Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Tìm hiểu giá trị di tích lịch sử đền Trần Lộc Vượng Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.47 KB, 42 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu giá trị di tích lịch sử đền
Trần - Lộc Vượng - Nam Định” là đúng sự thật và do chính tôi thực hiện. Nếu
có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các nội dung trong đề tài đã
nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Tiến sĩ LÊ THỊ HIỀN - giảng
viên bộ môn “Phương pháp nghiên cứu khoa học” của khoa Văn hóa - Thông tin
và xã hội đã trang bị cho tôi những kiến thức, kĩ năng cơ bản để tôi có thể hoàn
thành đề tài nghiên cứu này.
Tôi cũng xin cảm ơn Ban Quản lý đền Trần đã tạo điều kiện cho tôi có
thêm hiểu biết về lịch sử, kiến trúc cũng như các giá trị tâm linh của di tích lịch
sử đền Trần
Tôi hi vọng tài liệu này sẽ là cẩm nang hữu ích cung cấp cho bạn đọc
những kiến thức lịch sử - văn hoá cơ bản và cụ thể về di tích lịch sử đền Trần
Mặc dù trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã cố gắng tổng hợp đầy đủ
bề dầy và bề sâu lịch sử - văn hoá và các giá trị của di tích lịch sử đền Trần
nhưng tôi khó tránh khỏi những sai sót khi tìm hiểu, đánh giá cũng như trình bày
về đề tài nghiên cứu này. Tôi rất mong bạn đọc thông cảm và mong giành được
sự quan tâm đóng góp ý kiến của cô giáo và các bạn cho bài nghiên cứu để tôi
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đề tài hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT


1
2
3

Từ viết tắt
CHXHCNVN
Nxb
TBT

Nội dung viết tắt
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà xuất bản
Tổng bí thư


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam có một hệ thống các di tích – văn hóa khá đồ sộ và phong phú,
có mặt ở khắp mọi miền của đất nước. Nó bao trùm lên toàn bộ đời sống vật
chất và tinh thần của toàn xã hội theo suốt chiều dài lịch sử.
Nằm ở vùng Đông Bắc Bộ - nơi có mật độ các di tích lịch sử - văn hóa
vào loại cao nhất trong cả nước. Nam Định – một tỉnh có quá trình phát triển rất
lâu đời và là quê hương của các Vua Trần với rất nhiều các khu di tích lịch sử
được xếp hạng quốc gia như : Đền Trần, Đền Cây Quế, Phủ Dầy, Đền Bảo Lôc,
…Là người con sinh ra và lớn lên ngay tại mảnh đất này thì di tích Đền Trần là
một trong những khu di tích gây ấn tượng nhất đối với tôi. Đây không chỉ là nơi
để cho mọi người về đây hành hương lễ thánh, nơi các đệ tử tìm về chốn linh
thiêng mà còn là nơi để du khách tham quan vãng cảnh đền, tìm hiểu di tích, lịch
sử, chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo của các vị Vua nhà Trần hay để thưởng thức
vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của thiên nhiên hoà quyện nơi đây. Di tích Đền Trần

mang trong mình rất nhiều giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật cũng như
tâm linh đại diện cho những nét đẹp văn hóa đặc trưng riêng của vùng đất Thành
Nam.
Vì vậy, nghiên cứu về di tích Đền Trần nhằm góp phần giữ gìn bản sắc
văn hoá truyền thống tốt đẹp của vùng này đang bị biến đổi mạnh mẽ trong đời
sống xã hội hiện đại. Đồng thời qua đó khai thác triệt để và phát huy các giá trị
của khu di tích lịch sử này nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân trong
vùng và hoạt động du lịch của địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế hiện
nay. Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu giá trị di tích Đền Trần –
Phường Lộc Vượng – Nam Định” làm đề tài để thi kết thúc học phần môn
phương pháp nghiên cứu khoa học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Trong phạm vi bài nghiên cứu, tôi tập trung nghiên cứu về các di tích nằm
trong Đền Trần và những giá trị kiến trúc, lịch sử, nghệ thuật, tâm linh, văn hóa
4


của khu di tích Đền Trần.
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian : Hiện trạng di tích đền Trần, các giá trị của di tích đền Trần
hiện nay.
- Không gian nghiên cứu: Di tích Đền Trần – Phường Lộc Vượng – Nam
Định
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài.
Đề tài cung cấp những giá trị của Đền Trần đem lại.
Đề tài nhằm cung cấp một cái nhìn tương đối đầy đủ, hệ thống và chi tiết
về các công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh tại Đền Trần.
Do được xây dựng trên cơ sở vận dụng từ lý thuyết đến thực tế do vậy kết
quả của đề tài có thể được ứng dụng trong công tác quản lý, là cơ sở để xây

dựng các tour du lịch, là nguồn tư liệu cho những ai có nhu cầu tìm hiểu về các
giá trị của di tích Đền Trần.
4. Lịch sử nghiên cứu.
Trong đề tài nghiên cứu này, bài nghiên cứu chỉ xin nêu một số tác phẩm,
bài báo của một số tác giả viết về di tích Đền Trần. Vì là ngôi đền cổ nên có rất
nhiều cá nhân tìm hiểu và khai thác giá trị đặc sắc của di tích này.
- Cuốn sách " Trần Miếu – di sản và tín ngưỡng dân gian" của tác giả Hồ
Đức Thọ, Nxb Văn hóa thông tin năm 2006. Cuốn sách giới thiệu về quần thể di
tích lịch sử Đền Trần giúp người đọc hiểu rõ về kiến trúc, quần thể của khu di
tích Đền Trần.
- Cuốn sách " Di tích lịch sử văn hóa tỉnh Nam Định" của tác giả Nguyễn
Vũ Hạnh Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc Hà Nội năm 2008. Cuốn sách là kết quả
sưu tầm, biên soạn của nhiều tác giả với 74 di tích đã xếp hạng cấp Quốc gia từ
năm 1962 đến năm 2001. Trong cuốn sách, bài viết " Khu di tích Đền Trần và
chùa Phổ Minh" của tác giả Trần Đăng Ngọc, bài viết giới thiệu về tổng thể khu
di tích Đền Trần bao gồm: kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật,..

5


5. Phương pháp nghiên cứu.
Bài nghiên cứu quán triệt những nguyên tắc phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu, đồng thời sử dụng những
phương pháp khác như: điều tra khảo sát, , phương pháp logic, lịch sử, điền giã,
quan sát, giải thích hình tượng hiện vật để đạt mục đích và thực hiện những
nhiệm vụ mà bài nghiên cứu đã đặt ra.
6. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luật, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về di tích và khái quát về Phủ Thiên Trường

Nam Định.
Chương 2: Các giá trị của di tích Đền Trần, phường Lộc Vượng, Nam
Định
Chương 3: Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Đền
Trần – Nam Định.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI TÍCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ PHỦ THIÊN
TRƯỜNG NAM ĐỊNH
1.1. Lý luận chung về di tích
1.1.1. Một số khái niệm
"Di" là để lại, " tích" là tàn tích, dấu vết. "Di tích" là những tàn tích, dấu
vết còn lại của quá khứ. Theo Luật Di sản của nước CHXHCN Việt Nam được
quốc hội khóa X thông qua trong kỳ họp thứ 9 ngày 29-09-2001: "Di tích lịch sử
văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật bảo vật quốc gia
thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử văn hóa khoa học".
Trong cuốn "Quản lý di sản văn hóa" có nêu khái niệm: "Di tích lịch sử
văn hóa là một công trình hay một địa điểm gắn với sự kiện, nhân vật lịch sử
hoặc tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hay nhiều thời kì lịch sử của đất
nước" [1; Tr. 36]
Theo Luật Di sản của nước CHXHCN Việt Nam, một công trình được coi
là di tích lịch sử, văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau đây:
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiến lịch sử tiêu biểu trong
quá trình dựng nước và giữ nước.
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước.
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các

thời kỳ cách mạng, kháng chiến.
- Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ.
- Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá
trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Đường lối, chính sách của nhà nước về di sản văn hóa
Theo Luật Di sản quy định:
- Luật Di sản quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hoá
ở nước CHXHCN Việt Nam.
7


- Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn hoá thuộc sở hữu toàn dân; công
nhân và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở
hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về di sản văn hoá theo quy định của
pháp luật.
- Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng
góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
- Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu di sản văn
hóa. Chủ sở hữu di sản văn hóa có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa.
- Nhà nước đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa.
- Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân
(sau đây gọi là tổ chức) và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa.

- Các cơ quan văn hóa, thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài các giá trị di sản văn hóa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa trong nhân dân.
Di sản văn hóa Việt Nam được sử dụng nhằm mục đích:
- Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội;
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
- Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản
văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế.
Nghiêm cấm các hành vi sau đây:
- Chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa;
- Hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa;
8


- Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép; lấn chiếm đất
đai thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh;
- Mua bán, trao đổi và vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đưa trái phép di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
- Lợi dụng việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để thực hiện
những hành vi trái pháp luật.
1.2. Tổng quan về Phủ Thiên Trường Nam Định
1.2.1. Đặc điểm địa lý – kinh tế
Phủ Thiên Trường xưa (nay thuộc tỉnh Nam Định) là nơi phát tích của
Vương triều nhà Trần và được coi là kinh đô thứ hai của nước Đại Việt sau kinh
thành Thăng Long. Nam Định là một tỉnh nằm phía Nam Đồng bằng Bắc Bộ,
Việt Nam. Nam Định nắm ở 19°54′ đến 20°40′độ vĩ bắc, 105°55′ đến 106°45′ độ
kinh đông. Nam Định tiếp giáp với tỉnh Thái Bình ở phía Bắc, tỉnh Ninh Bình ở
phía Nam, tỉnh Hà Nam ở phía Tây Bắc, giáp biển ( vịnh Bắc Bộ ) ở phía Đông.

Nam Định có diện tích 1.699 km 2. Nam Định nằm ven đồng bằng sông Hồng trù
phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những
buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh phát
triển nông nghiệp, công nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí và
các ngành nghề truyền thống.
Kinh tế tỉnh Nam Định phát triển khá ổn định với tốc độ cao trong những
năm qua và bằng với mức chung của cả nước. Đầu tư ngân sách và các ngành
kinh tế tiếp tục tăng, đồng thời tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
đã tạo nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho dân cư Nam Định trong những
năm vừa qua và những năm tới.
1.2.2. Đặc điểm văn hóa – xã hội
Nam Định là mảnh đất "địa linh, nhân kiệt", nơi phát tích của triều Trần
(thế kỷ XIII-XIV) và sinh dưỡng nhiều danh nhân, danh sĩ, võ tướng mà tên tuổi
và sự nghiệp của họ đã được sử sách ghi công, nhân dân tôn thờ mà nổi bật nhất
là Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
9


Ngày nay, Nam Định là một tỉnh có bề dày văn hóa và truyền thống hiếu
học của cả nước. Sở Giáo dục cũng như Đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia
nhiều năm xếp thứ nhất toàn quốc. Trường Trung học phổ thông chuyên Lê
Hồng Phong (tức Trường Thành Chung Nam Định xưa) là một trong những ngôi
trường Chuyên nổi tiếng hàng đầu của cả nước với bề dày thành tích đáng nể
hơn 90 năm xây dựng và phát triển.
Nam Định có nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Nam Định hiện
đang bảo tồn, lưu giữ gần 4.000 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 77 di tích
cấp quốc gia, 216 di tích cấp tỉnh; có nhiều di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc tiêu
biểu như: Phủ Dầy, chùa Cổ Lễ, chùa Keo Hành Thiện, cầu Ngói, chùa Lương,
cột cờ Nam Định. Ngoài ra, còn có các di tích lịch sử văn hóa gắn với các danh
nhân như: Trạng Nguyên Nguyễn Hiền, Trạng Lường Lương Thế Vinh, nhà thơ

Tú Xương, Nguyễn Bính, khu lưu niệm cố TBT Trường Chinh…
Cùng với các di tích lịch sử văn hóa, Nam Định còn bảo tồn và phát triển
trên 80 làng nghề với các ngành nghề và sản phẩm truyền thống như: nghề chạm
khảm gỗ La Xuyên, sơn mài Cát Đằng, đúc đồng Tống Xá (huyện Ý Yên), mây
tre đan Vĩnh Hào (huyện Vụ Bản), nghề trồng hoa cây cảnh Vị Khê (huyện Nam
Trực)…
Tiểu kết
Ở chương 1, tôi đã trình bày khái quát về cơ sở lý luận về di tích và khái
quát về khu vực Phủ Thiên Trường Nam Định, những đặc điểm về kinh tế, văn
hoá, xã hội của Phủ Thiên Trường Nam Định, các khái niệm về di tích lịch sử,
văn hóa và những đường lối, chính sách của nhà nước về di tích. Đây chính là cơ
sở để tôi nghiên cứu các giá trị của di tích ở chương 2

10


Chương 2
CÁC GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH ĐỀN TRẦN
2.1. Khái quát về khu di tích Đền Trần
2.1.1. Tổng quan về Phường Lộc Vượng
Lộc Vượng là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa, truyền thống đấu
tranh cách mạng. Theo sử liệu cũ, Lộc Vượng là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi
phát tích của vương Triều Trần. Thế kỷ XIII, Lộc Vượng thuộc lộ Hoàng Giang của
nước Đại Việt. Trong đó Tức Mặc là quê hương nhà Trần. Thời Pháp thuộc, Lộc
Vượng thuộc huyện Mỹ Lộc, tổng Đông Mặc, tỉnh Nam Định. Xã Lộc Vượng
trước đây được hợp nhất trên cơ sở làng Tức Mặc, làng Kênh, làng Thượng Lỗi và
làng Vĩnh Trường. Sau nhiều lần chia tách, sáp nhập, đến tháng 01/2004, xã Lộc
Vượng được chuyển thành Phường gồm 26 tổ dân phố. Diện tích tự nhiên là
4,8km2. Dân số trên 13.000 người. Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhân dân Phường
Lộc Vượng luôn nêu cao tinh thần yêu nước, thời kỳ nào cũng góp phần tích cực

vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, quê hương.
2.1.2. Vị trí địa lý khu di tích
Đền Trần thuộc thôn Tức Mặc xã Lộc Vượng ngoại thành Nam Định,
cách trung tâm thành phố 3km. Đây là quê hương của nhà Trần, nơi sinh ra Trần
Hưng Đạo - vị anh hùng dân tộc. Khu di tích rộng tới hàng chục hecta với đền
Thiên Trường, Cố Trạch, Trùng Hoa thờ các vua Trần và Trần Hưng Đạo. Trong
chùa có hàng cây lưu niên, hàng tường bao, cửa vào, sân gạch, hồ sen với 6 con
rồng đá trườn xuống nước như sắp vẫy vùng
Là một khu đền nằm ở ngoại thành Nam Định cách quốc lộ 10
chỉ khoảng 300m tạo điều kiện thuận lợi cho khu di tích về giao thông dễ dàng
thu hút du khách khắp nơi hành hương về đây lễ phật bằng các phương tiện giao
thông khác nhau. Tại đây ngoài là một điểm thu hút du khách về đây thắp
hương, cầu khấn. Đền Trần còn là một di tích có phong cảnh hữu tình, đến đây
chúng ta còn có thể vãn cảnh chùa để quên đi những sầu muộn của cuộc sống.
Với điều kiện như vậy, hàng năm đền Trần đã thu hút rất nhiều du khách đến
11


thăm quan mang lại nguồn thu không nhỏ cho địa phương và cho ngành du lịch
của tỉnh.
2.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển khu di tích Đền Trần
Trần Miếu, tên cổ của đền Trần - Tức Mặc Nam Định. Nói đến Trần Miếu
tất có người ngỡ ngàng, song dân gian trên địa bàn hiểu ngay đây là đền Trần.
Nơi thờ Tổ tiên dòng tộc Đông - A, các vua Trần, vương phi công chúa triều
Trần cùng Trần triều Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và thân quyến của
Đại vương. Phải chăng từ xa xưa cổ nhân muốn khu thờ tự này có sự khác biệt
với các đền miếu khác nên đặt tên Trần Miếu (Trần tức họ Trần, nhà Trần, Miếu
có nghĩa đền thờ Thánh, Thần lại còn hàm ý chỉ cung điện của các bậc đế
vương). Cụ thể hơn là miếu nhà Trần, nơi thờ tự có liên quan đến cung điện Thái
thượng hoàng, phủ đệ của các vương hầu.

Dân gian cũng phân biệt miếu nhà Trần khác hẳn Văn Miếu thờ Khổng
Tử, hoặc văn từ, văn chỉ thờ Tiên hiền ở các địa phương. Lại càng khác xa các
miếu nhỏ thờ Thổ Thần thuộc các làng xã. Nói vậy để khẳng định tầm cỡ Trần
Miếu, một công trình thờ tự đặc biệt trên quê vua mà xa xưa có cung điện, tẩm
miếu của Thượng hoàng cùng tự quân vương triều Trần. Vậy miếu nhà Trần có
từ bao giờ?
Trần miếu là danh từ riêng chỉ công trình thờ tự của họ Trần đại tông, liên
quan đến vùng đất quê vua, có cung điện từ đầu thế kỉ XIII một thời vang bóng.
Trần Miếu gồm tổng thể cả hai công trình Thượng miếu và Hạ miếu. Thượng
miếu còn gọi đền Thiên Trường, Hạ Miếu thường gọi đền Cố Trạch.
Theo “Nam Mặc miếu trạch bi ký” niên hiệu Duy Tân cửu niên
thì khoảng năm Thiên Ứng Chính Bình (1232 -1250) Phùng Vương về tạo dựng
Trần Miếu trên nền cũ của nhà thờ họ Trần. Nhưng theo sử liệu thì miếu
thờ nhà Trần đã có trước năm Tân Mão (1231) và chính Trần Thái Tông đã về
làm lễ vào tháng 8 năm ấy, lại ban yến tiệc cho các bô lão trong hương. Vậy
miếu nhà Trần đã có từ rất sớm, Phùng Vương về tôn tạo có thể vào năm 1239,
cũng làm trên nền nhà thờ cũ. Điều này chứng tỏ các bậc Tiên tổ nhà Trần rất
quan tâm đến cội nguồn. Và nếu dựa vào “Phả hệ bảo tích” thì cụ Thuỷ tổ Trần
12


Kinh về khu Tức Mặc đã mau chóng dựng nhà ở, cũng như thiết lập từ đường
tạo phúc cho dòng họ và con cháu mai sau..Nếu đúng thế thì nhà thờ phải có
trước thời kì Thái Tông về thăm quê hàng nhiều thập kỉ.
Những công trình thờ tự của Đông - A dù có từ rất sớm, hoặc vào đầu thế
kỉ XIII cũng đã lui vào dĩ vãng. Ngay nhà từ tái lập năm Chính Hoà thập ngũ
niên mà văn tự “ Trần thị đại tông từ đường” thôn Tức Mặc ghi, hoặc như câu
đối tại Thượng miếu cũng chỉ tồn tại rất ít cấu kiện, trong đó có ngạch, ngưỡng
và bộ cánh cửa chạm lưỡng long chầu nguyệt, hiện còn lưu tại đền Thượng mà
thôi. Lại công trình mở rộng vào niên hiệu Long Đức thứ hai (1733) cũng đâu

còn nhiều dấu tích. [5; Tr.334].
Trong cuốn: " Di tích lịch sử văn hóa đền Trần chùa Tháp" của Trịnh Thị
Nga có ghi: "Sang thời Nguyễn, Trần Miếu được trùng tu dưới thời Tự Đức
ngũ niên (1852), rồi Tự Đức Mậu Thìn (1868) được cải tạo mở mang thêm cũng
không còn nguyên vẹn". Nhưng kiểu dáng kiến trúc, phong cách vẫn giữ dấu ấn
văn hoá thời Nguyễn. Người xưa đánh giá việc hưng công đền thờ vua là quan
trọng nên thời gian trùng tu được ghi trên tấm biển lớn hai chữ “Trần Miếu” và
hàng chữ nhỏ ghi: Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi lục, tuế tại Quý Sửu lục
nguyệt thượng cán, phụng chỉ xuất khố tiền trùng tu. Mười sáu năm sau Trần
Miếu lại tiếp tục sửa chữa nên trên câu đầu gian giữa toà tiền đường Thượng
Miếu ghi: Tự Đức Canh Ngọ hạ - Mùa hè năm Canh Ngọ niên hiệu vua Tự Đức
-1868.
Có lẽ tổng thể quy trình kiến trúc thời kì này chưa hoàn chỉnh, bình diện
chưa đáp ứng yêu cầu tín ngưỡng đối với khách hành hương, cũng như cộng
đồng làng xã, con cháu họ Trần nên dưới triều vua Thành Thái và đầu niên hiệu
Duy Tân ( cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20) Thượng miếu được tôn tạo, đồng thời
phục dựng Hạ miếu, làm thêm cổng ngõ, hồ nước mặt tiền, ngũ môn… Khiến
tổng thể khu vực hài hoà đẹp mắt, tạo một bình diện toà ngang dãy dọc ẩn hiện
dưới bóng cây xanh, cây đại thụ trên khoảng đất cao ráo rộng tới tám hecta. Đây
lại là đắc địa bởi có thế ngoạ long, theo thuyết phong thuỷ là rất quý hiếm.
Thượng miếu thờ vua, đế hậu, đế phi cùng các bậc Thuỷ tổ tộc Đông - A.
13


Hạ miếu thờ Hưng Đạo đại vương cùng thân quyến, tả hữu tướng lĩnh, nhưng
trong tín ngưỡng thì có sự khăng khít. Dân gian về khu Trần miếu trong dịp
Xuân - Thu nhị kì, ngay cả những ngày kỉ niệm các vua ở Thượng miếu đều
xuống lễ ở Hạ miếu và ngược lại.
2.1.4. Kiến trúc của khu di tích Đền Trần
Đền Trần là một đền thờ tại đường Trần Thừa phường Lộc Vượng, thành

phố Nam Định, là nơi thờ các vua nhà Trần cùng các quan lại có công phù tá nhà
Trần. Đền Trần được xây dựng trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần đã bị quân
Minh phá hủy vào thế kỷ XV.
Đền Trần bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là đền Thiên Trường (hay
đền Thượng), đền Cố Trạch (hay đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền,
phải qua hệ thống cổng ngũ môn [Phụ lục ảnh 1; Tr. 35]. Trên cổng ghi các chữ
Hán Chính nam môn (cổng chính phía nam) và Trần Miếu (Miếu thờ nhà Trần).
Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật có tên là giếng ngọc [Phụ lục ảnh 2;Tr.
35]. Chính giữa phía sau hồ nước là khu đền Thiền Trường. Phía Tây đền Thiên
Trường là đền Trùng Hoa, phía Đông là đền Cố Trạch.
Cả 3 đền đều có kiến trúc chung, và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm
tòa tiền đường 5 gian, tòa trung đường 5 gian và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền
đường và trung đường là kinh đàn (thiêu hương) và 2 gian tả hữu vu.
Đền Thiên Trường [Phụ lục ảnh 3; Tr. 36] được xây trên nền Thái miếu và
cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ họ của họ Trần. Cung
Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Đền Trần
hiện nay được dân địa phương xây bằng gỗ từ năm Chính Hòa thứ 15 (tức năm
1695). Các năm 1773, 1854, 1895, 1907-1908, đền được mở rộng và xây thêm
Đền Thiên Trường hiện tại gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm,
siêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây.
Tổng cộng có 9 toa, 31 gian. Khung đền bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch.
Tiền đường của đền Thiên Trường gồm 5 gian, dài 13 mét. Mặt ngoài tiền
14


đường có hình 2 con rồng ở lối vào được khắc bằng đá [Phụ lục ảnh 4; Tr. 36].
Có 12 cột cái cùng 12 cột quân, tất cả đều được đặt trên chân tảng bằng đá hình
cánh sen có từ thời Trần là chân cột cung Trùng Quang cũ. Tại đây có đặt ban
thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần
Sau tiền đường là trung đường là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần [Phụ

lục ảnh 5; Tr. 37]. Tuy nhiên, không có tượng thờ mà chỉ có bài vị. Trước cửa
trung đường có ba cỗ ngai là nơi thờ bái vọng các vị hoàng đế.
Sau trung đường là chính tẩm gồm 3 gian. Đây là nơi thờ 4 vị thủy tổ của
họ Trần và các phu nhân chính của họ ở gian giữa. Các hoàng phi của nhà Trần
cũng được đặt bài vị thờ ở 2 gian trái, phải.
Tòa thiêu hương (hay kinh đàn) là nơi đặt ban thờ và bài vị của các công
thần nhà Trần. Có ban thờ riêng cho các quan văn, và ban thờ riêng cho các quan
võ.
Đền Cố Trạch [Phụ lục ảnh 6; Tr. 37] nằm phía Đông của đền Thiên
Trường. Nhìn từ sân, là bên phải đền Thiên Trường. Đền Cố Trạch được xây vào
năm 1894. Theo bia Trùng kiến Hưng Đạo thân vương cố trạch bi kí, thì lúc tu
sửa đền Thiên Trường năm 21 đời Tự Đức (năm 1868), người ta đào thấy ở phía
Đông đền Thiên Trường một mảnh bia vỡ có ghi chữ Hưng Đạo thân vương cố
trạch (nhà cũ của Hưng Đạo thân vương). Do đó khi xây đền này vào năm 1894
khánh thành vào năm 1895, đền được đặt tên là Cố Trạch Từ (đền nhà cũ). Đền
Hạ là tên thường gọi.
Đền Cố Trạch đặt bài vị của Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Tiền
đường của Đền Cố Trạch là nơi đặt bài vị của 3 gia tướng thân tín của Trần
Hưng Đạo, đó là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa [Phụ lục ảnh 7;
Tr. 38]
Thiêu hương (kinh đàn) là nơi đặt long đình trong có tượng Trần Hưng
Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Bên trái đặt bài vị các quan văn. Bên phải đặt bài vị
15


của các quan võ.
Gia tả vu là nơi đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các bài
vị văn thần triều Trần
Gian hữu vu là nơi đặt bài vị võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các
thân nhân họ Trần.

Tòa trung đường là nơi đặt bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo [Phụ lục
ảnh 8; Tr. 38], bài vị của 4 người con trai, của Phạm Ngũ Lão và các tả hữu
tướng quân.
Tòa chính tẩm là nơi đặt bài vị của cha và mẹ Trần Hưng Đạo, của Trần
Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), của 4 người con trai và 4 người con
dâu của Trần Hưng Đạo, của con gái và con rể (Phạm Ngũ Lão).
Đền Trùng Hoa [Phụ lục ảnh 9; Tr. 39] mới được chính quyền tỉnh Nam
Định với sự hỗ trợ về kinh phí của chính phủ xây dựng từ năm 2000. Đền được
xây trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các đương kim hoàng đế nhà Trần về
tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng bằng
đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm [ Phụ
lục ảnh 10; Tr. 39]. Tòa thiêu hương là nơi đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các
quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ.
2.2. Các giá trị của di tích Đền Trần.
2.2.1. Giá trị lịch sử
* Công trình thờ tự tại Thượng miếu.
Thượng miếu còn gọi là đền Thiên Trường, đền Thượng là nơi thờ mười
hai vị vua thời chính thống và hai vua thời hậu Trần, tổng cộng mười bốn đời
vua.
Trên các ban đều có ngai rồng cùng bài vị chạm khắc tứ linh, sơn son
thiếp vàng lộng lẫy, cũng là điều thể hiện sự kính trọng theo cách truyền
thống.Tại toà đệ nhị, gian chính giữa có ban thờ trên bài trí long ngai, long bài
16


ghi hàng chữ: “ Trần triều liệt miếu tiên hoàng đế thần vị” (Thần vị vua các vua
vương triều Trần tại miếu thờ). Phía sau ban thờ liệt miếu mang tính chất chung
có ba ban và trên các ban đều có long ngai, long bài ghi thần hiệu hoàng đế.
Trong số mười bốn hoàng đế, tuy xếp hàng theo hàng ngang, nhưng các vị Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông là những bậc

quan vương tiêu biểu, lại là các vị mở nghiệp đế cũng như giữ gìn phát huy chế
độ quân chủ, cha truyền con nối, không chỉ làm cho tông miếu xã tắc hiển vinh,
mà còn làm cho quốc gia, dân tộc rạng danh nên được bài trí trang trọng ở gian
chính giữa. Hai ban ở phía Đông và phía Tây, mỗi bên bài trí thờ năm vị vua
theo cổ lệ của miếu Tức Mặc, đến ngày nay vẫn được trân trọng.
Trong các vị vua thờ tự hai bên thì mỗi vị vua đều có những truyền thuyết
về lịch sử như: Vua Trần Minh Tông hoàng đế cũng là vị vua hiền nhưng
cuối đời mắc phải lỗi giết oan nhạc phụ nên ít nhiều ảnh hưởng đến triều chính.
Đời Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông rồi Trần Duệ Tông tuy đều
là con thượng hoàng Minh Tông nhưng anh em được thay nhau làm vua bởi
thiếu đội ngũ thái tử kế cận, làm mất đi chế độ cha truyền con nối mà hàng ngàn
năm đã có trên bản địa. Các triều vua này lại hạn chế việc phát huy đức sáng của
tổ tiên, cũng như thiếu vững vàng chèo lái con thuyền Đại Việt khiến nội trị suy
kém, việc chế ngự ngoại bang không thành sự. Vua Trần Duệ Tông tử trận, con
trai 16 tuổi được nối ngôi tức Trần Phế Đế. Nhưng vì nhu nhược nên 12 năm sau
bị phế truất (1388). Ông vua thứ 11 lên thay lại là con út thượng hoàng Nghệ
Tông, anh họ Trần Phế Đế, lên ngôi năm 11 tuổi, 9 năm sau bị truất ngôi rồi xuất
gia và bị giết. Ông vua thứ 12 là Trần Thiếu Đế, 3 tuổi lên ngôi và chỉ vài năm
sau bị phế truất (1398-1400). [3; Tr. 230]
Như vậy Thượng miếu ở toà chính điện, dân gian còn gọi chính tẩm,
thờ 14 vị hoàng đế. Điều đặc biệt là mỗi hoàng đế đều được ghi duệ hiệu đặt
trên long ngai riêng và được sắp xếp theo hàng ngang ở các gian.
Việc tôn thờ ở Trần Miếu có từ lâu đời và được các triều đại nối tiếp quan
tâmđến việc xây dựng, mở mang nơi thờ tự, cũng như ban cấp sắc phong.
Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, hiện tại chỉ còn 9 đạo sắc thời Lê Vĩnh Thịnh
17


thứ 6 (1710) và một đaọ niên hiệu Tự Đức thứ 33(1880).
Hậu cung Thượng miếu tuy chỉ có ba gian ở phiá sau toà đệ nhị, nhưng

tiền nhân bố trí thờ tự khá phong phú. Gian giữa đắp nổi bức đại tự với bốn
chữ “ Triệu vượng cơ tích” ( Dấu vết ban đầu lập nghiệp). Phía dưới có khám
thờ. Trong khám có bày hai hàng bài vị:
Hàng phía trong bao gồm ba bài vị 1, 2, 3 ghi: “Trần triều truy tôn hoàng
đế thần vị”(Ngôi thần của các vị Thuỷ tổ vương triều Trần)
Hàng bên ngoài cũng có ba bài vị, bài vị số 4 ghi: “Trần triều truy tôn
Mục Tổ hoàng đế, Ninh tổ hoàng đế, Nguyên Tổ hoàng đế, Thái tổ hoàng đế”
(Ngôi thần được triều Trần truy tôn: Mục Tổ (Trần Kinh), Ninh Tổ (Trần Hấp),
Nguyên Tổ (Trần Lý), Thái Tổ (Trần Thừa ) là bậc hoàng đế. Đây là bốn cụ tổ
họ Trần về định cư lập nghiệp ở Tức Mặc rồi sang Thái Đường, từ đây mà sinh
ra các con cháu đem vinh quang cho dòng họ cũng như dân tộc.
Bài vị số 5 ghi việc truy tôn phu nhân của các cụ tổ vừa nêu là bậc Hoàng
thái hậu: “Trần triều truy tôn Mục Từ hoàng thái hậu, Nguyên Từ hoàng thái
hậu, Quốc Thánh hoàng thái hậu” (Truy tôn phu nhân của các cụ tổ là Mục Từ,
Ninh Từ, Nguyên Từ hoàng thái hậu, Quốc Thánh là Hoàng thái hậu của triều
Trần)
Riêng đối với Thái Tổ Trần Thừa là người sinh ra vua, được ghi thêm bài
vị, có sự truy tôn đặc sắc hơn (bài vị số 6): “Trần triều Hiếu Tổ truy tôn Thái
thượng hoàng, hiệu thuỵ khai vận lập cực thuỳ dụ chí hiếu hoàng đế thần
vị”(Triều Trần truy tôn ngôi thần cho Hiển Tổ là Thái Thượng Hoàng, tên thuỵ
có công mở vận hội lập vương triều, đáng bậc hoàng đế rất mực có hiếu).
Hậu cung còn có hai gian tả hữu. Gian bên phải được đắp nổi hai
chữ “Khôn thừa” (Quẻ khôn, ví với đất, nói về đức hạnh phụ nữ). Ban thờ có bài
vị đặt trên long ngai ghi: “Trần triều đế hậu liệt vị” (Ngôi thần các vị hoàng hậu
của nhà Trần). Như vậy đây là bài vị thờ chung tất cả các vị được tôn là hoàng
hậu, người đứng đầu cai quản trong nội cung, có vai trò rất quan trọng. Các vị đế
hậu triều Trần, phần đa xứng đáng bậc quốc mẫu như Thuận Thiên hoàng hậu,
Thiên Cảm hoàng hậu, Khâm Từ hoàng hậu… Các vị này đã góp phần nội trị,
18



giúp vương triều thuận chiều mát mái, cố kết nhân tâm để hoàng tộc, vua tôi
chăm lo việc nước, góp phần đưa việc trị quốc an dân đạt thành quả đáng kể mà
sử sách đã có những chương mục ca ngợi.
Gian bên trái có đại tự “ Tốn thuận”. Ban thờ ở đây có bài vị “ Trần
triềuđế phi liệt vị” (Ngôi thần các bà hoàng phi của các hoàng đế). Các hoàng
phi thường là các những người trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn, phần lớn các hoàng
phi triều Trần là những người xác định phận sự tuân thủ quy tắc hậu cung. Nhiều
người còn tỏ rõ đức độ như Lệ Trinh nguyên phi thời Trần Thái Tông, là người
rất thương dân, khuyến khích việc nông trang, mở chợ cho dân trao đổi hàng
hoá, giúp đỡ người nghèo. Bà còn lập chùa thờ Phật để đôi khi hoàng đế tới
thăm có nơi phụng đạo.
Việc thờ tự tại Thượng miếu nhìn chung từ công trình đến bài trí, đồ
thờ tự còn đơn giản, chưa được ngang tầm với vị thế, cũng như công lao của các
bậc Tiên quân hoàng đế, cũng như hoàng hậu, vương phi triều Trần
* Công trình thờ tự tại Hạ miếu.
Tại Hạ miếu ngoài cùng là tiền đường, tiền đường thường to rộng hơn các
tòa khác, nơi thường diễn ra hành lễ, do vậy ít bài trí ban thờ. Tại gian giữa tiền
đường có ban thờ chung, trên có long ngai bài vị ghi:
“-Trần triều nhập nội thị Thái úy Phò mã Đô úy Nguyễn An Nghĩa tôn
thần” (Vị tôn thần Nguyễn An Nghĩa là con rể vua, chức Thái uý triều Trần)
“-Trần triều Phạm Điện súy Thượng tướng quân Quan nội hầu tôn thần”
(Vị tôn thần Phạm Ngũ Lão Điện súy Thượng tướng quân tước Quan nội hầu
triều Trần”
“-Trần triều Tham tán quân vụ Phạm tôn thần” (Vị tôn thần Phạm Ngộ,
tham mưu việc quân dưới vương triều Trần)
Ba vị trên là danh tướng, trợ tá đắc lực giúp Hưng Đạo đại vương trong
sự nghiệp chống đế quốc Mông Nguyên thế kỷ XIII. Và tại đây, các vị hiện diện
ở cung ngoài, như sẵn sàng chờ lệnh giúp đại vương trợ thuận cho muôn dân
theo sở cầu của trăm họ.

Phía trong tiền đường là tòa thiêu hương làm kiểu phương đình bốn mái
19


cong cong. Trong thiêu hương có đặt long đình, đặc biệt trong long đình chạm
bức phù điêu tượng Phật tam thân, theo kiểu dáng ba tòa ở các chùa( Phật thời
quá khứ, Phật thời hiện tại, Phật thời tương lai). Dưới hàng tượng tam thân( còn
gọi tam thế) có bức phù điêu “Trúc Lâm tam tổ” ( phái Trúc Lâm do đệ Nhất tổ
Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa, đệ tam tổ Huyền Quang). Hai bên siêu
hương có hai dãy nhà nhỏ tạo sự khép kín nơi tôn nghiêm. Nhà bên Đông thờ
“Võ ban huân thần liệt vị”(các võ tướng, nhất là lục bộ tướng tâm huyết phù tá
Đại vương đánh giặc). Lại có cả bài vị “Trần gia chính phái liệt vị”(Các vị thuộc
chính phái họ Trần). Tòa bên Tây thờ “Văn ban huân thần liệt vị” (các văn thần
có công lao). Và có bài vị thờ : “ Hiệp biện Đại học sỹ, Nhập nội Hành khiển
Trương tôn thần”. Đây là vị văn thần đạo cao đức trọng Trương Hán Siêu, được
Hưng Đạo đại vương tin cẩn.Ở đây còn có bài vị thờ : Hiệp biện Đại học sỹ lĩnh
Định - An Tổng đốc Phạm Thiện Nhân. Đây là bài vị thờ tổng đốc Phạm Văn
Toán, người có nhiều công lao xây dựng miếu nhà Trần (kể cả đền Thượng cũng
như đền Hạ). [3; Tr. 250]
Tòa đệ nhị có đại tự: “Hưng Đạo thân vương cố trạch” khắc năm Đinh
Dậu (1897) dưới triều vua Thành Thái. Qua nội dung đại tự khách hành hương
hiểu đây là nơi nhà cũ của Đại Vương. Phần bài trí thờ tự tại tòa đệ nhị như sau:
Gian giữa ở vị trí trung tâm có ngai, bài vị:” Trần triều Thái sư Thượng quốc
công Hưng Đạo đại vương. Phía trước bài vị thờ là thần tượng Hưng Đạo đại
vương rất uy nghi, cũng vị trí trung tâm, hai bên có ngai cùng bài vị:
- “Trần triều Thánh tử tứ vị Đại vương tôn thần chi vị”(bài vị bốn Đại
vương tôn thần, con của đức Thánh trần)
- “Trần triều Điện súy Thượng tướng quân, quan nội hầu Phạm Ngũ lão
đại vương tôn thần” (Tôn thần Điện súy Thượng tướng quân, tước quan nội hầu
Phạm Ngũ Lão đại vương).

Gian bên phải có ban thờ, ngai, bài vị đề: “Trần triều hữu bộ tướng tòng
tiền liệt vị” (bộ tướng giúp triều Trần, được thờ phụ); “Trần triều tả bộ tướng
tòng tự liệt vị” (tả bộ tướng được phối thờ cùng đại vương). Các vị tả, hữu bộ
tướng là những người hiền giúp triều đình trong sự nghiệp bình nguyên và trị
20


quốc an dân, phải kể đến tứ vị vương tử là con của Đại vương, cùng với Yết
Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm...
Chính tẩm (còn gọi tòa đệ nhất), công trình này gồm ba gian thiết kế lối
trùng thiềm, các cấu kiện như cột, xà, câu đầu..làm theo lối cũ. Gian giữa bài trí
ban thờ lớn, phía trong đặt khám thờ có bài thị Vương phụ, Vương mẫu.
1. Hiển Thánh khảo An Sinh Vương, truy phong Khâm Minh đại vương
thần vị (Thân phụ của Đại vương là An Sinh Vương, truy phong Khâm Minh đại
vương thần vị).
2. Hiển Thánh tỷ An Sinh Vương phu nhân, truy phong ThiệnĐạo quốc
mẫu thần vị (Thân mẫu của Đại Vương là An Sinh Vương phu nhân, truy phong
Thiện Đạo quốc mẫu thần vị).
3. Thân vương Khâm sai Tiết chế thiên hạ chư quân, Thái sư Thượng
phụ Thượng quốc công Nhân vũHưng Đạo đại vương thượng đẳng thần, thần
vị(Thần vị Thân vương Khâm sai Tiết chế thiên hạchư quân, Thái sư Thượng
phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương thượng đẳng thần)
4. Hưng Đạo đại vương phu nhân, hiệu Thiên Thành công chúa, truy
phong Nguyên Từ quốc mẫu, sắc phong Thiên Uy thái trưởng công chúa (Thần
vị phu nhân của Hưng Đạo đại vương hiệu là Thiên Thành công chúa, truy
phong là Nguyên Từ quốc mẫu, sắc phong là Thiên Uy thái trưởng công chúa)
5. Giữa hai long bài 3 và 4 nêu trên còn có cỗ khám nhỏ trong có bài
vị ghi như trên, lại có ván che ngoài (hãm trung) xin coi đây là cỗ khám
thờ chung Đại vương và phu nhân.
Hai bên gian giữa đều có ban thờ ở phía Đông và phía Tây.

Phía Đông thờ các vị phu nhân của Vương tử vàcác vị Công chúa
Phía Tây thờ bốn vị con của Đại vương và con rể Điện Súy, thượng tướng
Phạm Ngũ Lão
Các bài vị ở gian phía Đông gồm:


Hưng vũ Đại vương nhất phẩm phu nhân



Hưng Nhượng đại vương nhất phẩm phu nhân



Hưng Hiến đại vương nhất phẩm phu nhân
21




Hưng Chí đại vương nhất phẩm phu nhân
(Các vị phu nhân ghi chung bài vị số 6)
Một long bài khác ghi hai Công chúa đó là:



Đệ Nhất công chúa Nhân Miếu hoàng hậu (vợ Nhân Tông hoàng đế)




Đệ nhị Thủy Tiên Công chúa Điện súy phu nhân (Vợ đại quan Điện súy Phạm
Ngũ Lão và là con gái nuôi Đại Vương)
Gian phía Tây thờ bốn Vương tử gồm:



Trần triều vương tử Khai Quốc công Hưng Vũ đại vương thần vị



Hưng Nhượng đại vương thần vị (Trần Quốc Tảng)



Hưng Hiến đại vương thần vị



Hưng trí đại vương thần vị
Một bài vị khác cũng đặt trên ngai (số 9) ghi: Trần triều vương tế Điện
súy Thượng tướng quân, quan nội hậu Phạm Tôn thần thần vị. [3; Tr. 260]
Như vậy đền Trần là nơi thờ tự gia tộc nhà Trần, triều đại hưng thịnh nhất
Việt Nam. Một triều đại có bộ máy tập quyền thống nhất trên tất cả mọi mặt: văn
hóa, giao thông, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Và cũng nhờ có chính sách
thân dân nên các vua Trần đã xây dựng nên khối đại đoàn kết toàn dân trong thời
bình và nhất là trong thời chiến. Trong đó vai trò hoàng đế thật vô cùng lớn lao.
Các vị hoàng đế thời Trần trị vì gần hai thế kỷ có đến 2/3 thời gian làm cho non
nước Đại Việt hùng cường, để lại những mốc son, những ấn tượng tốt đẹp trong
dân gian về võ công - văn trị cho dân tộc và nó trở thành truyền thống vàng son
cho đất nước. Đặt tiền đề huy hoàng cho những trang sử của các triều đại kế

tiếp, cũng như thời đại mới của chúng ta. Qua việc thờ tự các vua Trần cho thấy
được sự ngưỡng mộ của nhân dân ta đối với thế hệ cha ông đi trước đó chính là
truyền thống uống nước nhớ nguồn của nhân dân Việt Nam ta.
2.2.2. Giá trị kiến trúc, nghệ thuật của di tích Đền Trần.
Trong kiến trúc quần thể Đền Trần thì công trình trung tâm là Thượng
miếu. Thượng miếu có nội dung thờ tự một phần của Tiên miếu mà năm 1231
Trần Thái Tông về làm lễ nhưng vị trí nhà từ xưa có ở trên nền Thượng miếu
không? Điều này khó có thể chứng minh bằng phế tích công trình. Nhưng theo
22


truyền thuyết cùng bản ghi “Trần thị đại tông từ đường” thì sau tai họa giặc
Minh, Lê Thái Tổ thống nhất giang sơn, con cháu họ Trần tìm về khu Khang
Kiện, khu Động Kính và khu Bái Thôn của hương Tức Mặc tái định cư lập
nghiệp, hình thành các chi phái như Trần Huy, Trần Đăng, Trần Thế.
Một vài tài liệu khác của hậu duệ Đông - A còn khẳng định công trình này
ban đầu có ba gian bằng gỗ lim và lợp vào năm Chính Hoà thập ngũ niên.
Cũng theo tài liệu và di ngôn dân gian thì sau ba mươi năm, vào niên
hiệu Đức Long, Trần miếu được làm thêm năm gian tiền tế bằng gỗ lim, nhưng
vẫn lợp tranh. Sang thời Nguyễn Tự Đức, triều đình quan tâm, các quan chức
hàng tỉnh, huyện hết lòng vào công việc tu sửa tôn tạo, thay mái tranh bằng mái
ngói. Vào cuối thế kỉ XIX(1895) rồi niên hiệu Thành Thái thứ 15 (1903), tiếp
đến niên hiệu Duy Tân đầu thế kỷ XX Trần miếu lại được tu sửa phần ngoại
thất, như xây dựng ngũ môn, tạo hồ nước trước công trình, đắp đôi voi chầu tại
sân Thượng miếu. Như vậy các hạng mục ngoại thất được kiến tạo cách đây
khoảng 100 năm. Nó trở thành di sản vật thể cùng với toà ngang dãy dọc trên
khu vực miếu cổ nhà Trần tạo nên thắng tích, góp phần cho trang sử vàng Đông
- A thêm lung linh màu sắc.
Thượng miếu nằm trên khu đất cao ráo, có thể khẳng định là vị trí trung
tâm của tổng thể miếu đền nơi đây. Toàn bộ công trình làm theo trục đối xứng

Bắc - Nam bao gồm chính điện (chính tẩm) tả, hữu vu, siêu hương (thiêu
hương), tiền tế, ống muống (nhà nhỏ hai bên tiền tế), tả, hữu giải vũ, Ngũ môn
(Ngọ môn) với 10 toà lớn nhỏ, được bố cục đăng đối hài hoà đẹp mắt. Bình diện
công trình có sân trong (còn gọi sân rồng) với hàng rồng đá từ trên thềm cao
năm cấp nhao xuống, cùng hàng gạch hoa trên đường chính đạo (gạch phục chế
theo mẫu từ thời Trần). Sân rồng còn có tường bao, đồng trụ, đôi voi lớn đứng
chầu hai bên dưới bóng cây bàng cổ thụ, khiến ngoại thất nơi tẩm miếu thoáng
đãng, sáng chiều đều râm mát gợi cảm. Phía ngoài sân rồng là hồ nước rộng
hàng mẫu, xung quanh có vườn cây cảnh, cây lưu niên, cây cổ thụ toả bóng
nghiêng ngả trên hồ, hoà quyện với cột trụ, tường hoa, mái ngói cùng mây trời
như thêu dệt bức tranh thuỷ mặc Trần miếu. Phía ngoài hồ nước có sân giữa với
23


hàng cây cổ thụ nhiều dáng vẻ, rồi Ngũ môn cổ kính, hoành tráng với ba chữ lớn
tạc trên đá “Chính Nam môn” như nhắn nhủ cho hiện tại và mai sau, phải quay
về phía Nam, hoài tưởng hương Tức Mặc quê vua như văn bia có ghi “ Cố đế
hương dã”.
Tổng thể các toà Thượng miếu từ chính điện, siêu hương, tả hữu vu,
tiền đường, ống muống, giải vũ rồi Ngũ môn tuy lớn nhỏ khác nhau, bộ mái
khác nhau nhưng đồng phong kiến trúc thời Nguyễn, lại khiêm tốn việc gia công
nghệ thuật điêu khắc ở cấu kiện công trình, như một số đền, đình tín ngưỡng
khác, nhất là phục chế đúng nếp cũ của Trần miếu thế kỷ XVII, như chạm khắc
rồng trên bộ cửa ở toà tiền tế hiện còn lưu. Những toà ngang dãy dọc chính, phụ
được bố cục có thấp, có cao vừa trải rộng, vừa vươn dài theo thế tay ngai. Trên
trăm mét chiều rộng, hàng trăm mét chiều dài được vươn dần về phía Nam tạo
một không gian mênh mông trữ tình, đượm thi vị.
Chính điện có chiều dài 13m20 rộng gần 12m là công trình thiết kế không
cầu kì nhưng to, cao theo lối cổ chồng diêm, lại cách tân thành ba gian cuốn hậu
cung tạo thêm cung thờ tự. Chính điện thờ 14 vị hoàng đế, hậu cung thờ Tiên tổ

cùng các hoàng hậu, hoàng phi. Hạng mục chính điện cao trên 7m, phần hiên
rộng 4,2m khiến diện tích hiên khá thoải mái, khách hành hương có thể đứng
ngoài bái vọng. Ban khánh tiết Thượng miếu cũng đã tạo hương án tại hiên ở
gian chính giữa, phía dưới chữ đại tự “Thiên Trường cung”, đáp ứng nhu cầu
dâng hương của đông đảo bà con. Phía trên hai bộ cửa lớn ở hai bên chạm đề tài
tứ quý công phu nghệ thuật, còn treo hai đại tự lớn “Trùng quang”, “Trùng Hoa”
ghi lại kỉ niệm 744 năm trước, nơi đây vương triều xây dựng cung riêng để
Thượng hoàng về ở và làm cung Trùng Hoa cho các hoàng đế đương nhiệm ở
kinh đô lui về thăm hỏi sức khoẻ Thượng hoàng, hoặc bẩm báo, đệ trình những
quốc sách quan trọng.
Phía trước chính điện là công trình siêu hương. Đây là toà mái cong bốn
mái, nhằm làm dịu sự khô cứng của các hạng mục mái chảy ở 4 phía. Siêu
hương thiết kế lối phương đình có cạnh 6m40, chiều cao hài hoà với tổng thể
kiến trúc xung quanh, tạo sự thông thoáng sáng sủa chung. Bộ khung của siêu
24


hương dựa vào bốn cột có đường kính 45cm. Đây là các đại trụ chịu lực, bằng
gỗ lim nổi vân núi đa dạng. Cột làm kiểu búp đòng nên to, cao mà vẫn như
thanh thoát. Chân cột tỳ trên tảng cánh sen có cạnh 70cm, đục cầu kì theo kiểu
chân tảng hoa sen thời Trần. Nền nhà được lát bằng lớp gạch hoa thời Trần
(phục chế) nên càng tăng thêm vẻ đẹp. Hai bên Đông-Tây siêu hương có hai toà
nhà nhỏ, mỗi toà ba gian là kiểu trụ, câu đầu cổ truyền, là nơi thờ các quan văn,
võ tướng giúp vua trị quốc an dân, cũng như xông pha trận mạc bảo vệ đất nước.
Phía trước siêu hương là toà tiền đường (nhà lễ phía trước chính điện).
Công trình này có năm gian, dài 13m, rộng 6m làm kiểu bít đốc có bờ, bảng, trụ
hồi, kìm nóc theo kiểu dáng thời Nguyễn.Trên câu đầu còn ghi “Tự Đức Canh
Ngọ hạ”, song trên đại tự lớn ghi “Trần Miếu” theo kiểu thư pháp lại có hàng
chữ nhỏ “ Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi lục, tuế tại Quý Sửu lục nguyệt
thượng cán, phụng chỉ xuất khố tiền trùng tu” tức là miếu thờ của nhà Trần,

được xuất tiền từ công quỹ quốc gia để tu sửa vào năm Tự Đức thứ 6. Điều này
chứng tỏ công trình có sự ưu ái của nhà nước.
Nhưng đáng lưu tâm nhất là bộ cánh cửa gian giữa toàtiền đường. Bộ cửa
gồm hai cánh chạm “lưỡng long tranh châu” (hai con rồng giành ngậm ngọc).
Cửa cao gần hai mét làm kiểu chân quay, đặt trên bạo cửa và ngạch ngưỡng lối
cổ. Nghệ nhân nhấn, tỉa đôi rồng khoẻ mạnh làm đang thè lưỡi nhe răng, trợn
mắt, vểnh râu cùng lớp lớp lá hoả, khiến đôi rồng được nhân lên vẻ hùng dũng.
Nhìn kĩ còn thấy bốn con rồng nhỏ cùng đôi ly đang nép mình dưới những khúc
rồng uốn éo như trông cậy lão long che chở. Khung, bạo cửa cũng được tạo hoa
văn, lá hoả và đôi rồng nhỏ chầu thật mềm mại, khiến hoạ tiết lão long thêm vẻ
oai phong, đường vệ. Và đây chắc là tác phẩm điêu khắc của thế kỉ 17 còn sót
lại, đánh giá nhiệt tình của con cháu họ Trần, đã góp công, góp của tạo cho nhà
từ những cấu kiện kỳ công, sáng giá.
Tiền tế xây dựng trên nền cao, phần hiên rộng được tiếp liền với hệ thống
bậc lên xuống năm cấp bằng đá tảng kiến tạo công phu. Và để tạo vẻ tôn nghiêm
khi bước lên tiền tế, người ta thiết kếhai đôi rồng đá từ trên hiên nhao xuống.
Rồng làm theo phong cách thời Nguyễn, được chạm họa tiết cầu kỳ, oai phong.
25


×