thế giới không phải là nước, không khí mà cho rằng khởi
nguyên của thế giới là lửa. “Mọi cái biến đỏi thành lửa và lửa
thành mọi cái tự như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa
thành vàng” . Lửa không chỉ là cơ sở của vạn vật mà còn là khởi
nguyên sinh ra chúng. Ông nhấn mạnh “ Cái chết của lửa là sự
ra đời của không khí, và cái trết của không khí là sự ra đời của
nước, từ cái trết của nước sinh ra không khí, từ cái trết của
không khí sinh ra lửa và ngược lại”. Ông còn nhấn mạnh rằng:
vũ trụ không phải do Chúa trời hay một lực lượng xiêu nhiên


7


thần bí nào tạo ra mà toàn bộ vũ trụ tựa như một ngọn lửa bất
diệt. Như vậy, Hêraclit đã tiếp cận được với quan niệm duy vật,
nhấn mạnh tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới. Và dưới con
mắt của ông, mọi sự vật trong thế giới đều thay đổi, vận động,
phát triển không ngừng.
Bên cạnh Hêraclit còn có các nhà triết học như Talet coi thế
giới là nước, Đêmocrit quan điểm thế giới là nguyên tử…Quan
điểm của các nhà triết học theo trường phái duy tâm thì coi thế
giới là do một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra, như Pitago thì
cho rằng thế giới này được hình thành từ những con số và ông
đã thần thánh hóa các con số đó.
Từ những quan điểm nhận thức đó, họ đi vào giải thích
các sự vật hiện tượng va lý giải các sự vật, hiện tượng trong
thế giới được tạo ra như thế nào ? Đại diện cho các quan điểm
triết học, Hêraclit chỉ ra rằng sự vật, hiện tượng được sinh ra do
sự vận động của lửa: Lửa→ đất→ nước→không khí đây chính
là quy luật vận động của lửa, trong quá trình này lửa sẽ tạo ra
các sự vật hiện tượng. Hêraclite nhận thấy vận động ở mọi nơi,
mọi lúc, ông cũng không tìm thấy nguồn gốc của vận động ở
bên ngoài sự vật, mà ở ngay chính bản thân nó, coi mâu thuẫn
là cái tạo ra vận động. Hêraclite khẳng định: “Ở vào mọi thời
điểm, vạn vật đều hội tụ trong nó tất cả những mâu thuẫn ”. Từ
quan niệm về vận động và mâu thuẫn, Hêraclite nhận thức theo
một cách mới so với đương thời về tồn tại và thuộc tính của nó.
Tồn tại luôn vận động nên tồn tại và phi tồn tại là một thể thống
nhất. Cũng vậy, thời gian với tư cách là thuộc tính của vật chất,


8


vận động cũng là một thể thống nhất. Hêraclite nói rằng:
“Chúng ta vừa bước xuống vừa không bước xuống cùng một
dòng sông”. Chúng ta vừ tồn tại vừa không tồn tại
Theo Platôn thì ý niệm là cái trước, tồn tại vĩnh viễn và đó
chính là nguồn gốc sinh ra các sự vật cảm tính.
Bên cạnh đó, triết học phương Tây đề cập đến nhiều vấn đề
khác nhau như: nhận thức luận, chính trị, xã hội, đạo đức, mỹ
học… nhưng trong đó đạm nét hơn cả là quan điểm về giới tự
nhiên.
2.3. Quan điểm đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa duy vật của triết học phương Đông và triết học phương Tây.
2.3.1 Ở phương Đông cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra không rõ rệt.
Ở phương Đông có sự đan xen các trường phái duy tâm và
duy vật. Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình
không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào
những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm, có mặt duy
vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là duy tâm hay nhị nguyên luận,
thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết
học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội của Phương đông cũng
không mạch lạc như Phương Tây.
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong
khuôn khổ ủng hộ, bảo vê quan điểm hay một hệ thống nào đó
để hoàn thiện và phát triển nó lớn hơn là vạch ra những sai lầm
và không đặt ra mục đich là tạo ra một triết học mới, do vậy nó
không mâu thuẫn với các học thuyết đặt nền móng ban đầu,


9


không phủ định nhau hoàn toàn, cho nên cuộc đấu tranh giữa
các trường phái không gau gắt, quyết liệt và triệt để.
Triết học gắn với tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo: Ở
phương Đông thì triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý mà
thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy
cái kia làm tiền đề phát triển nên ít có những triết gia với những
tác phẩm triết học độc lập: triết học trung Hoa đan xen với
chính trị lý luận, triết học Ấn Độ lại đan xen với tôn giáo. So
với các nền triết học cổ đại khác thì triết học Ấn độ cổ đại là
một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn
giáo
2.3.2 Ở phương Tây cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy
tâm rõ rệt, đậm nét mạnh mẽ; có sự phân biệt rõ ràng giữa
triết học và tôn giáo
Ngay từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại đã có sự phân chia, đấu tranh
rạch ròi giữa hai trường phái này và nó trở thành quy luật phát
triển của lịch sử triết học. Đứng trên lập trường đối lập nhau
trong quá trình giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, trả lời câu
hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?; con người có khả năng nhận thức được
thế giới hay không?
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại được thể hiện rất rõ qua hệ
thống triết học của Đêmocrit và Platôn. Trong đó có các quan
niệm về thế giới: Đêmocrit cho rằng bản chất sự vật là sự sắp
xếp các nguyên tử. Vì vậy, nguyên tử là hạt vật chất không thể


10


phân chia được nữa, hoàn toàn nhỏ bé và không thể cảm nhận
được bằng trực quan, Nguyên tử là vĩnh cửu không thay đổi
trong long nó, không có cái gì xảy ra nữa. Nguyên tử có vô vàn
hình dạng. Theo quan niệm của Đemocrit, các sự vật là do
nguyên tử liên kết lại với nhau tạo nên. Tính đa dạng của nguyên
tử làm nên tính đa dang của thế giới các sự vật. Nguyên tử, tự
thân không vận động, nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể
thì làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng.
Còn Platôn: Ý niệm, bản chất của sự vật là do ý niệm quyết
định. Và đưa ra quan niệm về hai thế giới: thế giới các sự vật
cảm biến và thế giới ý niệm. Theo ông, thế giới các sự vật cảm
biến là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không
ngừng sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong
chúng không có cái gì ổn định, bền vững hoàn thiện. Còn thế
giới ý niệm là thế giới của những cái phi cảm tính, phi vật thể, là
thế giới của đúng đắn, chân thực và các sự vật cảm biến chỉ là
cái bóng của ý niệm. Platôn, thế giới ý niệm có trước thế giới
các vật cảm biến, sinh ra thế giới cảm biến.
- Về quan niệm nhận thức: Đemocrit đưa ra quan điểm thế
giới khách quan, nguyên tử là quá trình đi từ nhận thức mờ tối ,
chưa mang lại chân lý. Còn nhận thức lý tính là nhận thức thông
qua phán đoán và cho phép đạt chân lý, vì nó chỉ ra cái khởi
nguyên của thế giới là nguyên tử, tính đa dạng của thế giới là do
sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử.
Đối với Platôn thì quan niệm về lý luận nhận thức cũng có
tính chất duy tâm. Theo ông trí thức là cái có trước các sự vật


11


cảm biến mà không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó.
Nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính, vì linh hồn
trước khi nhập vào thể xác con người dưới trần thế thì ở thế giới
bên kia đã có sẵn các tri thức. Do vậy, nhận thức con người
không phải là phản ánh các sự vật của thế giới khách quan, mà
chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
lãng quên trong quá khứ thông qua đối thoại và cho rằng từ đối
thoại như vậy là phương pháp biện chứng.
- Về quan niệm con người: con người bao gồm phần linh
hồn cộng với thể xác và không bất tử. Phẩm chất của con người
không phải ở lời nói mà ở việc làm. Con người cần hành động có
đạo đức. Cò hạnh phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, khả
năng tinh thần nói chung, đỉnh cao của hạnh phúc là trở thành
nhà thông thái, trở thành công dân của thế giới.
Platông quan niệm con người bao gồm linh hồn cộng thể
xác và bất tử. Ông phân ra ba lớp người là các công việc khác
nhau. Tầng lớp người thấp nhất trong xã hội là nông dân, thợ
thủ công và thương nhân làm các công việc đồng ruộng, thủ
công và buôn bán. Tầng lớp vệ quân làm công việc chiến tranh.
Tầng lớp các nhà thông thái, các nhà triết học thì làm chính trị,
điều hành xã hội.
- Quan niệm chính trị - xã hội: Đêmocrít trình bày các
quan điểm của mình đứng trên lập trường chủ nô dân chủ,
những tư tưởng của ông về nhà nước, dân chủ mang tính chất


12

tiến bộ. Ông cho chế độ nô lệ là hợp đạo lý, cần sử dụng nô lệ

như các bộ phận của thân thể.
Platông đưa ra quan điểm bảo vệ tập đoàn chủ nô quý tộc,
lạc hậu, phân chia đẳng cấp, phản đối dân chủ). Trong tư tưởng
chính trị - xã hội của Platông luôn tập trung quan niệm về nhà
nước lý tưởng. Phê phán ba hình thức nhà nước trong lịch sử và
xem xét đó là những hình thức xấu. Đó là, nhà nước của bọn vua
chúa xây dựng trên sự khát vọng già có ham danh vọng đưa đến sự
cướp đoạt; Nhà nước quân phiệt là nhà nước của số ít kẻ giàu có
áp bức số đông, nhà nước đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới các
tội ác; Nhà nước dân chủ là nhà nước tồi tệ, quyền lực thuộc về số
đông, sự đối lập giàu nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt.
Khẳng định sự phát triển của nhà nước, xã hội lý tưởng dựa
trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hòa các
ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu cầu xã hội. Ông
đưa gia giải pháp để xây dựng một xã hội, một nhà nước lý tưởng,
khắc phục tình trạng phân chia giầu nghèo cần xóa bỏ gia đình sở
hữu. Trong thời kỳ trung cổ cuộc đấu tranh đó được biểu hiện qua
hệ thống triết học của phái duy thực (thừa nhận chỉ tồn tại cái
chung, phủ nhận cái riêng) và phái duy danh (ngược lại).
2.3.3 Hệ thống khái niệm, phạm trù:
Về bản thể luận: Ở phương Đông dùng các phạm trù: thái
cực, đạo sắc, hình, vạn pháp…hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ,
Hoả, Thổ, trong đó Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay,
phía Tây. Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc. Mộc
tượng trưng cho tính chất xanh, chua phía Đông. Hỏa tượng trưng


13

cho tính chất đỏ, đắng phía Nam…Còn Thổ tượng trưng cho chất

vàng, ngọt ở giữa để nói về bản chất của vũ trụ, sinh hóa, chế ước
lẫn nhau. Khi bàn về mối quan hệ giữa con người với con người:
tâm-vật, năng- sở, lý-khí, hình-thần.
Về tính chất và sự biến đổi của thế giới: Phương Đông sử
dụng các phạm trù: động- tĩnh, biến dịch, vô thường, vô ngã, lấy
cái tĩnh, cái thống nhất làm gốc.
Về các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, ở Phương
Đông xuất hiện các khái niệm: đạo, lý, mệnh, thần. Ví dụ: Mạnh
Tử đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở đạo nhân của
Khổng Tử, đề ra thuyết “tính thiện” ông cho rằng, “ thiên mệnh”
quyết định nhân sự, nhưng con người có thể qua việc tồn tâm
dưỡng tính mà nhận thức được thế giới khách quan, tức cái gọi
“tận tâm, tri tính, tri thiên”, “vạn vật đều có đủ trong ta”.Ông hệ
thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện thế giới
quan và nhận thức luận. Vê Mệnh, Khổng Tử tin vào vũ trụ quan
dịch, cuộc vận hành biến hóa không ngừng, sâu kín, mẫu nhiệm
của vũ trụ con người không thể cưỡng nổi. Khổng Tử gọi đó là
“thiên mệnh. Từ đó ông coi trời có ý chí làm chủ tể cả vũ trụ. Tin
vào “thiên mệnh” Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là một
điều kiện để trở thành người hoàn thiện. Nho giáo coi “Đạo” quy
luật biến chuyển, tiêu hóa của trời đất, muôn vật. Đối với con
người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan
hệ lành mạnh, tốt đẹp.
Ở phương Tây, ngay từ đầu các nhà triết học đã sử dụng
phạm trù vật chất, ý thức, biện chứng, siêu hình, vận động, khách


14

thể, chủ thể để giải thích thế giới tự nhiên, con người vận động

theo một quy luật chung nhất. Hêraclit ngoài những vấn đề bản thể
luận, bên cạnh đó còn phân tích nhiều vấn đề về nhận thức luận.
Một mặt đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức
các sự vật đơn lẻ, cho rằng chúng đem lại cho ta những hiểu biết
xác thực và sinh động về sự vật. Hay RôgiêBêcơn đánh giá rất cao
vai trò của kinh nghiệm trong việc kiểm tra trân lý, xem kinh
nghiệm như là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Ngoài
ra ông còn chú ý đến nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt những
khoa học nào giúp con người xây dựng nhà cửa, thành phố, cầu
đường, làm ruộng, chăn nuôi. Đánh giá cao vai trò của vật lý học,
nhất là quang học vì nó giúp con người nhìn các sự vật, phân biệt
được chúng, nhờ đó mọi tri thức của chúng ta về giới tự nhiên
được hình thành.
Phranxin Bêcơn, nhà triết học Anh, ông cho rằng nhận thức
tốt nhất là phương pháp quy nạp - đi từ cái đơn nhất đến sự khái
quát, đến khái niệm. Phải so sánh đối chiếu các sự vật và các mặt
của một sự vật để rút ra những nhận xét, những kết luận mang tính
khái quát. Ông phê phán phương pháp triết học của các nhà tư
tưởng trung cổ chỉ biết ngồi rút ra sự thông thái của mình từ chính
bản thân mình, muốn thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và
những quy luật của nó bằng những luận điểm trừu tượng, bằng
việc rút ra kết quả riêng tư những kết luận chung chung. Ông phê
phán phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm chủ nghĩa và chính
những tư tưởng triết học của ông đã đặt nền móng cho sự phát


15

triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc ở thế kỷ XVIIXVIII ở Tây Âu.
2.3.4 Sự phát triển của các trường phái triết học

- Triết học phương Đông phát triển không liên tục: Lịch sử
triết học phương Đông ít có sự nhảy vọt về chất mang tính vạch
thời đại mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp và xen kẽ. Ở Ấn độ
cũng như Trung Quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ
nguyên tên gọi cho đến ngày nay. Sự vận động diễn ra theo vòng
tuần hoàn, điều hoà, nhấn mạnh sự hài hoà. Ví dụ: tiêu biểu cho
phép biện chứng này là thuyết âm dương ngũ hành: triết học âm
dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và
phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập
nhau: âm- dương. Hai thế lực âm- dương không tồn tại biệt lập mà
thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản
- Triết học phương Tây phát triển diễn ra liên tục: phủ định của
phủ định; phát triển đi lên, liên tục từ thấp đến cao, tính mâu thuẫn: triết
học thời kỳ Hy Lạp cổ đại là biện chứng sơ khai, mộc mạc, chất phác→
siêu hình→biện chứng. Ví dụ như triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại là biện
chứng sơ khai, mộc mạc, chất phác. Đến thế kỷ XVII, XVIII khi khoa
học, kỹ thuật phát triển có sự phân ngành thành các khoa học cụ thể,
nghiên cứu thực nghiệm, con người tiếp tục đạt được nhiều thành tựu
triết học, nhưng lại rơi vào duy vật siêu hình. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác
– Lênin ra đời đã khắc phục đượ lối tư duy siêu hình và thay vào đó là
phép biện chức duy vật khi nhìn nhận những sự vật, hiên tương của thế
giới con người một cách khách quan, khoa học
C. KẾT LUẬN


16

Khi nghiên cứu sự giống và khác nhau giữa triết học
phương Đông và triết học phương Tây có thể nhận thấy, tư
tưởng triết học phương Đông có kết cấu lỏng lẻo nhưng mềm

dẻo, và ngược lại tư tưởng triết học phương Tây thì chặt chẽ,
thống nhất thành hệ thống. Triết học phương Tây đi từ thế giới
quan, vũ trụ quan, bản thể luận… từ đó xây dựng nhân sinh quan
con người, trong khi triết học phương Đông đi từ từ nhân sinh
quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ, bản thể
luận… Đó là 2 nét chính của hai nền triết học phương Đông và
phương Tây.
Đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về
giải thích thế giới theo nhiều cách. Triết học phương Đông đi
sâu vào ổn định xã hội, giải thoát cho con người và làm sao cho
con người hoà đồng với thiên nhiên. Bên cạnh đó, nguồn gốc
của kết cấu xã hội: ở phương Đông quan điểm triết học cho
rằng: thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc đẩy sự phát
triển của hạ tầng cơ sở. Quan điểm tư tưởng triết học phương
Tây thì coi hạ tầng cơ sở quyết định đến thượng tầng kiến trúc.
Tóm lại, giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
có điểm chung đều giải thích thế giới tự nhiên, con người. Song sự
khác biệt ở chỗ: nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi
chủ yếu là các nhà khoa học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc
biệt là khoa học tự nhiên thì ở phương Đông, triết học gắn với những
nhà hiền triết , nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị - xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


17

1. Khái lược lịch sử triết học, T.S Bùi Thị Thanh Hương,
Nguyễn Văn Đại: Nxb Chính trị hành chính, 2011.
2. Lịch sử triết học. GS.TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên): Nxb
Chính Trị Quốc Gia, 2008.

3. Lịch sử triết học. GS Bùi Quang Quất. Nxb Giáo dục Hà
Nội, 1999



×