Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tư tưởng biện chứng trong triết học của heraclite

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.22 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Nền triết học Hy Lạp là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản
hợp xướng của triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng
của triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống của triết học phương Tây
sau này. Nền triết học Trung cổ là khoảng lặng của những phách nhạc thời gian trải
qua hàng ngàn năm. Rồi mới được thăng hoa lên những nốt thăng cung bậc là thời
kỳ phục hưng. Đây là giai đoạn quan trọng bừng dậy sau dấu lặng mà khoảng trắng
quá dài. Từ những âm ba của những nốt nhạc thăng trầm đó mà ta có cả nền triết
học cận và hiện đại như hiện nay. Trong bản nhạc giao hưởng đầy tính bác học của
triết học phương tây, mà khúc dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hoàng đó là những
trường phái triết học Hy Lạp cổ đại, nó bước ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu
sắc thần linh để gảy lên bằng chính đôi tay của những người phàm tục. Những đôi
tay vàng đó được phản ánh qua những triết gia dệt nên những trang bất hủ bởi thời
gian, một trong số đó không thể không nhắc tới tên tuổi của Heraclite. Mà nhắc tới
ông, người ta thường nhớ đến một nhà triết học với tư tưởng biện chứng độc đáo
nhưng vô cùng sâu sắc.
Heraclite sinh khoảng năm 540 TCN tại thành phố Ephes nằm ở trung tâm
vùng Ionia – một trung tâm kinh tế, văn hóa nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại lúc bấy
giờ. Ông xuất thân từ dòng dõi quý tộc chủ nô Crodrit, trong đó tổ tiên của ông là
những nhà cầm quyền và tư tế tối cao ở Ephes –thành phố nổi tiếng nhờ một trong
bảy kỳ quan của thế giới – Đền thờ Arthemida bị Heostratius đốt và sau đó được
khôi phục. Song Heraclite không kế thừa cuộc đời và địa vị mà số phận dành cho
ông. Ông đã khước từ quyền lực và địa vị sang trọng mà dành nó cho người em,
còn bản thân ông dành toàn bộ cuộc đời của nình cho công việc nghiên cứu vũ trụ.
Toàn bộ nhân cách của nhà triết học này được phản ánh trong quyết định này của
ông. Ông cố ý bác bỏ các con đường mà thế giới đi theo, không chấp nhận cả cuộc
1


sống con người, cả tư duy dưới diện mạo quen thuộc, vững chắc của nó. Chính vì
những tư tưởng và hành động khác người này mà ông có hai biệt danh là: “Khó


hiểu” và “Lè nhè”. Trong đó, biệt danh thứ nhất có nguồn gốc do những tác phẩm
triết học quá khó hiểu của ông, thậm chí tên gọi của nó cũng không rõ ràng.
Heraclite có thể là nhà tư tưởng mãnh liệt nhất thời cổ đại do vạch trần thói
hư tật xấu. Ông không ngần ngại nói ra nhiều thứ từ trái tim cháy bỏng của mình
với những lời lẽ thật gay gắt và bộc tệch. Nó vạch trần và kết tội, không chấp nhận
sự yếu đuối ở nơi con người, không cam chịu quyền lực của thói quen và tập quán.
Có thể coi các đòi hỏi của Heraclite đối với con người là thái quá, có thể hoài nghi
lẽ phải của ông trong việc đưa ra những phán xét quá gay gắt, song không thể
không thấy được tính chân thực của chúng. Tư duy của Heraclite được thúc đẩy
không phải bởi sự căm thù con người, mà chỉ bởi nỗi đau buồn của trái tim không
phải bao giờ cũng có đủ sức lực để kìm nén.
Heraclite tự nói về bản thân mình rằng: ông không học ai một điều gì, tất cả
đều do ông tự khám phá ra và ông là một nhà tư tưởng cô độc. Tư tưởng của ông
không những xuất hiện bên ngoài một truyền thống tư tưởng nhất định mà sau đó
còn đứng biệt lập, ông không tạo ra trường phái triết học riêng của mình. Ông đã
và vẫn là một nhà tư tưởng cô độc. Sự cô độc này hoàn toàn được quy định bởi sự
độc đáo sâu sắc tới mức không ai có thể kế tục. Heraclite tạo ra một tư tưởng rất
độc đáo mà không thể biến thành một hệ thống, thành một học thuyết cân đối, có
logic và phổ biến. Những tư tưởng này làm cho mọi người lo lắng nhưng lại bị
cuốn hút vo tận, nó thể hiện tinh thần sống động của triết lý, hoàn trả cho trí tuệ sự
quan tâm sống động đến tồn tại, đến con người và số phận con người, kích thích sở
thích tư duy. Do vậy việc đi sâu vào khám phá tư tưởng của nhà triết học này sẽ
mang lại cho chúng ta nhiều bất ngờ thú vị.

2


Heraclite viết nhiều, phát biểu nhiều nhưng cho tới nay người ta vẫn không
tìm thấy một tác phẩm nguyên vẹn nào của ông mà chỉ sưu tầm, ghi chép được khá
nhiều đoạn trích (khoảng 130 đoạn). Đây là những đoạn ông viết về triết học tự

nhiên và những quan niệm biện chứng được cho là khó hiểu nhưng lại có nhiều giá
trị sâu sắc. Để thấy rõ điều đó, tôi đã chọn đề tài “tư tưởng biện chứng trong triết
học của Heraclite” để làm rõ hơn sự đóng góp to lớn của những tư tưởng đó trong
lịch sử tư tưởng biện chúng nói riêng và lịch sử triết học nói chung.
1. Tư tưởng về tính thống nhất vật chất của vũ trụ, về sự vận động, biến đổi
vĩnh viễn của thế giới.
Khi phát triển các yếu tố của phép biện chứng, bản thân các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại về mặt chủ quan đã không ý thức được nó, không gọi những tư tưởng
đó là biện chứng. Do vậy, đã không tự giác xây dựng nó thành hệ thống, mà nhiệm
vụ đó lại giao cho những hậu thế sau khi nghiên cứu về những tư tưởng của họ. Vì
thế mà Ph.Ăngnghen đã, sử dụng thuật ngữ “phép biện chứng tự phát” để chỉ cho
phép biện chứng của giai đoạn này. Tri giác mang tính chất chỉnh thể về thế giới,
trong đó bao hàm cả bản thân chủ thể của sự tri giác đó, về thực chất là biểu hiện
đầu tiên của quan điểm biện chứng tự phát về thế giới và điều đó được thể hiện rõ
ngay ở những nhà triết học đầu tiên của xứ Ionia, trong đó có Heralite.
 Tư tưởng về sự thống nhất thế giới ở cái đơn nhất
Trước Heraclite, Thales, Anaximandr và Anaximen cũng đã đưa ra tư tưởng
về sự thống nhất thế giới ở cái đơn nhất như với Thales đó là nước, Anaximandr là
Apeiros, còn Anaximen là không khí. Đến Heraclite đó là lửa.

3


Cũng như các nhà triết học của trường phái Mile, hình ảnh lửa của Heraclite
không phải là ngọn lửa của tự nhiên mà là một ẩn dụ triết học.
Khi coi lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên tố vật chất đầu tiên của mọi
dạng vật chất. Theo Heraclite, toàn bộ vũ trụ chẳng qua chỉ là sản phẩm biến đổi
của Lửa, “hết thảy mọi sự vật đều chuyển hóa thành lửa, lửa cũng chuyển hóa
thành hết thảy sự vật”. Heraclite đã đi đến quan niệm về tính thống nhất của vũ
trụ. Ông cho rằng, vũ trụ - cái thế giới mà con người đang sống trong đó – thống

nhất ở một cái duy nhất là ngọn lửa vĩnh hằng, bất diệt. Ông viết như sau: “Thế
giới là một chỉnh thể bao gồm vạn vật. Thế giới ấy không do bất cứ vị thần nào
sáng tạo ra, cũng không do bất cứ người nào sáng tạo ra. Thế giới là một ngọn lửa
sống bất diệt trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai. Ngọn lửa ấy cháy
sáng trong khoảnh khắc nhất định và cũng lụi tàn đi trong một khoảnh khắc nhất
định theo quy luật của nó. Với quan niệm như vậy về Lửa, Heraclite cho rằng từ
Lửa và dưới tác động của Lửa mà vật chất chuyển hóa thành các thể hơi, thể lỏng,
thể rắn và các dạng vật chất ấy lại chuyển hóa theo con đường ngược lại, quay trở
về với lửa. Heraclite viết như sau: “Tất cả được trao đổi với lửa và lửa trao đổi với
tất cả cũng như hàng hóa trao đổi với vàng và vàng trao đổi với hàng hóa”. Theo
ông tùy theo độ lửa (nhiệt độ) mà vật chất có thể chuyển hóa từ trạng thái này
sang trạng thái khác theo hai cấp độ hay theo hai con đường: con đường thượng
(hay con đường đi lên) và con đường hạ (hay con đường đi xuống). Ông cho rằng
Lửa chẳng những là nguyên nhân sinh ra mọi vật mà cong là nguồn gốc của mọi
sự vận động. Ông cho rằng: “Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ
cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí” và ngược lại.
Dựa vào việc nghiên cứu tự nhiên bằng quan sát trực tiếp và căn cứ vào
những kinh nghiệm cảm tính, Heraclite đã khái quát thành một kết luận nổi tiếng
về vật chất vận động: “mọi vật đều trôi đi, chảy đi, không có cái gì đứng nguyên
4


tại chỗ”; “Tất cả mọi vật đều vận động, không có cái gì tồn tại mà lại cố định”, và
rằng “Không ai có thể đi xuống cùng một dòng sông hai lần, vì nước mới không
ngừng chảy trên sông”, ngay cả “mặt trời cũng mỗi ngày một mới”. Với quan
niệm về vận động này, nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã coi Heraclite là nhà
triết học vận động và học thuyết của ông là “học thuyết về dòng chảy”.
Nếu như các nhà triết học thuộc trường phái Milê chú ý nhiều về kết cấu vật
chất thì Heraclite lại chú ý nhiều về vấn đề vận động. Hình ảnh ngọn lửa cũng là
hình ảnh sống động. Tuy nhiên quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất

hay học thuyết về dòng chảy chỉ là nguyên lý xuất phát trong quan niệm của
Heraclite về vũ trụ, là học thuyết xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của ông
chứ không phải là cái làm nên nét độc đáo, sự khác biệt rõ ràng giữa Heraclite với
các nhà triết học trước hoặc cùng thời với ông, thậm chí với cả những nhà triết
học sau ông.
Heraclite nhận thấy vận động ở mọi nơi, mọi lúc, ông cũng không tìm thấy nguồn
gốc của vận động ở bên ngoài sự vật, mà ở ngay chính bản thân nó, coi mâu thuẫn
là cái tạo ra vận động. Heraclite khẳng định: “Ở vào mọi thời điểm, vạn vật đều
hội tụ trong nó tất cả những mâu thuẫn”. Từ quan niệm về vận động và mâu thuẫn,
Heraclite nhận thức theo một cách mới so với đương thời về tồn tại và thuộc tính
của nó. Tồn tại luôn vận động nên tồn tại và phi tồn tại là một thể thống nhất.
Cũng vậy, thời gian với tư cách là thuộc tính của vật chất, vận động cũng là một
thể thống nhất. Heraclite nói rằng: “Chúng ta vừa bước xuống vừa không bước
xuống cùng một dòng sông. Chúng ta vừ tồn tại vừa không tồn tại”. Ăngghen đã
đánh giá quan niệm về vận động của Heraclite như sau: “Cái thế giới quan ban
đầu, ngay thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại, và lần đầu tiên đã được Heraclite trình bày một cáchrõ
ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi,
5


mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu
vong”.
Như vậy có thể tóm lại quan niệm về vật chất và vận động của Heraclite
trong một số nhận định như sau:
• Vận động là vĩnh viễn, phổ biến
• Mâu thuẫn là động lực của vận động
• Thế giới vận động trong trạng thái vừa tồn tại, vừa không tồn tại.
2. Tư tưởng về sự hài hòa và đấu tranh của các mặt đối lập trong thế giới vật
chất

 Tư tưởng về sự hài hòa của các mặt đối lập
Vấn đề về các mặt đối lập đã được nêu ra từ các nhà triết học Milê đầu tiên
như Thales, Anaximandr, Anaximen. Họ dù không ý thức và một cách hết sức thơ
ngây đã đưa ra tư tưởng về sự phân đôi của sự thông nhất thành các mặt đối lập với
tư cách là nguyên tắc chủ động về sự xuất hiện và diệt vong trong tự nhiên. Những
suy luận của các nhà triết học Milê được phát triển sâu sắc trong triết học
Heraclite. Và có thể nói, cái làm nên nét độc đáo, sự khác biệt rõ ràng nhất giữa
Heraclite và các nhà triết học trước ông, thậm chí với cả những nhà triết học sau
ông là quan niệm hết sức độc đáo của ông về sự hài hòa, thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập trong vũ trụ và tính thống nhất của Vũ trụ ấy – quan niệm được
coi là phỏng đoán thiên tài của ông về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập.
Khẳng định tính thống nhất của thế giới, của vũ trụ ở ngọn lửa sống duy
nhất, vĩnh hằng, Heraclite cho rằng thế giới hiện thực hay vũ trụ đang tồn tại ấy là
cái duy nhất đồng thời là cái bội đa. Quan niệm này đã đưa Heraclite đến một trình
độ khái quát triết học cao hơn, trừu tượng hơn về sự thống nhất của các đối lập
trong vũ trụ. Ông cho rằng mọi cái đồng nhất đều luôn tồn tại trong sự khác biệt và
6


đó là cái hài hòa của những cái căng thẳng đối lập, cũng như sức căng của dây
cung, dây đàn, rằng “thiện và ác chỉ là một”, “sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già
trước sau cũng đều là một”. Coi đó là sự “tương phản”, “tương thành” của sự vật
trong vũ trụ, Heraclite khẳng định: “Đối lập tạo ra sự hài hòa, giống như dây cung
và chiếc đàn sáu dây”. Hết thảy mọi sự vật trong vũ trụ đều tồn tại trong thể thống
nhất của cái phân chia được – cái không phân chia được, cái toàn bộ - cái bộ phận,
cái đồng nhất – cái không phân chia được, cái được sinh ra – cái không được sinh
ra, cái chết – cái không chết, … giống như “cây cung tên gọi của nó là sống, nhưng
tác dụng của nó là chết”. Trong vũ trụ này, hết thảy “những vật xung khắc lẫn nhau
hợp thành một. Những âm điệu khác nhau hợp lại thành một hòa âm đẹp đẽ nhất”.

Để hiểu được quan niệm của Herclite về sự hài hòa cũng như quan niệm về
sự đấu tranh của các mặt đối lập phải đặt chúng trong quan hệ với quan niệm về
logos của ông. Khi lý giải quan niệm về logos của ông, trong lịch sử triết học đã có
cách giải thích khác nhau, nhưng nói chung hầu hết các nhà triết học hiện đại đều
cho rằng trong quan niệm của Heraclite Logos là tính tất yếu, là quy luật, là cái
vĩnh hằng, cái chung, cái phổ biến của thế giới, là sự anh minh của trí tuệ, là cái
vốn có ở con người.
Trong quan niệm của Heraclite, Logos có nghĩa là sự thống nhất của mọi cái
hiện hữu. Sự thống nhất ở đây có nghĩa là sự đồng nhất trong đa dạng, là sự hài
hòa của những mặt đối lập, bất đồng với nhau. Tư tưởng đó được ông dẫn ra với
toàn bộ tính kiên định và nhất quán vốn có ở ông.
Heraclite phê phán gay gắt các bậc tiền bối vì họ không hiểu sự thống nhất
(sự trùng hợp, đồng nhất) của các mặt đối lập. Ông cho rằng: “Sự uyên bác không
dạy cho Hexiôt và Pitago, Xenophan và Hêcatê sự sáng suốt Hexiôt, người được

7


mệnh danh “thầy giáo của đa số” đã bị ông quở trách vì không những không hiểu
ngày và đêm, mà còn gọi chúng là cái thống nhất”.
Theo Hercalite, ngày và đêm, thiện và ác,… không phải là một, điều đó thì
ai cũng biết. Song còn điều ngày và đêm, thiện và ác, cũng như mọi sự đối lập tạo
thành một chỉnh thể thống nhất thì điều ít ai biết. Đương nhiên, dể hiểu được rằng
các sự đối lập kiểu như ngày và đêm, mùa hè và mùa đông, chiến tranh – hòa bình,
… là nối tiếp nhau, tạo ra tính chu kỳ và có sự lặp lại nhất định. Nhưng người ta,
kể cả những người uyên bác lại không hiểu được rằng tính chu kỳ, tính lặp lại đó
được quy định bởi sự thống nhất, sự hòa hợp, sự hài hòa giữa các mặt đối lập tức
bởi logos phổ biến.
Các hình ảnh cái cung và cái thiên cầm ở Heraclite là tượng trưng cho trạng
thái phổ biến của các sự vật và bản thân vũ trụ. Với tư cách là sự thống nhất của

các mặt đối lập trực diện, là sự hòa hợp và hợp nhau của chúng, sự hài hòa trong
học thuyết của Heraclite đã mang tính phổ biến. Ông luôn nhấn mạnh sự hài hòa và
hòa hợp phổ biến của các mặt đối lập trực diện. Với quan niệm này, ông cho rằng:
“thiện và ác cùng một cái duy nhất”, “đường đi lên và đi xuống cũng là một”,
“sống và chết là một ở ta”. Ông cũng nói như vậy về đường thẳng và đường cong,
về cái không phải chính thể, cái chung và cái riêng,…
Ở Heraclite sự đối lập là trùng hợp tức là đồng nhất. Ông giải thích tư tưởng
đó qua thí dụ về đường tròn mà ở bất kì điểm nào trên đường tròn đó thì “điểm đầu
và điểm cuối đều trùng hợp”. Tuy nhiên đây không phải là sự trùng hợp tuyệt đối,
mà khi nói tới sự trùng hợp (đồng nhất) của các mặt đối lập, Heraclite chỉ muốn
nói rằng: các mặt đối lập giả định lẫn nhau và không thể có được nếu thiếu nhau.
Chẳng hạn, con người không thể cảm thấy sức khỏe là quý nếu không biết mặt đối
lập của nó là bệnh tật: “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái
8


thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi
thú vị hơn”. Cũng có thể nói như vậy về các thuộc tính và các chất lượng của vật,
chúng chỉ có thể vạch ra và được nhận thức không bằng cách nào khác ngoài thông
qua các mặt đối lập của chúng.
Nếu Pitago và các môn đệ của ông chỉ hạn chế số các mặt đối lập trực diện ở
mười cặp, thì Heraclite cho rằng: không cần phải xác định số lượng cụ thể của các
cặp đối lập và ông nhận thấy sự đồng nhất giữa các mặt đối lập không nhưng giữa
các sự vật khác nhau, giữa các sự vật và hiện tượng, trạng thái khác nhau (ngày –
đêm, sống – chết,…) mà còn ở ngay trong một sự vật. Chẳng hạn như theo
Heraclite, nước biển vừa sạch, vừa bẩn: “Đối với cá nước biển có thể uống được,
đối với người, nước biển lại không thể dùng để uống được” hay “sống và chết,
thức và ngủ, trẻ và già, trước – sau cũng đều là một”. Khi vạch ra sự đồng nhất
(trùng hợp) giữa các mặt đối lập trong các thí dụ đó, Heraclite đồng thời cũng làm
sáng tỏ tính chất tương đối của sự đồng nhất đó.

Theo Heraclite, các thuộc tính của sự vật trực tiếp đối lập với nhau là tùy
thuộc và việc chúng có quan hệ với chất nào hay vật nào. Nói cách khác, bản chất
của sự vật và hiện tượng, các thuộc tính và chất lượng đa dạng của chúng được
vạch ra không phải tự chúng, mà được xác định trong mối liên hệ và quan hệ qua
lại giữa các sự vật, hiện tượng. Heraclite nói: “Con vượn đẹp nhất nhưng xấu xí so
với loài người”, “Con người sáng suốt nhất nhưng chỉ là con vượn so với Thượng
đế xét về sự anh minh, về sắc đẹp và về mọi thứ khác”.
Tư tưởng về sự đồng nhất tương đối giữa các mặt đối lập và tính tương đối
của các thuộc tính của sự vật của Heraclite đã ảnh hưởng tới các nhà triết học khác
như phái Ngụy biện đã rút ra kết luận về tính chất ước lệ (chủ quan) trong những
mặt đối lập của các phán đoán, còn Platon và Aristotes thì khẳng định Heraclite
9


phải chịu trách nhiệm về chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa hư vô của phái Ngụy
biện.
Theo Heraclite, cả mức độ xác thực trong những suy đoán của con người lẫn
tính chân thực và tính công bằng của nó đều được xác định bởi mức độ liên quan
của nó với Dike với tư cách là chuẩn mực cao nhất của sự thực (chân lý và công
bằng). hay với toàn bộ tính tương đối của sự vật và công việc tốt đẹp, cũng như các
quan niệm của con người về chúng, thì sự vượt trội của nó đối với sự hài hòa “hữu
hạn” – sự hài hòa của những hiện tượng đơn nhất.
Sự thống nhất (đồng nhất), biến đổi của các mặt đối lập còn thể hiện ở chỗ,
mỗi sự vật, hiện tượng trong quá trình biến đổi đểu phải trải qua những trạng thái
đối lập, đều chuyển thành các mặt đối lập của mình. Chẳng hạn, sống trở thành
chết, thức trở thành ngủ, trẻ thành già, và ngược lại. Ông viết: “Cái lạnh nóng lên,
cái nóng lạnh đi, cái ướt khô đi, cái khô ướt lại”, “tất cả là sự trao đổi của các mặt
đối lập”, “Cùng một cái trong chúng ta – cái sống và cái chết, cái thức và cái ngủm
trẻ và già – cái này mà biến đổi thì thành cái kia, và ngược lại, cái kia mà biến đổi
thành cái này”.

Tuy nhiên, theo Heraclite sự hài hòa của các sự vật là tương đối và nhất thời
và do vậy tính xác định, tính ổn định và tính bền vững của các sự vật cũng là tương
đối và nhất thời, vì sự hài hòa sớm hay muộn cũng bị phá hủy bởi cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập.
Như vậy có thể nói khi đưa ra quan niệm về các mặt đối lập trong sự vật,
Heraclite đã nói đến “sự phân đôi của cái thống nhất” mà việc nhận thức các bộ
phận mâu thuẫn của nó – cái làm nên thực chất, bản chất, đặc trưng, đặc điểm cơ
bản nhất trong tư tưởng biện chứng của ông – đã khiến cho nhà triết học Aristotle
như nhận xét của Lênin luôn phải “nát óc” và đấu tranh để chống lại.
10


 Tư tưởng về sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Có thể nói, tư tưởng về sự đấu tranh của các mặt đối lập tỏng triết học Hy
Lạp được Heraclite phát triển lên đến đỉnh cao. Cái làm nên nét độc đáo, sự khác
biệt ró ràng nhất giữa Heraclite với các nhà triết học trước ông và cùng thời với
ông, thậm chí cả với các nhà triết học sau ông chính là quan niệm về sự hài hòa và
đấu tranh của các mặt đối lập – quan niệm được coi như một sự phỏng đoán thiên
tài của Heralite về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Khẳng định thế giới hay vũ trụ vừa là cái duy nhất vừa là cái bội đa và trong
nó các mặt đối lập vừa có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, vừa có sự trao đổi,
chuyển hóa lẫn nhau. Heraclite cho rằng chính với tư cách ấy mà thế giới hiện
thực, vũ trụ này luôn tồn tại với sự hòa hảo và sự hài hòa vốn có của nó. Sự hoàn
hảo, tính hài hòa này của vũ trụ , theo quan niệm của Heraclite là sự thống nhất
nội tại, là sự hòa hợp, sự cân bằng của các mặt đối lập cấu thành chính thể (sự vật,
hiện tượng, thế giới – vũ trụ). Chính sự hoàn hảo và hài hòa ấy đã đem lại cho mọi
sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ tính xác định, tính vững chắc và tính ổn định. Nhờ
có sự hoàn hảo, hài hào vốn có ấy mà mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ mới là
nó, mới tồn tại. Nhưng sự hoàn hảo, hài hòa ấy, theo Heraclite chỉ là tương đối.
Trong vũ trụ này không có gì là bất biến, là tuyệt đối, vĩnh viễn, ngoại trừ sự vận

động. Mọi sự hoàn hảo, hài hòa của Vũ trụ đều có thể bị phá vỡ bởi cuộc đấu
tranh của các mặt đối lập vốn có của nó. Nhờ sự đấu tranh, trao đổi và chuyển hóa
của các mặt đối lập mà mọi sự vật, hiện tượng và cả Vũ trụ có thể chuyển hóa từ
trạng thái này sang trạng thái khác, vận động và biến đổi.
Đấu tranh của các mặt đối lập đó là nguồn gốc của vận động, biến đổi, là cái
tạo nên “dòng chảy” liên tục của Vũ trụ. Đấu tranh là cái nội tại, vốn có ở sự hoàn
hảo, hài hòa, bởi sự hoàn hảo, hài hòa không phải được tạo thành từ một cái gì đó
11


ở bên ngoài , mang tính huyền bí, mà từ các phương diện khác nhau và đối lập
nhau của chính nó. Ông viết: “Sự hài hòa được tạo ra bởi cái chỉnh thể và cái
chưa chỉnh thể (cái bộ phận), cái phù hợp với nhau và cái không phù hợp với
nhau, cái tích tụ và cái phân tán, cái hòa điệu và cái không hòa điệu, và từ cái
chỉnh thể (đối lập) sinh ra cái chỉnh thể”.
Heraclite còn nhấn mạnh rằng, việc làm rõ sự khác biệt giữa các mặt đối lập
là chỉ ra sự thống nhất của chúng, còn việc làm rõ sự thống nhất của các mặt đối
lập thì lại để chỉ sự khác biệt giữa chúng. Qua đó Heraclite muốn nói rằng: con
người không nên phán đoán về các sự vật thông qua cái vẻ bề ngoài mà dường
như hài hòa, hoàn hảo ấy của chúng, “không nên kết luận quá sớm về một việc
nào đó khi chưa nhận thức được các mặt đối lập của nó đấu tranh với nhau như thế
nào để tạo nên sự hài hòa và trong sự hài hòa ấy chúng lại đấu tranh với nhau thư
thế nào để tạo nên sự hài hòa mới. Bởi người ta thường nhận thấy các mặt đối lập
của sự vật tách rời nhau và cho rằng chúng có thể tồn tại một cách tách biệt,
không phụ thuộc vào nhau. Song trên thực tế các mặt đối lập ấy lại tồn tại trong
một thể thống nhất, chúng thiết định lẫn nhau, quy định lẫn nhau, tạo thành sự hài
hòa, một chỉnh thể hào hợp, hoàn hảo. Đối lập là bản chất của hài hòa. Theo
Heraclite, không có các mặt đối lập thì mọi sự hài hòa trong nghệ thuật, trong
cuộc sống và cả trong Vũ trụ này đều không có, bởi thiếu chúng thì không có gì để
hòa hợp, không có các mặt đối lập thì mọi sự đấu tranh đều không có, vì không có

chúng thì sẽ không có gì để đấu tranh. Hài hòa và đấu tranh là mặt của một chính
thể thống nhất. Vũ trụ này là một chính thể thống nhất bởi ngọn lửa sống vĩnh
hằng không ngừng bùng cháy và tàn lụi đi theo logos của nó – Logos Vũ trụ.
Mọi chỉnh thể thống nhất (sự vật, hiện tượng, thế giới – Vũ trụ) theo
Heraclite luôn vận động và biến đổi, luôn là một “dòng chảy” liên tục, nó vừa
đồng nhất, vừa không đồng nhất với chính mình, nó tự khác biệt với chính mình
12


một cách nội tại, vốn có khi được hình thành và ngày một tăng lên, những sự
khác biệt ấy ngày càng làm suy yếu sự hài hòa, tính hòa hợp, tính chỉnh thể nội tại
của sự vật. Đó là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Các mặt đối lập khi ngày
càng mất đi sự phù hợp với nhau thì chúng càng hợp với nhau cho một cuộc đấu
tranh và sự đấu tranh giữa chúng càng mang tính chất căng thẳng. Khi có được sự
thắng lợi của một mặt đối lập, cuộc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ tạo ra một sự
vật mới, chỉnh thể hòa hợp mới, chỉnh thể này lại tuân theo quy luật của “dòng
chảy” vĩnh hằng, biến đổi phổ biến để đến lượt mình nó lại sinh ra trong bản thân
nó những sự khác biệt mới, những mặt đối lập mới và theo đó một cuộc đấu tranh
mới giữa các mặt đối lập lại xuất hiện. Khẳng định điều này qua sự biến đổi của
lửa, Heraclite cho rằng: “Sự chuyển hóa của lửa là đầu tiên thành biển, một nửa
biển thành đất, nửa còn lại thành gió xoáy,… Đất lại hóa thành biển và tuân theo
Logos mà trước kia, biển hóa thành đất đã tuân theo”.
Khẳng định đấu tranh giữa các mặt đối lập là vĩnh hằng, Heraclite còn cho
rằng: đấu tranh là nguồn gốc của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là mặt
trời trong sự sống của mọi cái đang diễn ra. Mặt khác, trong sự sống ấy là tính hòa
hợp, tính có trật tự, tính hài hòa. Một chỉnh thể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với
mặt đối lập của nó là cái thiện, cái chết với mặt đối lập của nó là cái sống, và
ngược lại. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ mặt đối lập nào chiếm ưu thế trong một thời
điểm cụ thể. Đó cũng là cái tất yếu trong sự sống của mọi cái đang tồn tại. Trong
Vũ trụ không những luôn tồn tại những lực lượng phủ định, lực lượng tạo ra

những sự khác biệt và các mặt đối lập đấu tranh với nhau, mà còn luôn tồn tại một
lực lượng khẳng định, lực lượng kiến tạo cái chỉnh thể hài hòa thống nhất từ chính
những cái khác biệt và đối lập ấy. Những sự khác biệt, đối lập hợp nhất với nhau
để từ những cái khác biệt độc lập ấy xuất hiện một sự hài hòa, giống như các âm
điệu khác nhau hợp thành một hòa âm.
13


Vốn là linh hồn của sự phủ định sự vật cũ, đấu tranh, theo Heraclite cũng
đồng thời là một yếu tố tích cực trong vũ trụ. Nó thể hiện phương diện năng động
của tồn tại, là kết quả tất yếu của nhu cầu và sự không thỏa mãn vĩnh hằng, là
nguồn gốc của mọi sự biến đổi, đổi mới, nguồn gốc của dòng chảy liên tục của Vũ
trụ. Sự hài hòa đó là kết quả của đấu tranh, đó cũng là linh hồn của Vũ trụ. Và với
tư cách đó sự hài hòa là cái tuyệt vời của Vũ trụ, cái làm nên sự hoàn hảo, sự vĩnh
hằng của Vũ trụ. Song sự hài hòa ấy cũng luôn chứa đựng trong nó một yếu tố tiêu
cực là xu hướng ngừng trệ và đứng im – đặc trưng của những cái “đang chết” của
vũ trụ. Cái đang chết ấy, theo Heraclite cũng là cái vốn có trong vũ trụ, song
không có gì phải lo ngại cái đang chết đó, bởi vì trong nó luôn có sự đấu tranh để
xoa dịu và ngăn chặn không cho phép nó “chết” và chính xác hơn là khi “đang
chết” nó lại trở về mới mẻ giống như mặt trời mỗi ngày đều mới mẻ để qua đó
duy trì sự tồn tại của cả nó lẫn Vũ trụ.
Không đồng ý với quan niệm của nhà thơ mù Hơme về sự không tồn tại đấu
tranh trong lĩnh vực của Thượng đế và con người – quan niệm giữ địa vị của một
tư tưởng thống trị ở các nhà tư tưởng thế kỷ XII đến thế kỷ XI TCN, Heraclite cho
rẳng đấu trnah giữa các mặt đối lập là hiện tượng phổ biến trong vũ trụ, không có
đấu tranh thì sẽ không có bất cứ sự hài hóa nào và ngược lại khi đấu tranh không
còn thì mọi cái cũng biến mất. Phản đối chủ trương của Pitago và các môn đệ của
ông chủ trương loại trừ đấu tranh khỏi sự hài hòa và xác lập một sự hài hòa vĩnh
hằng, sự hài hòa không có sự biến đổi trong Vũ trụ, một sự hài hòa chết và bất
động trong tự nhiên và cả trong cuộc sống, Heraclite tuyên bố: “Nên nhớ rằng,

chiến tranh (ở ông chiến tranh đồng thời là đấu tranh) là phổ biến”, “chiến tranh là
cha của vạn vật, cũng là vua của vạn vật”.
Điều đó cho thấy, trong quan niệm của Heraclite, đấu tranh giữa các mặt đối
lập là tất yếu, là quy luật tất yếu của vũ trụ, là logos của vũ trụ. Với ông, đấu tranh
14


của các mặt đối lập là cái mang tính phổ biến, là nguồn gốc ra đời của mọi sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ. Với ông, đấu tranh của các mặt đối lập không phải là cái
được đem vào cuộc sống và Vũ trụ từ đâu đó bên ngoài mà là cái vốn có trong
cuộc sống, trong vũ trụ.
Khi nói tới chiến tranh hay đấu tranh với tư cách là nguồn gốc của mọi sự
vận động và biến đổi, Heraclite cũng đã nói tới chiến tranh chính nghĩa. Theo ông,
cái chết vì chiến tranh chính nghĩa là cái chết đáng được tôn vinh.

15


KẾT LUẬN
Có thể nói, với những tư tưởng biện chứng sâu sắc của mình, Heraclite đã
đưa triết học cổ đại, nhất là triết học duy vật cổ đại Hy Lạp tiến lên một bước mới.
Phép biện chứng được coi là cái đáng quý nhất trong di sản triết học của ông, mạc
dù đó chỉ là phép biện chứng tự phát, ngây thơ. Các nhà triết học tiền bối của chủ
nghĩa Mác sau này đều đã đánh giá cao những đóng góp về tư tưởng biện chứng
mà Heraclite đã để lại cho lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, thậm chí họ còn coi
ông là ông tổ của phép biện chứng và bảo vệ những tư tưởng của ông trước sự tấn
công của bọn phản động nhằm xuyên tạc nó. Tất cả những điều đó một lần khẳng
định đại vị của triết học Heraclite nói chung và tư tưởng biện chứng của ông nói
riêng.


16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. T.S Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn Văn Đại, Khái lược lịch sử triết học,
Nxb Chính trị hành chính, 2011.
2. GS.TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), Lịch sử triết học, Nxb Chính Trị Quốc
Gia, 2008.

17



×