Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của văn hóa gốc du mục đến hoạt động quản trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.2 KB, 41 trang )

Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Trường Đại học Lạc Hồng nói chung và môn Quản
Trị Học nói riêng chúng em đã tiếp nhận được nhiều kiến thức, mở rộng thêm sự
hiểu biết về lĩnh vực này. Đề tài “Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của văn hóa
gốc du mục đến hoạt động quản trị” được nhóm em lựa chọn làm đề tài tiểu luận hết
môn học.
Nhân đây em xin bày tỏ lòng cảm ơn đến cô PGS.TS Nguyễn Thị Liên Diệp là
người hướng dẫn và giúp nhóm chúng em thực hiện bài tiểu luận này.
Chắc chắn trong khoản thời gian hạn hẹp và phạm vi kiến thức còn nhỏ bé sẽ
không tránh khỏi sai sót, mong nhận được sự đóng góp chân thành của cô và các
bạn để nhóm hoàn thiện hơn đề tài của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !

Sinh viên thực hiện: Nhóm 1
Khoa: Sau đại học
Lớp: Quản trị khóa 06

Trang 1


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Trang 2


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị


MỤC LỤC

Trang 3


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi
người ta đã học tất cả. (Edouard Herirot) Thật vậy, văn hóa liên kết với sự tiến
hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh (Homo
sapiens). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm
bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho
chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng
mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn
hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản
năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình
thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn
hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có
chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành
viên.
Nhận thức được ý nghĩa và vai trò của văn hóa nói chung và văn hóa du mục
nói riêng tác động đến hoạt động quản trị tại doanh nghiệp và theo sự phân công của
Giảng viên nhóm chúng tôi đã thực hiện bài tiểu luận với đề tài: “ Văn hóa gốc du
mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị".
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, cho phép chúng em được thu hẹp
trong phạm vi văn hóa du mục ảnh hưởng đến hoạt động quản trị mà không mở
rộng hơn.
*Mục tiêu nghiên cứu:
- Tìm hiểu về loại hình văn hóa du mục.

- Phân tích, đánh giá ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến các chức
năng của quản trị về hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra.
- Nhận xét, đánh giá các ưu điểm và hạn chế của văn hóa du mục, đưa ra các
kiến nghị, giải pháp.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp, kiểm tra, so sánh.

Trang 4


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

1. Tổng quan về văn hóa
1.1. Định nghĩa văn hóa
Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn)…
Theo chúng tôi, văn hóa là sản phẩm của con người; là hệ quả của sự tiến
hóa nhân loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật
và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để hiểu
về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những
định nghĩa khác nhau về Văn hóa
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994
Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về

tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng
gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm
nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; còn hiểu theo nghĩa hẹp
thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử
và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”.

1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa:
1.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội
Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những
mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện
các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ có tính hệ thống
mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực
hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn
định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi

Trang 5


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội - có lẽ chính vì vậy
mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hoá (nền
văn hóa).

1.2.2. Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xà hội
Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính giá trị
cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước đo mức độ
nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia
thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ

cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo
đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị
nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện
chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật,hiện tượng; tránh
được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.Vì vậy
mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc
nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm
trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ "giá trị" và
“phi giá trị" của nó. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay
không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào
Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà
Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. Nhờ thường xuyên
xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức
năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động,
không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp
định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.

1.2.3. Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do con
người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang
tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh thần (như việc đặt tên,
truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên...). Như vậy, văn hóa học không đồng
nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất

Trang 6


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị


nước - con người. Đối tượng của nó bao gồm cả các giá trị tự nhiên, và không nhất
thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đất
nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn
văn hóa học.
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với
con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau.
Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.

1.2.4. Tính lịch sử và chức năng giáo dục
Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích
luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát
triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó
buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá
trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là
những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo
trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những
khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ,
luật pháp, dư luận...Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục
là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng
giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà hệ thống chuẩn
mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong
việc hình thành nhân cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức
năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di
truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.

1.3. Các cấu trúc của hệ thống văn hóa
1.3.1. Văn hóa nhận thức
Mỗi nền văn hóa là tài sản của cộng đồng người (chủ thể văn hóa) nhất định. Trong
quá trình tồn tại và phát triển, chủ thể văn hóa đó đã tích lũy được một kho tàng
nhất định và tri thức phong phú về vũ trụ và về con người, đó là hai vi hệ của tiểu

hệ văn hóa nhận thức. Có những nhận thức có nguồn gốc cổ xưa (thuộc lớp văn hóa
bản địa) và có những nhận thức mới được hình thành , bồi đắp trong những giai

Trang 7


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

đoạn về sau (thuộc lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực và lớp giao lưu
với văn hóa phương Tây).

1.3.2. Văn hóa tổ chức cộng đồng
Tiểu hệ thức hai liên quan đến những giá trị nội tại của chủ thể văn hóa: đó là
văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm hai vi hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập
thể (ở tầm vĩ mô như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời
sống cá nhân (liên quan đến đời sống riêng mỗi người như tín ngưỡng, phong tục,
giao tiếp, nghệ thuật…).

1.3.3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Cộng đồng chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với môi trường tự nhiên
(thiên nhiên, khí hậu…) nên cấu trúc văn hóa có tiểu hệ liên quan đến thái độ của
cộng đồng với môi trường tự nhiên đó là: văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
Với tiểu hệ này có hai cách xử thế phù hợp là tận dụng (tác động tích cực) và ứng
phó (tác động tiêu cực) sinh ra hai vi hệ là: văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên và
văn hóa ứng phó với môi trường tự nhiên.
Với môi trường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn uống, tạo ra các vật dụng hàng
ngày…; đồng thời phải ứng phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao
thông), với khí hậu và thời tiết (quần áo, nhà cửa…).

1.3.4. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội:

Cộng đồng chủ thể văn hóa cũng tồn tại trong môi trường xã hội (các dân
tộc, quốc gia khác) nên cấu trúc văn hóa có tiểu hệ liên quan đến thái độ của cộng
đồng với môi trường xã hội đó là: văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Với tiểu hệ này cũng có hai cách xử thế phù hợp là tận dụng và ứng phó, sinh
ra hai vi hệ là: văn hóa tận dụng môi trường xã hội và văn hóa ứng phó với môi
trường xã hội.
Với môi trường xã hội, bằng các quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, mỗi
dân tộc đều cố gắng tận dụng thành tựu của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm
cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận
quân sự, ngoại giao…

1.4. Các loại hình văn hóa

Trang 8


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

Văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên. Vì thế nguồn gốc của mọi
sự khác biệt sâu xa về văn hóa là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý –
khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) tạo nên. Các nền văn hóa hiện đại dù đang
thuộc giai đoạn văn minh nào cũng đều không thoát ra ngoài hai loại hình văn hóa
cơ bản: Văn hóa gốc nông nghiệp và văn hóa gốc du mục.

1.4.1. Loại hình văn hoá gốc nông nghiệp
Môi trường sống ở phương Đông (chính xác là Đông Nam Á châu, miền
Nam Trung Quốc) là xứ nóng, mưa nhiều, ẩm, gió mùa, tạo nên những con sông dài
rộng với các đồng bằng trù phú, sông rạch chằng chịt, thích hợp cho việc trồng
trọt.Sau thời kỳ lâu dài sống bằng hái lượm và săn bắt họ dần chuyển sang cách
sống trồng trọt, lối sống nông nghiệp, đây là cách sống định cư.

a. Về mặt nhận thức
Sống định cư, ổn định, trọng tình (khép kín, hướng nội), xuất phát từ việc
trồng trọt, họ phải sống ổn định để thu hoạch.
b. Ứng xử với thiên nhiên
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc
vào hiện tượng thiên nhiên (trông trời, trông đất, trông mưa, trông mây, trông gió,
trông ngày, trông đêm…). Sùng bái, tôn trọng, hoà hợp với tự nhiên, lối sống ổn
định, định canh, định cư nếu điều kiện tự nhiên không tốt họ thường suy tôn tự
nhiên thành các vị thần để cầu xin mưa thuận gió hoà. Cách làm nhà thường thấp,
hài hoà với tự nhiên thể hiện thái độ tôn trọng tự nhiên, dẫn đến sự e dè, rụt rè,
không dám khai phá thiên nhiên.
c. Ứng xử với cộng đồng:
Bán anh em xa mua láng giềng gần, hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau,
nguyên nhân là do lối sống ổn định, sự phụ thuộc vào thiên nhiên, khi thu hoạch
mùa vụ thì cần có nhiều sức lao động, trời sinh voi sinh cỏ, coi trọng tình cảm, luôn
quan tâm, chia sẻ và dựa dẫm, ỷ lại, cào bằng, đố kỵ “chết một đống còn hơn sống
một đứa”.
- Văn hoá gốc nông nghiệp xem trọng ngôi nhà bếp, cần nhiều lao động, phụ
nữ đại diện cho sự sinh sản, thể hiện trong văn hoá tín ngưỡng, rất nhiều vị nữ thần
và là những người phụ nữ bụng bự, ngực to thể hiện cho sự phúc đức, sinh sản; Phụ
nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái,
trong ngôn ngữ có nhiều bắt đầu từ “cái”, “con” hư tại mẹ, cháu hư tại bà”; bắt đầu
thay đổi từ thế kỷ IV theo văn hoá nam quyền “ba đồng một mớ đàn ông, đem bỏ
Trang 9


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

vào lồng cho kiến nó tha, ba hào một mớ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa cho
ngồi”.

- Trọng tình, ứng xử mềm dẻo hơn: Hệ quả từ tính cộng đồng, cuộc sống định
canh, định cư nên cuộc sống gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau “đi với bụt mặc áo cà sa”
“yêu nhau củ ấu cũng tròn”, cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tình cảm, cảm tính
“nhất thân, nhì quen”. Cuộc sống trọng tình nên phải mềm dẻo, linh hoạt để thích
ứng với tự nhiên thiên nhiên; thích ứng với mối quan hệ cộng đồng “nhập gia tuỳ
tục”, “ đất lề, quê thói”.
- Tư duy tổng hợp, trọng kinh nghiệm: Tư duy tổng hợp sơ khai tồn tại nhiều
yếu tố chi phối đến cuộc sống của người dân nên họ có tư duy tổng hợp và coi trọng
kinh nghiệm và coi trọng người già vì họ sống lâu, chứng kiến các quy luật không
gian, thời gian nên họ đưa ra những dự báoo chính xác “kính lão đắt thọ/ sống lâu
lên lão làng” -> Những người đứng đầu thường là những người già, những đút kết
của ông bà thường đúng và thường cảm tính, không có tầm nhìn xa.

1.4.2. Loại hình văn hoá gốc du mục
Môi trường sống ở phương Tây (chủ yếu ở Tây Bắc Âu và miền Bắc Trung
Quốc) là xứ lạnh với khí hậu khô ráo tạo nên những đồng cỏ rộng lớn, thực vật khó
sinh trưởng. Sau thời kỳ lâu dài sống bằng hái lượm và săn bắt, những người cư ngụ
tại xứ lạnh chuyển sang sống bằng chăn nuôi theo bầy đàn, đó là cách sống du mục.
Những người du mục là những nhóm người sống lang thang, tổ chức theo các bộ
lạc, những người đàn ông trưởng thành thường được gắn chặt với sức mạnh chiến
tranh để thiết lập quyền chiếm lĩnh lãnh thổ trong một nhóm du cư.
Xã hội đầu tiên của những người chăn nuôi gia súc du mục phát triển từ 8.500
– 6.500 năm trước công nguyên ở khu vực miền nam Levant. Lối sống săn bắn du
mục nhanh chóng phát triển và có thể kết hợp với sự xuất hiện của ngôn ngữ
Semitic tại khu vực Cận đông Cổ đại.
Sự lây lan nhanh chóng của những người chăn nuôi du mục sau này là các nền
văn hóa Yamaya của ngựa và gia súc du mục của thảo nguyên Á – Âu hay của
Turko Mông Cổ sau đó tiếp đến thời kỳ Trung Cổ. Đến cuối thiên niên kỷ thứ hai
trước công nguyên, nền văn minh trên cơ sở thuần hóa vật nuôi và nông nghiệp định
canh định cư đã nổi lên ở Châu Á, Châu Âu và Châu Phi.

Trang 10


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

a. Về mặt nhận thức:
Dân du mục chăn nuôi theo bầy đàn tập trung vào đàn súc vật. Hằng ngày họ
quan sát, nhận xét từng con vật, sau đó chọn lọc và loại bỏ các con vật yếu đuối
bệnh tật. Mỗi lần làm thịt con vật, khi mổ xẻ con vật ra luôn tách riêng từng bộ phận
khác nhau. Thói quen này dần dần chuyển hóa vào trong tâm thức của họ, biến
thành môi trường văn hóa tinh thần. Đó chính là bắt nguồn của tư duy phân tích.
Suy nghĩ theo lối phân tích là chìa khóa chia mọi yếu tố cấu thành ra từng phần
riêng biệt, phân tích để thấy và nhận ra các yếu tố cấu thành của cái toàn thể.
Tư duy phân tích và siêu hình chính là đặc trưng của văn hóa trọng động gốc
du mục mà phương Tây và miền Bắc Trung Quốc là điển hình. Đây là cơ sở cho sự
hình thành và phát triển khoa học. Khoa học hình thành, phát triển theo còn đường
thực nhiệm, khách quan, lý tính
b. Ứng xử với thiên nhiên:
Văn hóa du mục xuất phát từ đặc trưng chăn nuôi gia súc do đó nơi này sống
không thuận tiện và không phù hợp nữa thì họ sẽ di chuyển sang nơi khác sống với
mục đích đáp ứng được nhu cầu của họ, họ không quan tâm đến thiên nhiên.
Vì cách sinh hoạt đó dẫn đến tâm lý không xem trọng thiên nhiên, mối bận
tâm duy nhất của người dân du mục chỉ là đồng cỏ và nguồn nước, có tham vọng
muốn chinh phục và chế ngự thiên nhiên bằng mọi cách.
Đặc tính này có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với
thiên nhiên, khuyến khích cho sự sáng tạo và khoa học phát triển, nhưng nhược
điểm to lớn là hủy hoại môi trường thiên nhiên, mật độ dân số từng vùng không ổn
định nên trật tự an toàn xã hội luôn bị đảo lộn.
c. Ứng xử với cộng đồng:
Vì sống theo lối sống du canh du cư nên lối sống trọng động làm nảy sinh

nguyên tắc trọng lý, trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ và kéo theo là trọng nam
khinh nữ. Khi lấy chồng, người phụ nữ không còn mang họ của gia đình nữa, họ
xem phụ nữ cũng như nô lệ, ngang hàng với gia súc, với đồ vật sở hữu của người
đàn ông.
Cuộc sống du mục cũng hình thành nên trong mỗi người tính hiếu chiến,
thích chiếm đoạt, chủ nghĩa cá nhân. Sống là tìm cái ăn và ăn cái mình tìm ra, do đó
dân du mục giết những con vật họ nuôi và tìm được, mổ xẻ nó ra và chế biến thành
thức ăn, đôi khi thức ăn họ có được là do giành gật, giết chóc mà có. Điều này cho
thấy tính hung hãn, hiếu chiến trong quan hệ xã hội của người dân du mục.
Tư duy phân tích của văn hóa gốc du mục dẫn đến cách tổ chức cộng đồng
theo khuôn phép. Cuộc sống du cư đòi hỏi con người luôn phải sống có tổ chức,
Trang 11


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

luôn tuân thủ kỷ luật, đó là đầu mối dẫn đến việc hình thành một nếp sống theo
pháp luật với tính tổ chức cao. Để duy trì nguyên tắc người dân gốc du mục đưa ra
cách cư xử mà quyền lực tuyệt đối nằm trong tay người cai trị. Bắt nguồn của việc
xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế khắc nghiệt ở phương Tây, thống trị lãnh thổ
bằng sức mạnh và thanh kiếm kéo dài suốt thời trung cổ và chế độ quân chủ hà khắc
ở Trung Quốc thống trị bằng bạo lực.
Thời trung cổ trở về trước coi cá nhân là người cai trị, thời dân chủ về sau
coi trọng tự do cá nhân của mỗi con người. Ngày nay, Trung Quốc vẫn chưa từ bỏ
được tính hiếu chiến với chủ nghĩa bành trướng và óc độc tôn độc hữu, còn người
phương Tây thì thể hiện với chủ trương toàn cầu hóa.
Đặc trưng này có ưu điểm là tính tổ chức, nguyên tắc, kỷ luật cao nhưng
cũng mang theo một mặt trái khó kiểm soát đó là thường duy trì một đường lối cai
trị hà khắc, trong tôn giáo thì độc tôn và trong quan hệ với các quốc gia lân bang thì
thường giải quyết mâu thuẫn bằng chiến tranh , máy móc, rập khuôn, cứng nhắc,

dẫn đến lối ứng xử độc tôn trong tiếp nhận và cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó
(ưa giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực và khi giải quyết luôn có tham vọng buộc đối
phương khuất phục hoàn toàn)
d. Ứng xử với môi trường xã hội
Du mục, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, đề cao sức mạnh cá nhân, có
thể đảm bảo rõ rệt quy trình kinh tế chăn nuôi du mục; nếu đi đông quá cũng ảnh
hưởng đến quá trình di chuyển, dám nghỉ, dám làm, quyết đoán, ít phụ thuộc vào
người khác, cứng nhắc trong việc tiếp nhận, hiếu thắng coi mình là nhất “giải quyết
vấn đề mâu thuẫn bằng vũ lực như hẹn nhau đấu súng (kiếm) hoặc động binh”, coi
trọng cá nhân, ứng xử theo nguyên tắc và coi trọng luật lệ, có truyền thống cạnh
tranh. Có thể nói đa số các nền văn hóa du mục thích gây chiến, đi xâm chiếm thuộc
địa để thể hiện sức mạnh, quyền lực của mình. Tính hiếu chiến, thích cưỡng đoạt
với khối óc độc tôn, độc hữu trong tiếp nhận và cứng rắn trong đối phó. Sống có tổ
chức, tuân thủ kỷ luật, coi trọng cá nhân, có truyền thống cạnh tranh.

2. Khái quát văn hóa của tổ chức
2.1. Khái niệm, các yếu tố và chức năng của văn hóa tổ chức

Trang 12


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

2.1.1. Khái niệm
Thực tế cũng cho thấy rằng thành công hay thất bại của nhiều tổ chức ngoài
sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế
chung, sự cạnh tranh từ bên ngoài, v.v… còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên
trong. Các yếu tố bên trong sẽ tạo ra sức mạnh của doanh nghiệp, giúp cho doanh
nghiệp có được cái nhìn chiến lược, hoạch định và kiểm soát tốt hơn để có thể
khống chế được các rủi ro từ bên ngoài và đạt được các mục tiêu của mình. Vậy yếu

tố bên trong ấy là gì, sức mạnh doanh nghiệp có từ đâu, chất lượng quản lý chi phối
các hoạt động tổ chức như thế nào và ngược lại nó chịu những sự tác động nào. Một
trong những nguồn sức mạnh mà tổ chức có được chính là sức mạnh có được từ văn
hoá của tổ chức đó. Vậy văn hoá tổ chức hay văn hóa doanh nghiệp là gì? Có rất
nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hoá doanh nghiệp:
-

Văn hoá của tổ chức là một hệ thống các ý nghĩa biểu đạt chung bao trùm lên
toàn bộ tổ chức, có tính chất quyết định tới mọi hành vi và hoạt động của toàn
bộ các thành viên trong tổ chức đó”.( Rolff Bergman và Ian Stagg)

-

Văn hóa tổ chức là thói quen, cách nghĩ truyền thống và cách làm việc trong tổ
chức được chia sẻ bởi tất cả các thành viên trong tổ chức (Elliott Jaques,
1952).

-

Văn hóa tổ chức là hệ thống những ý nghĩa chung được chấp nhận rộng rãi bởi
những người lao động trong thời gian nhất định (Adrew Pettgrew, 1979)

-

Văn hóa tổ chức là một loạt các quy phạm và hệ thống giá trị chung nhằm
kiểm soát sự tương tác giữa các thành viên trong tổ chức và giữa các thành
viên trong tổ chức với những người bên ngoài tổ chức đó. Văn hóa tổ chức là
hệ thống những niềm tin và giá trị chung được xây dựng trong tổ chức và
hướng dẫn hành vi của các thành viên trong tổ chức.


-

Văn hóa tổ chức là một hệ thống ý nghĩa chung hàm giữ bởi các thành viên
của tổ chức, qua đó có thể phân biệt tổ chức này với tổ chức khác (Robbin,
2000).

Trang 13


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

Như vậy, văn hóa tổ chức là hệ thống những giá trị, những niềm tin, những
quy phạm được chia sẻ bởi các thành viên trong tổ chức và hướng dẫn hành vi
của những người lao động trong tổ chức.
Văn hóa tổ chức xác định tính cách của doanh nghiệp. Văn hóa tổ chức
thường được xem như là cách sống của mọi người trong tổ chức. Những khái niệm
về văn hóa tổ chức ở trên đều gắn với một cái gì đó chung đối vớ mọi thành viên
trong tổ chức. Đó là những giả định chung, hệ thống ý nghĩa chung, luật lệ và
những kiến thức chung. Những giá trị xác định những hành vi nào là tốt và có thể
chấp nhận được và những hành vi xấu hay không thể chấp nhận được. Chẳng hạn,
trong một số tổ chức, việc đổ lỗi hay cãi vã với khách hàng khi khách hàng phàn
nàn về sản phẩm là không thể chấp nhận được. Khi đó, giá trị của tổ chức – “khách
hàng luôn luôn đúng” – sẽ chỉ cho những người trong tổ chức thấy rằng hành động
“không cãi vã vớ khách hàng” là chấp nhận được và hành động “cãi vã với khách
hàng” là không chấp nhận được. Hơn nữa, những khái niệm về văn hóa tổ chức còn
cho thấy tầm quan trọng của việc “chia sẻ” trong sự phát triển của những khái niệm
về văn hóa tổ chức. “Sự chia sẻ” ở đây có nghĩa là làm việc với kinh nghiệm chung;
khi chúng ta chia sẻ, chúng ta trực tiếp tham gia với những người khác. Ở đây nhấn
mạnh sự giống nhau trong cách nghĩ, cách làm của mọi người. Đây là ý nghĩa gắn
chặt với các khái niệm về văn hóa tổ chức. Chia sẻ văn hóa nghĩa là mỗi thành viên

tham gia và đóng góp vào nền tảng văn hóa lớn hơn, sự đóng góp và kinh nghiệm
của mỗi thành viên là không giống nhau. Khi nói đến văn hóa như là một hệ thống ý
nghĩa, giá trị, niềm tin và kiến thức, cần phải ghi nhớ rằng văn hóa phụ thuộc vào cả
cộng đồng và sự đa dạng hóa. Văn hóa cho phép sự giống nhau nhưng cũng thừa
nhận và dựa trên sự khác nhau.
Một điểm chung nữa của những khái niệm về văn hóa tổ chức nêu trên là tất
cả những khái niệm đều nhấn mạnh vào những phương tiện mang tính biểu đạt mà
thông qua đó những giá trị trong văn hóa tổ chức được truyền bá tới những người
lao động trong tổ chức. Mặc dù, các công ty có thể trực tiếp mô tả những giá trị,
những hệ thống ý nghĩa này thông qu những câu chuyện, những ví dụ, thậm chí cả
những huyền thoại. Những câu chuyện là phương tiện điển hình để phản ánh những
ngụ ý quan trọng của những giá trị trong văn hóa tổ chức. Văn hóa của một tổ chức
được thể hiện qua 3 cấp độ:
Trang 14


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

- Các vật thể hữu hình: cách thức bố trí và trang trí nơi làm việc, các biểu
tượng vật chất, trang phục của nhân viên, điều kiện và môi trường làm việc.
- Các giá trị được tuyên bố: được thể hiện qua phong cách giao tiếp, ứng xử
của người lao động trong tổ chức, qua các triết lý kinh doanh của doanh nghiệp,
phong cách lãnh đạo…
- Các giả định: đó là các giá trị ngầm định. Khi các giá trị được tuyên bố được
kiểm nghiệm qua thực tế hoạt động của doanh nghiệp, được người lao động chấp
nhận thì sẽ được duy trì theo thời gian và dần dần trở thành các giá trị ngầm định.
Các giá trị ngầm định này thường khó thay đổi và ảnh hưởng rất lớn tới phong cách
làm việc, hành vi của nhân viên trong tổ chức.
Như vậy, văn hóa tổ chức là hệ thống những giá trị, những niềm tin, những
quy phạm được chia sẻ bởi các thành viên trong tổ chức và hướng dẫn hành vi của

những người lao động trong tổ chức. Một điểm chung của những khái niệm về văn
hóa tổ chức là tất cả những khái niệm đều nhấn mạnh vào những phương tiện mang
tính biểu đạt mà thông qua đó những giá trị trong văn hóa tổ chức được truyền bá
tới những người lao động
Theo định nghĩa trên thì văn hoá doanh nghiệp đề cập đến nhiều vấn đề:
Thứ nhất, nói đến văn hóa của tổ chức là nói đến một nhận thức chỉ tồn tại
trong một tập thể chứ không phải trong một cá nhân. Do vậy các cá nhân ở những
cương vị khác nhau, thực hiện những quá trình khác nhau trong tổ chức đều có
khuynh hướng diễn tả văn hóa của tổ chức cùng một cách. Chính vì thế văn hóa của
tổ chức giúp cho người ta phân biệt được tổ chức này với tổ chức khác.
Thứ hai, văn hoá doanh nghiệp là một khái niệm mô tả. Nó đề cập tới việc
các thành viên nhìn nhận về doanh nghiệp của họ như thế nào chứ không quan tâm
đến việc họ thích hay không thích.
Thứ ba, văn hoá doanh nghiệp là một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực được xây dựng và áp dụng chung cho các thành viên của doanh nghiệp.
Hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này tạo nên và định hướng cho hành
động của toàn doanh nghiệp nhằm đạt được một mục tiêu chung.
Các đặc tính căn bản về văn hóa của một tổ chức:
-

Sự tự quản của các cá nhân trong tổ chức(trách nhiệm, tính độc lập, ứng xử,

-

phong cách làm việc...).
Các cơ chế của tổ chức đó (các quy tắc, quy chế, điều lệ… riêng)
Trang 15


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị


-

Sự hỗ trợ của các nhà quản lý với nhân viên.
Tinh thần đoàn kết và thể hiện tinh thần đồng đội trong tổ chức.
Sự xem xét, khen thưởng, cách khen thưởng và những căn cứ, cơ sở của nó.
Xung đột, sức chịu đựng và cách giải quyết những xung đột.
Các rủi ro có thể có và sự chịu đựng những rủi ro có thể có.

2.1.2. Các yếu tố của văn hóa tổ chức:
-

Những giá trị cốt lõi: là những giá trị trung tâm của văn hóa tổ chức phản ánh
những giá trị liên quan đến công việc của một xã hội, một cộng đồng mà trong đó tổ

-

chức đang hoạt động.
Những chuẩn mực: là những quy tắc không chính thức về những hành vi ứng xử

-

được các thành viên trong nhóm chia sẻ và bị ràng buộc phải tuân thủ.
Những niềm tin: những điều mà người ta tin là đúng, trung thực… và thông thường
nó đến từ bên ngoài của tổ chức như từ tôn giáo, và nó có tác động đến những giá trị

-

chung.
Những huyền thoại: là những câu chuyện liên quan đến các sự kiện mang tính tiêu

biểu cho các thành viên và thông thường nó được hư cấu từ những câu chuyện có

-

thật để tạo thành những hình ảnh lý tưởng.
Những nghi thức tập thể: là những hoạt động tinh thần của tập thể như lễ hội…
được lặp đi lặp lại để tạo nên sự đồng tâm hiệp lực giữa các thành viên và tạo cho

-

các thành viên cảm thấy họ là một bộ phận của tổ chức.
Những điều cấm kỵ: là những tập quán văn hóa của tổ chức ngăn cấm các thành
viên trong tổ chức không được phép làm, hay nói về điều gì đó.

2.1.3. Chức năng của văn hóa tổ chức
Văn hóa thực hiện một số chức năng trong phạm vi một tổ chức như sau:
-

Thứ nhất, văn hóa có vai trò xác định ranh giới: văn hóa tạo ra sự khác

-

biệt giữa tổ chức này với tổ chức khác.
Thứ hai, văn hóa có chức năng lan truyền chủ thể cho các thành viên

-

trong tổ chức.
Thứ ba, văn hóa thúc đẩy nhân viên cam kết đối với lợi ích chung của


-

tổ chức đối với những gì lớn hơn so với lợi ích riêng của cá nhân họ.
Thứ tư, Văn hóa làm tăng sự ổn định của hệ thống xã hội trong tổ chức
Thứ năm, văn hóa có tác dụng kiểm soát để định hướng và hình thành

nên thái độ và hành vi của người lao động.
 Những chức năng của văn hóa nêu trên có ích cho cả tổ chức và cho cả
người lao động.

Trang 16


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

Văn hóa có tác dụng nâng cao sự cam kết tổ chức và làm tăng tính kiên định
trong hành vi củangười lao động. Những đều này rõ ràng đem đến lợi ích đích thực
cho một tổ chức. Theo quan điểm của người lao động, văn hóa có giá trị vì nó làm
giảm đáng kể sự mơ hồ. Nó chỉ cho nhân viên biết mọi thứ được tiến hành như thế
nào và cái gì là quan trọng. Nhưng chúng ta không nên bỏ qua khía cạnh phi chức
năng của văn hóa, đặc biệt là của văn hóa mạnh.
Văn hóa cũng có thể là gánh nặng khi những giá trị chung của tổ chức không
phù hợp với những yếu tố có tác dụng thúc đẩy tính hiệu quả của tổ chức. Hơn nữa,
văn hóa cũng có thể gây cản trở đối với sự thay đổi, sự đa dạng của nguồn lực con
người trong tổ chức. Bởi vì bản thân mỗi người lao động có một hệ thống giá trị và
niềm tin riêng của họ. Khi làm việc trong tổ chức có nền văn hóa mạnh, họ cần phải
tuân thủ theo những quy phạm và hệ thống giá trị chung của tổ chức. Như vậy,
những mặt mạnh hay những ưu thế của từng người lao động sẽ phần nào bị hạn chế
hay không có điều kiện phát huy.
Ngoài ra, văn hóa cũng có thề là cản trở đối với sự sáp nhập của các tổ chức.

Bởi vì mỗi tổ chức sẽ theo đuổi những giá trị văn hóa khác nhau so với tổ chức
khác. Việc sáp nhập hai hay nhiều tổ chức có nền văn hóa khác nhau đặt ra vấn đề
lớn là lựa chọn giá trị văn hóa chung cho tổ chức mới và làm thế nào để duy trì hoạt
động của tổ chức mới có hiệu quả.

2.2. Các loại hình văn hóa của tổ chức
Theo Goffee và Jones (1996), văn hóa tổ chức được chia thành 4 loại tùy
thuộc vào mức độ thân thiện giữa những thành viên trong tổ chức và mức độ chia sẻ
và theo đuổi những mục tiêu chung của các thành viên trong tổ chức đó. Đó là văn
hóa mạng lưới, văn hóa cộng đồng, văn hóa phân tác, văn hóa vụ lợi.

Trang 17


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

 Văn hóa mạng lưới có đặc điểm sau:

- Không tập trung vào kết quả cuối cùng mà tập trung vào quá trình hoạt động.
- Các cá nhân trong tổ chức sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp của mình khi họ cần
mà không quan tâm đến những kết quả đạt được sẽ như thế nào.
- Các cá nhân trong tổ chức có tinh thần học hỏi cao và tinh thần học hỏi của
người lao động trong tổ chức được khuyến khích.
- Nhiệm vụ và trách nhiệm công việc được thiết kế linh hoạt
 Văn hóa phân tác có những đặc điểm sau:

- Nhiệm vụ và trách nhiệm công việc được thiết kế linh hoạt
- Các cá nhân trong tổ chức ít khi chia sẻ thông tin về mục tiêu công việc và
mục tiêu của tổ chức.
Văn hóa vụ lợi có đặc điểm sau:

- Các cá nhân trong tổ chức ít quan hệ tiếp xúc với nhau nhưng họ đều thống
nhất trong việc theo đuổi và ủng hộ mục tiêu kinh doanh chiến lược của tổ chức.
- Các thành viên sẽ khó có thể trung thành và gắn bó với tổ chức một khi mục
tiêu cá nhân của họ không được đáp ứng.
Trang 18


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

 Văn hóa cộng đồng thực chất có các đặc điểm sau:

- Các cá nhân trong tổ chức tỏ ra rất thân thiện với nhau.
- Các cá nhân trong tổ chức cùng làm việc nhằm hướng tới mục tiêu chung.
- Các cá nhân trong tổ chức tích cực học hỏi lẫn nhau.
- Các nhiệm vụ công việc được thiết kế linh hoạt.
Việc phân loại văn hóa tổ chức giúp các nhà quản lý có thể hiểu rõ hơn về ưu
điểm và nhược điểm của từng loại văn hóa tổ chức. Hơn nữa, họ có thể lựa chọn
người lao động phù hợp với văn hóa tổ chức khi tiến hành công tác tuyển chọn và
giúp nhà quản lý đưa ra những quyết định thay đổi văn hóa tổ chức.
Văn hóa của một tổ chức được nhận biết qua nhiều hình thức và mức độ khác
nhau như: khẩu hiệu, triết lý kinh doanh, biểu tượng, cách ứng xử, quy tắc hay
những giá trị mà các thành viên trong tổ chức cảm nhận và chia sẻ thông qua những
khẩu hiệu, biểu tượng, biểu hiện đó.
Văn hóa của một tổ chức không dễ dàng được nhận thấy mà phải trải qua
một sự quan sát, phân tích, thảo luận và nghiên cứu để có thể hiểu được những giá
trị mà các cá nhân trong tổ chức đó cảm thụ và truyền đạt một cách vô thức. Văn
hóa tổ chức có thể nhận thấy qua 3 dạng:
-

Loại hình văn hóa tổ chức hướng vào cá tính của nhà lãnh đạo hoặc tập

thể: Họ là những người sáng lập, là nhân viên quản lý hoặc trưởng các bộ
phận, hoạt động của họ có ảnh hưởng rộng rãi, có ý nghĩa tác động to lớn tới
hoạt động của mọi thành viên. Với loại hình văn hóa này, tổ chức sẽ mang
đậm dấu ấn của người lãnh đạo, người lãnh đạo đóng vai trò là chất xúc tác,
tạo nguồn năng lượng dồi dào, và có sức hấp dẫn đến niềm say mê của cấp

-

dưới.
Loại hình văn hóa tổ chức hướng vào một hoạt động hay nghề nghiệp Ví
dụ như các hãng vận tải đã sử dụng hình ảnh của những chiếc xe tải bền bỉ để

-

tôn cao cho hoạt động của họ.
Loại hình văn hóa tập trung vào cách ứng xử mang tính chất cộng đồng,
tính gia đình: Loại hình này dựa trên sự xã hội hóa sâu rộng những giá trị,
Trang 19


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

chuẩn mực được chia sẻ rộng rãi. Người ta còn có thể chia thành hai loại
hình là văn hóa cộng đồng và văn hóa thị trường.
Trong văn hóa cộng đồng, tồn tại tình cảm thương yêu giữa những người ở
nhiều thứ bậc khác nhau. Sự hài lòng, tin tưởng trong các mối quan hệ tạo ra động
lực làm việc, năng suất lao động cao và khả năng giải quyết mâu thuẫn. Mọi người
trong tổ chức dựa vào những quyền lợi hỗ tương và có sự cam kết lâu dài vượt ra
khỏi những đòi hỏi thỏa thuận trong hợp đồng, những thành viên lâu năm sẽ hỗ trợ
tinh thần và có vai trò mẫu mực cho những thành viên mới. Thông qua các mối

quan hệ trên, những giá trị chuẩn mực được duy trì, quan hệ trong những tổ chức
văn hóa này rất bền lâu, ôn hòa và tận tụy. Điển hình nhất của mô hình này là Nhật
Bản hoặc có thể tìm thấy ở các nước Chân Á, nơi đề cao những giá trị truyền thống
và trân trọng văn hóa gia đình hay trong những công ty tuyệt hảo của Mỹ tin tưởng
vào nhân viên như Hewlett Packard, P&G…
Ngược lại, văn hóa thị trường mang tính trao đổi và nghĩa vụ nhiều hơn.
Quyền lợi, trách nhiệm nghĩa vụ giữa các thành viên được xác định trong hợp đồng.
Người lao động không cam kết trung thành, và tổ chức không đảm bảo sự ổn định
lâu dài. Loại hình này không chú trọng vào mối quan hệ giữa các thành viên, không
đặt nặng sức ép về chuẩn mực đạo đức, đồng nghiệp mà đề cao sự độc lập, không
phụ thuộc và chủ nghĩa cá nhân, thúc đẩy mọi người theo đuổi lợi ích của riêng
mình. Loại hình này người lãnh đạo không đóng vai trò tích cực và hỗ trợ tinh thần
đối với cấp dưới của mình, các thành viên thường tách biệt, ít có sự phối hợp nhưng
lại thúc đẩy sự sáng tạo và tinh thần trách nhiệm đối với quyết định mỗi cá nhân,
mỗi cá thể được tự do theo đuổi những mục tiêu riêng của bản thân với ít sự ràng
buộc, hạn chế tối thiểu từ tổ chức. Công ty đi theo loại hình văn hóa này thường có
ở những công ty Tây Âu và Bắc Mỹ như ITT, General Electric, General Motors…

2.3. Sự hình thành và duy trì văn hóa của tổ chức
2.3.1. Sự hình thành văn hóa tổ chức
Văn hóa được hình thành và phát triển theo thời gian. Ngay từ khi tổ chức
mới được thiết lập thì những thành viên ban đầu mang vào tổ chức những giá trị,
những niềm tin, tác phong và thái độ ứng xử được chia sẻ bởi xã hội, cộng đồng, gia
đình và các nhóm khác nhau mà chính họ là những thành viên trong đó. Chính

Trang 20


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị


những yếu tố này là cốt lõi tạo nên cơ tầng văn hóa của tổ chức. Trong giai đoạn
hình thành, các nhà sáng lập và những người nòng cốt sẽ tạo nên nhóm nòng cốt,
cùng chia sẻ những viễn cảnh, xác định lý do tồn tại và các mục tiêu của tổ chức.
Những yếu tố này kết hợp với cơ tầng văn hóa dần dần xác lập nên bản sắc của tổ
chức, là cái giúp chúng ta nhận dạng được sự khác biệt của các tổ chức trong cùng
một môi trường hoạt động như nhau. Vì thế văn hóa của tổ chức có vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển của mỗi loại hình doanh nghiệp, do đó nếu thiếu những yếu
tố văn hóa thì doanh nghiệp khó có thể đứng vững và tồn tại được trên thị trường ở
bất kỳ thời điểm hay hình thái kinh tế xã hội nào.
Trong quá trình thích nghi với môi trường bên ngoài, thích nghi với cộng
đồng, thích nghi với những sinh hoạt tinh thần mang tính tập thể, tổ chức sẽ hình
thành cho mình một truyền thống văn hóa trên cơ sở bản sắc của nó. Do đó văn hóa
của tổ chức bao gồm phần cốt lõi là một bộ phận văn hóa của dân tộc và phần văn
hóa mà các thành viên của tổ chức đã tạo lập nên trong quá trình tồn tại và phát
triển của nó. Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới nguồn nhân lực của tổ
chức là con người mà văn hóa của tổ chức là sự liên kết và nhân lên nhiều lần các
giá trị của từng nguồn nhân lực riêng lẻ tổng hợp lại. Không những thế văn hóa của
tổ chức còn được thể hiện thông qua phong cách của người lãnh đạo đứng đầu các
vị trí của tổ chức và tác phong làm việc của mọi nhân viên. Vì vậy đối tác khi quan
hệ thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đánh giá doanh nghiệp
qua văn hóa của doanh nghiệp đó. Văn hóa tổ chức của nước ta còn có những mặt
hạn chế nhất định, đó là một nền văn hóa được xây dựng trên nền tảng dân trí thấp,
môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn đến có những cái nhìn ngắn hạn chưa có
quan niệm đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác, chưa có tính chuyên nghiệp còn bị
ảnh hưởng bởi các tàn dư của nền kinh tế bao cấp, chưa có cơ chế dùng người thỏa
đáng với từng vị trí làm việc, có sự bất cập trong giáo dục đào tạo…
Xét trên tiếp cận hệ thống thì văn hóa của tổ chức là hệ thống con của hệ
thống văn hóa của dân tộc và văn hóa tổ chức là tập hợp những hệ thống nhỏ hơn
như văn hóa các nhóm, các bộ phận trong tổ chức. Nghĩa là văn hóa của dân tộc có
tác động lên văn hóa của tổ chức, văn hóa của tổ chức tác động lên các văn hóa

nhóm… Đến lượt mình văn hóa nhóm tác động ngược lại văn hóa tổ chức, văn hóa
tổ chức ảnh hưởng đến văn hóa dân tộc.

Trang 21


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

2.3.2. Duy trì văn hóa tổ chức
Ba yếu tố đóng vai trò quyết định trong việc duy trì văn hóa tổ chức:
 Sự tuyển chọn
Mục tiêu tuyển chọn: tuyển chọn người có trình độ, có ký năng và có khả
năng để thực hiện các công việc trong tổ chức, khi có quá nhiều ứng viên đáp ứng
được tất cả các yêu cầu thì quyết định cuối cùng ai được tuyển chọn tùy vào phán
xét của người ra quyết định về ứng viên đó sẽ phù hợp như thế nào vớ tổ chức.Quá
trình tuyển chọn cung cấp thông tin cho các ứng viên về tổ chức để họ nhận thức
được sự mấu thuẫn hoặc tương thíchgiữa giá trị của mình với tổ chức để có thể tự
loại mình ra khỏi cuộc thi hoặc tiếp tục. theo cách này công ty có thể duy trì được
văn hóa của mình thông qua việc loại bỏ các cá nhân không tương thích với các giá
trị cơ bản của công ty.
VD: một số công ty thuyển dụng yêu cầu rõ "không tuyển người Thanh Hóa"
 Ban giám đốc
Các hành động của BGĐ ảnh hưởng tới văn hóa của công ty thông qua
những gì họ nói và xử sự.Các nhà quản trị cấp cao xây dụng nên những chuẩn mực
về văn hóa thấm sâu vào tổ chức: cấp dưới tự do ở mức độ nào, quần áo nhân viên
như thế nào…
VD: các công ty công nghệ thông tin thường để nhân viên được ăn mặc tự do để tạo
sự thoải mái và sáng tạo cho nhân viên
 Quá trình hòa nhập vào tổ chức
Những lao động mới được tuyển chọn thường không am hiểu hết về văn hóa

của tổ chức, do còn xa lạ nên họ là những nhân tố tiềm tàng có khả năng làm đảo
lộn văn hóa của tổ chức hiện tại. do đó, tổ chức cần phải giúp ngườ lao động mới
thích nghi ứng với văn hóa của công ty, quá trình này gọi là sự hòa nhập vào tổ
chức .
Trong quá trình hòa nhập, có ý nghĩa quyếtđịnh nhất là thời gian người lao
động bắt đầu vào công ty, đây là giai đoạn tổ chức cần nổ lực uống nắn những
người lao động mới vào thành những thành viên vững vàng nhất. Hòa nhập có thể
được xem như là một quá trình gồm 3 giai đoạn:
-

Giai đoạn trước khi gia nhập: Là giai đoạn xảy ra trước khi nhân viên gia
nhập tổ chức, hoặc người lao động này sẽ đến với tổ chức với một tập hợp
Trang 22


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

các giá trị, tái độ và kỳ vọng đã được hình thành trong họ cả viề công việc
-

phải làm và vè cả tổ chức.
Giai đoạn đương đầu với thực tế: đây là giai đoạn mà người lao động mới
xem xét tổ chức thực sự muốn gì và phải sẵn sàng đối mặt với khả năng rằng,
những kỳ vọng của họ và thực tế ở tổ chức có thể rất khác nhau. Đây là giai
đoạn tái khẳng định những nhận thức mà cá nhân này có trước đó. Nhưng
thường không như vậy. Trường hợp mà giữa kỳ vọng và thực tế khác biệt
nhau, thì người lao động mới phải trãi qua một quá trình hòa nhập để giúp họ
rũ bỏ những giả thuyết ban đầu và thay vào đó là những giả thuyết, những

-


giá trị mà tổ chức cần và mong muốn ở họ.
Giai đoạn biến đổi về chất của nhân viên: Đây là giai đoạn mà nững người
lao động mới của công ty phải giải quyết tất cả những vấn đề đã được phát
hiện trong giai đoạn đối đầu với thực tế,để làm điều này, họ có thể phải trải
qua những thay đổi, vì lý do này mà chúng ta gọi là giai đoạn thay đổi về
chất. Người lao động mới làm chủ các kỹ năng do công việc của họ đòi hỏi
và thực hiện tốt vai trò mới của mình và điều chỉnh phù hợp với các chuẩn
mực và giá trị trong nhóm làm việc của mình. Giai đoạn này tác động tới
năng suất lao động của người lao động và sự cam kết của ngừoi đó đối với
các mục tiêu của tổ chức, cũng như quyết định cảu người đó là sẽ ở lại với tổ
chức hay không.
Tóm lại, sự biến đổi va quá trìnhh hòa nhập khi bước chân vào tổ chức được

cho là hoàn thành khi những nhân viêm mới được tuyển cảm thấy thoải mái với tổ
chức và nhóm làm việc của họ, đồng thời cũng hiểu và chấp nhận các chuẩn mực
đó. Mặt khác, những người lao động mới cũng cảm thấy họ được các đồng nghiệp
chấp nhận, tin tưởng, coi trọng.
Ở Việt Nam những năm gần đây, xu hướng chung là các doanh nghiệp Việt
Nam đã bước đầu quan tâm xây dựng văn hóa tổ chức, có những doanh nghiệp đã
mời công ty nước ngoài xây dựng văn hóa doanh nghiệp cho tổ chức mình, đây là
dấu hiệu đáng mừng cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, văn hóa doanh nghiệp Việt Nam có thể tập trung làm tốt những vấn
đề sau để xây dựng văn hóa doanh nghiệp đặc thù Việt Nam:
- Phải đặc biệt coi trọng và lấy con người làm gốc, bao gồm:

Trang 23


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị


+ Bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm của người lao động, kích thích sự say mê,
tính chủ động sáng tạo.
+ Giáo dục ý thức cho người lao động coi doanh nghiệp là “tổ ấm” của cá
nhân mình để nó trở thành nhận thức chung của cả tập thể và tạo nội lực để phát
triển cho doanh nghiệp.
+ Có cơ chế quản trị hợp lý cho những người có cống hiến cho sự phát triển
của doanh nghiệp đều được tôn trọng và được hưởng lợi ích vật chất xứng đáng với
công sức mà họ bỏ ra, chế độ thưởng phạt hợp lý.
- Phải xây dựng quan niệm hướng tới thị trường: việc các doanh nghiệp
phải trở thành doanh nghiệp tự chủ để phù hợp với kinh tế thị trường đòi hỏi doanh
nghiệp phải nhanh chóng hình thành quan niệm thị trường năng động, sát với thực
tiễn. Quan niệm thị trường bao gồm nhiều mặt như giá thành, khả năng tiêu thụ,
chất lượng dịch vụ, sức cạnh tranh.
- Xây dựng quan niệm khách hàng là trên hết. Doanh nghiệp hướng ra thị
trường nói cho cùng là hướng tới khách hàng, phải lấy khách hàng làm trung tâm,
cùng với việc làm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng sau đó mới nghĩ tới
doanh lợi.
- Hướng tới vấn đề an sinh xã hội: Đó là một thách thức lớn đối với tất cả
các doanh nghiệp. Bởi hiện nay các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng nhưng
hậu quả của sự phát triển ấy cũng hết sức nặng nề là ô nhiễm môi trường và lãng phí
tài nguyên thiên nhiên. Do đó các doanh nghiệp cần thông qua văn hóa tổ chức
doanh nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển bền vững vì lợi ích con người và cho
các đời sau.
- Xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội: Một doanh nghiệp không những
phải coi sản phẩm của mình là bộ phận làm nên quá trình phát triển của nhân loại
mà còn phải coi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp của mình là một bộ phận của
văn hóa nhân loại, phải thỏa mãn được nhu cầu văn hóa nhiều mặt của xã hội như
tích cực ủng hộ tài trợ cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa xã hội, thúc đẩy khoa học kỹ
thuật phát triển và tiền bộ.

Nhà quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập và duy trì văn hóa tổ
chức. Từ khi tổ chức được thiết lập và có được tiềm năng tồn tại thì những niềm tin,

Trang 24


Văn hóa gốc du mục và ảnh hưởng của loại hình văn hóa du mục đến hoạt động quản trị

những giá trị và những giả thiết nền tảng của nhà quản trị trở thành những mẫu mực
tinh thành cho cấp dưới. Thông qua ba cách:
- Người đứng đầu tổ chức chỉ chọn và tiếp nhận vào tổ chức những người
nào suy nghĩ, cảm nhận được cách thức mà người đứng đầu làm
- Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình xã hội hóa cấp dưới của họ theo cách
mà nhà quản trị nghĩ, cảm nhận.
- Hành vi ứng xử của các nhà quản trị đóng vai trò kiểu mẫu thúc đẩy, động
viên cấp dưới đồng nhất với họ và cấp dưới tiếp nhận những niềm tin, giá trị và các
giả thiết của họ.
Các nhà quản trị phải có nghệ thuật trong lãnh đạo. Trong giai đoạn một tổ
chức mới hình thành vai trò của nhà lãnh đạo hầu như là quyết định, phải tham gia
hầu hết mọi quyết định. Khi tổ chức đã đi vào hoạt động tương đối ổn định thì
quyền lực của nhà lãnh đạo phải được chuyển giao dần xuống cấp dưới. Trong giai
đoạn tăng trưởng cao nhất khi tổ chức vận hành tốt thì người lãnh đạo phải rút ra
khỏi khâu quản lý trực tiếp để đóng vai trò kích thích sáng tạo, đổi mới trong tổ
chức, cung cấp tầm nhìn chiến lược cho tương lai, vì trong đỉnh của vinh quang ẩn
chứa mầm mống của suy tàn.

2.3.3. Vấn đề thay đổi văn hóa của tổ chức
Để thay đổi, nâng cao trình độ văn hóa tổ chức của mình, các tổ chức nên tham
khảo ba vấn đề cốt yếu là:
- Thứ nhất: Trước khi thay đổi văn hóa, phải xác định rõ khiếm khuyết trong

văn hóa hiện tại của tổ chức.
- Thứ hai: Nếp văn hóa mới của tổ chức phải hỗ trợ việc thực hiện thành công
chiến lược phát triển, tổ chức đặt ra một tầm nhìn, sứ mệnh nào và cần điều chỉnh
văn hóa ra sao để thực hiện thành công tầm nhìn, sứ mệnh đó?
- Thứ ba: Các cá nhân trong tổ chức phải đồng tâm thay đổi hành vi của họ để
tạo ra một môi trường văn hóa tổ chức như mong muốn. Đây là bước khó khăn nhất
trong quá trình thay đổi văn hóa tổ chức.
Có hai yếu tố rất quan trọng để tạo ra sự thay đổi văn hóa tổ chức là sự ủng hộ
của mọi thành viên và cách thức huấn luyện nếp văn hóa mới. Người đứng đầu của
tổ chức phải là những người đi đầu trong việc điều chỉnh hành vi của mình và phải

Trang 25


×