Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thực trạng tuân thủ pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.04 KB, 44 trang )

Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

LỜI MỞ ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó không chỉ tạo ra
của cải vật chất nuôi sống con người, cải tạo xã hội mà nó còn mang lại những
giá trị tinh thần làm phong phú thêm cho đời sống con người. Tuy nhiên, để các
sản phẩm của lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao không phải là
chuyện dễ dàng. Sức lao động của con người không phải là vô tận, mà nó sẽ cạn
kiệt nếu không được kịp thời phục hồi. Vì thế, việc quy định một thời giờ làm
việc hợp lý, thời giờ nghỉ ngơi thích hợp sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với
chất lượng lao động.
Quốc Oai là một huyện ngoại thành cách trung tâm thủ đô Hà Nội 19km
về phía Tây, dọc theo đại lộ Thăng Long. Là một phần của cụm công nghiệp
Thạch Thất - Quốc Oai và hội tụ nhiều điều kiện để phát triển kinh tế. Vì thế, nơi
đây tập trung rất nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất với sự tham gia của hàng
trăm doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội thì từ năm 1995 đến năm 2006 trên cả nước đã xảy ra 1.250 cuộc đình
công; trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước xảy ra 67 cuộc, chiếm 7%; khu
vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xảy ra 838 cuộc, chiếm 67%; khu
vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nước xảy ra 325 cuộc, chiếm 26%.
Chỉ tính riêng năm 2009, cả nước đã diễn ra 216 cuộc đình công, hầu hêt diễn ra
tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 157 cuộc, chiếm 72,6%. Một
trong những lý do chính dẫn tới các cuộc đình công nói trên là việc người lao
động bị yêu cầu làm việc tăng ca, bị cắt bớt thời giờ nghỉ ngơi. Vậy, các doanh
nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai có là các doanh nghiệp tuân thủ tốt các qui
định của pháp luật về thời giờ làm việc thời giờ nghỉ ngơi hay không?

1


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C



Xuất phát từ thực tế, và là một người con của quê hương Quốc Oai, trên
cơ sở môn Luật lao động. Em đã chọn đề tài : “Thực trạng tuân thủ pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong các doanh nghiệp trên địa bàn huyện
Quốc Oai thành phố Hà Nội” làm đề tài tiểu luận của mình. Với mong muốn
phân tích rõ thực trạng tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp trên địa bàn
huyện nhà. Và đóng góp một số giải pháp nhằm đảm bảo các doanh nghiệp tuân
thủ tốt pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu đề tài gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Chương II: Thực trạng tuân thủ pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi trong các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai.
Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm đảm bảo sự tuân thủ
pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong các doanh nghiệp.
Là lần đầu tiên thực hiện đề tài này, vì vậy trong bài có điều gì sai sót kính
mong các quí thầy cô góp ý để em có thể làm tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI GIỜ
NGHỈ NGƠI.

1.1. Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Trong quan hệ lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi là hai khái niệm khác
nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chế định độc lập và

không thể tách rời trong luật lao động. Trên thực tế, không có ai chỉ làm việc mà
không nghỉ ngơi và ngược lại, với những người không làm việc thì vấn đề nghỉ
ngơi cũng không đặt ra, nhất là trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế, sự cạnh tranh khốc liệt của con người càng làm cho
người lao động làm việc với cường độ cao hơn. Do vậy nhu cầu làm việc và nghỉ
ngơi ngày càng trở nên cấp bách hơn.
Trong khoa học kinh tế - lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
được xem xét chủ yếu dưới góc độ của việc tổ chức quá trình lao động. Theo đó,
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với
năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động với mục tiêu: sử dụng ít nhất thời
gian làm việc mà vẫn đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới góc độ này, thời
giờ làm việc chính là khoảng thời gian cần và đủ để năng suất lao động hoàn
thành, thời giờ nghỉ ngơi là khoảng thời gian cần thiết để người lao động tái sản
xuất lại sức lao động đã hao phí nhằm đảm bảo quá trình lao động diễn ra liên
tục.
3


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Dưới góc độ pháp lý, thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi được biểu
hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật lao
động. Quan hệ này thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Khi tham gia quan hệ này, người lao động phải trực tiếp
hoàn thành nghĩa vụ lao động của mình, phải tuân thủ những quy định nội bộ và
có quyền được hưởng những thành quả trong khoảng thời gian đó. Ngoài thời
giờ làm việc là thời giờ nghỉ ngơi, người lao động được tự do sử dụng khoảng
thời gian đó theo ý muốn của bản thân mình.
Như vậy, về mặt pháp lý có thể hiểu thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
như sau:

Thời giờ làm việc: là khoảng thời gian do pháp luật quy định hoặc do sự
thỏa thuận của các bên, trong thời gian đó người lao động phải có mặt tại địa
điểm để thực hiện những công việc, nhiệm vụ được giao phù hợp với các quy
định của pháp luật và sự thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Thời giờ nghỉ ngơi: là khoảng thời gian trong đó người lao động không
phải thực hiện những nghĩa vụ lao động và có quyền sử dụng thời gian đó theo ý
muốn của mình.
Trong khoa học luật lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nó được coi là một trong những
nguyên tắc cần đảm bảo của luật lao động, hoặc một định mức lao động, hoặc
một nội dung của quan hệ pháp luật lao động, một chế định của luật lao động.
Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của luật lao động, thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi được coi là quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao động và
4


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

người sử dụng lao động mà các quy phạm pháp luật lao động cần phản ánh rõ tư
tưởng đó.
Nếu xem thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi với tư cách là một định mức
lao động thì chúng ta hiểu là một quỹ thời gian cần thiết cho người lao động để
hoàn thành công việc được giao và kịp thời tái tạo sức lao động cho quá trình lao
động.
Nếu xem thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một nội dung của quan
hệ pháp luật lao động thì trong thời gian làm việc, người lao động phải có mặt tại
địa điểm làm việc và thực hiện nhiệm vụ được giao như đã thỏa thuận trong hợp
đồng lao động. Ngoài thời gian đó, người lao động được toàn quyền sử dụng thời
gian nghỉ ngơi theo ý muốn của mình.
Là một chế định pháp luật, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bao gồm

tổng thể các quy định pháp luật quy định về thời gian người lao động phảỉ làm
việc, phải thực hiện nhiệm vụ được giao và những khoảng thời gian cần thiết để
người lao động được nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe và tái sản xuất sức lao động
của mình.
Tóm lại, dù thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có được nghiên cứu dưới
góc độ gì đi nữa thì mục đích chính của việc nghiên cứu đó cũng là để tìm ra một
thời giờ làm việc hợp lý, một thời gian nghỉ ngơi thích hợp nhằm tăng năng suất
lao động đồng thời bảo vệ sức khỏe cho người lao động.
1.1.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi

5


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Năm 1986, Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam chủ trương chuyển
hướng phát triển kinh tế. Từ đó, quan hệ lao động và vị thế người lao động trong
quan hệ đó bắt đầu có sự thay đổi. Trước đây người lao động chủ yếu tham gia
quan hệ lao động trong khu vực Nhà nước. Khi phát triển kinh tế thị trường, họ
có thể được sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế. Trong cơ chế quản lý
kinh tế tập trung, pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã được đưa
vào nội dung của luật lao động. Trong cơ chế kinh tế thị trường, pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ngoài những lý do truyền thống còn có lý do
khác do cơ chế thị trường mang đến.
1.1.2.1. Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất phát từ
yêu cầu bảo vệ người lao động trong lĩnh vực lao động
Bảo vệ người lao động là nguyên tắc quan trọng nhất của pháp luật lao
động.ngay từ những năm đầu phát triển kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định động lực và mục tiêu chính của sự phát triển là “Vì con người, phát

huy nhân tố con người, trước hết là người lao động”. Tuy nhiên, trên thực tế
người lao động thường có vị thế bất bình đẳng so với người sử dụng lao động.
Như chúng ta đã biết, quan hệ lao động là quan hệ đặc biệt hướng tới đối tượng
là con người và hoạt động mua bán hàng hóa sức lao động, trong đó, người lao
động luôn là bên yếu thế hơn so với người sử dụng lao động. Về phương diện
kinh tế, người sử dụng lao động là người bỏ vốn, đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt
động kinh doanh, quyết định về công nghệ, quy mô hoạt động…nên họ hoàn
toàn chủ động về kế hoạch việc làm, phân phối lợi nhuận cũng như sắp xếp,
phân bổ thời gian làm việc, nghỉ ngơi cho người lao động. Do vậy, về mặt pháp
lý, người sử dụng lao động “có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao
động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh” (Điều 8 BLLĐ). Như vậy ở một mức
độ nhất định, người lao động bị phụ thuộc vào người sử dụng lao động về
phương diện kinh tế cũng như về mặt pháp lý. Sự phụ thuộc này vừa là bản chất
cố hữu, vừa là đặc điểm riêng của quan hệ lao động, không phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế hay chế độ chính trị trong mỗi quốc gia. Đây không những
là lý do chính để pháp luật lao động của các nước không chỉ điều chỉnh thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi mà còn là căn cứ xác định quyền và nghĩa vụ của
6


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

các bên trong quan hệ lao động đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người lao động.
Bên cạnh đó, khi thiết lập quan hệ lao động, người lao động hướng tới tiền
lương, thu nhập, còn người sử dụng lao động hướng tới việc thu được lợi nhuận
cao. Trong khi đó, năng suất lao động của người lao động chủ yếu phụ thuộc vào
tiền lương, thu nhập của họ (đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy năng suất lao
động tăng cao). Khi năng suất lao động của người lao động tăng cao thì người sử
dụng lao động cũng thu được lợi nhuận nhiều hơn. Điều đó cũng có nghĩa là để

tiền lương và thu nhập cao, người lao động sẽ bất chấp tính mạng, sức khỏe của
mình làm thêm giờ, làm ban đêm…Còn người sử dụng lao động vì mục đích tối
đa hóa lợi nhuận, họ có xu hướng tận dụng triệt để các biện pháp, các quy định
pháp luật, các lợi thế để khai thác sức lao động của người lao động trong đó có
việc kéo dài thời gian làm việc của người lao động.
Như vậy, từ các lý do trên, cần có sự điều chỉnh của pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để bảo vệ người lao động, tránh sự lạm dụng sức lao
động từ phía người sử dụng lao động.
1.1.2.2.Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất phát từ
sự tác động của nền kinh tế thị trường
Khi nhận xét về kinh tế thị trường, người ta thường nói về tính hai mặt của
nó. Đó là những tác động tích cực không thể phủ nhận đối với sự phát triển kinh
tế và các tác động tiêu cực không thể không có đến đời sống mỗi quốc gia. Mặt
tiêu cực này thể hiện rất rõ trong quan hệ lao động vì bản thân lĩnh vực này vừa
chứa đựng các yếu tố kinh tế, vừa thể hiện các vấn đề xã hội sâu sắc. Mặt khác,
sức lao động còn được coi là một loại hàng hóa đặc biệt, không tách rời với bản
thân người lao động. Khi sức lao động của người lao động bị lạm dụng thì các
7


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

quy định pháp luật trở thành các chế tài bảo vệ người lao động tránh khỏi những
tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực lao động, kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện thuận lợi
để phát huy các nguồn lực, tạo nhiều việc làm cho người lao động đồng thời thúc
đẩy năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Điều đó đã tạo ra một nền kinh
tế đa dạng, năng động, có tốc độ phát triển cao. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu
linh hoạt của thị trường, các nhà kinh doanh (người sử dụng lao động) thường
xuyên phải hay đổi kế hoạch, quy mô sản xuất…Đặc biệt khi mục đích cao nhất

là lợi nhuận, người sử dụng lao động thường có xu hướng kéo dài thời gian làm
việc, giảm thời giờ nghỉ ngơi. Điều đó không những ảnh hưởng tới sức khỏe, tới
khả năng tái sản xuất sức lao động mà còn ảnh hưởng đến các nhu cầu khác
trong đời sống, ảnh hưởng đến khả năng phát triển toàn diện của người lao động.
Vì vậy, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã trở thành một
trong những nội dung cơ bản trong luật lao động ở các quốc gia, để sử dụng sức
lao động hợp lý, làm cơ sở bảo vệ người lao động trong những trường hợp cần
thiết.
1.1.2.3. Pháp luật thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất phát từ
bản chất nhà nước pháp quyền XHCN mà nước ta đang xây dựng
Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định chủ
trương “phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Về mặt lý thuyết kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) được xác định với mục tiêu: “Thực hiện dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa,
kỉ cương, xóa bỏ áp lực, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc”. Tư tưởng của Nhà nước XHCN coi mục tiêu và động lực của sự
8


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

phát triển là “con người, phát huy nhân tố con người, trước hết là người lao
động”. Về phân phối trong nền kinh tế nói chung và trong quan hệ lao động nói
riêng phải “lấy phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với hình thức
phân phối khác như phân phối theo vốn và tài sản”. Đó là cách thức phân phối
thúc đẩy tăng cường kinh tế đi đôi với đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường tự nó không giải quyết các vấn đề xã hội một cách tổng thể,
không đương nhiên đạt đến tiến bộ xã hội trong lĩnh vực lao động mà không có
sự can thiệp của Nhà nước bằng pháp luật.

Thực tế cho thấy, Việt Nam chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế thị
trường. Hầu hết, người sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ về người lao
động trong chiến lược đầu tư lâu dài. Phần lớn giới người sử dụng lao động ở
Việt Nam là những người làm ăn nhỏ, vốn ít, cần phải tranh thủ những cơ hội
trước mặt. Nhiều đơn vị tồn tại là nhờ những khoảng trống của cơ chế quản lý lợi
dụng điều kiện cung cầu mất cân đối, lợi dụng sự không hiểu biếu của người lao
động đang tìm việc mà giảm tiền lương, tăng thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi. Thêm nữa là nhận thức về trình độ tổ chức tự thân của hai giới chủ, thợ còn
thấp. Vì vậy, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng XHCN với những chỉ
tiêu trên là hướng phát triển phù hợp. Để đạt được mục tiêu đề ra, Nhà nước phải
bằng pháp luật lao động để bảo vệ người lao động. Có nghĩa là định hướng
XHCN phải trên cơ sở luật pháp, với tư cách là công cụ của Nhà nước pháp
quyền. Các quyền và lợi ích của người lao động về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi phải được pháp luật hóa, đảm bảo thực hiện trên các cơ sở của pháp
luật
1.1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật đối với thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi
9


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Quyền làm việc và quyền nghỉ ngơi là một trong những quyền rất cơ bản
của con người, trước hết là người lao động trong quan hệ lao động, phải được
pháp luật can thiệp, bảo vệ. Hiến pháp của các nước đều ghi nhận điều này trong
đó có Hiến pháp của nước ta. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm
1948 cũng nghi nhận quyền đó. Pháp luật lao động của các quốc gia quy định về
thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi, tạo hành lang pháp lý nhằm bảo vệ sức
khỏe người lao động trong quan hệ lao động để làm việc được lâu dài, có lợi cho
cả hai bên; đảm bảo có một tỷ số hợp lý giữa hai loại thời giờ này, có tính đến lợi

ích hợp pháp của người sử dụng lao động, vừa không thiệt hại cho sản xuất kinh
doanh, vừa không làm giảm sút khả năng lao động, khả năng sáng tạo của người
lao động, suy cho cùng là nhằm bảo vệ việc làm, tăng năng suất, chất lượng, hiệu
quả của lao động, hướng vào chiến lược con người.
Việc quy định chế độ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý nghĩa
rất quan trọng, cụ thể:
Đối với người lao động
Thứ nhất, việc quy định thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tạo điều
kiện cho người lao động thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lao động trong quan hệ, đồng
thời giúp người lao động bố trí, sử dụng quỹ thời gian một cách hợp lý.
Quy định về thời giờ làm việc có ý nghĩa như một đại lượng thời gian cần
thiết để người lao động thực hiện nghĩa vụ lao động đã cam kết trong hợp đồng
lao động. Việc quy định khung tối đa thời giờ làm việc, cũng như việc quy định
các loại thời giờ nghỉ ngơi giúp người lao động có sự lựa chọn phù hợp với điều
kiện cá nhân, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc, đồng thời quá
trình lao động cũng giúp người lao động hoàn thiện nhân cách. Do vậy với việc
10


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

điều tiết thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động một cách hợp
lý, pháp luật tạo điều kiện cho người lao động được đảm bảo thực hiện các
quyền khác của mình như quyền tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Đồng thời, người lao động còn có điều kiện chăm lo hạnh phúc gia đình, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề và tham gia các hoạt
động xã hội khác.
Ngoài ra, quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là
căn cứ để người lao động hưởng những quyền lợi như: tiền lương, tiền thưởng,
các chế độ trợ cấp…

Thứ hai, quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý
nghĩa trong bảo hộ lao động, đảm bảo thời gian nghỉ ngơi cho người lao động
Quyền làm việc và quyền nghỉ ngơi là một trong những quyền cơ bản của
con người trước hết là người lao động trong mối quan hệ lao động. Trong “Tuyên
bố chung về quyền con người” năm 1948 có ghi: “Mỗi người đều có quyền nghỉ
ngơi và giải trí, kể cả quyền được có ngày làm việc được giới hạn một các hợp
lý và được nghỉ định kỳ có hưởng lương” (Điều 24). Như vậy, vấn đề thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những nội dung thuộc quyền con người.
Ở Việt Nam, vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu, điều
này thể hiện trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Điều 55 Hiến pháp 1992:
“Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân; Nhà nước và xã hội có kế hoạch
tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Xuất phát từ quyền con
người, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Bộ luật Lao
động đã có hẳn Chương VII quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Các quy định này đã tạo ra hành lang pháp lý nhằm bảo vệ sức khỏe của người
lao động, có tính đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, vừa không
11


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

thiệt hại cho sản xuất kinh doanh, vừa không làm giảm sút khả năng lao
động,khả năng sáng tạo của người lao động. Suy cho cùng cũng là nhằm bảo vệ
việc làm, năng suất, chất lượng, hiệu quả của người lao động và người sử dụng
lao động và hướng vào chiến lược con người.
Quy định pháp luật về mức thời gian làm việc tối đa, mức thời gian nghỉ
ngơi tối thiểu hoặc quy định về thời giờ làm việc rút ngắn… chính là căn cứ
pháp lý đảm bảo quyền được bảo vệ sức khỏe của người lao động, nhằm tránh sự
lạm dụng của người sử dụng lao động đối với người lao động, góp phần tạo điều
kiện cho người lao động tái sản xuất sức lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá

trình lao động, có tác dụng tăng cường đời sống vật chất và tinh thần của người
lao động.
Đối với người sử dụng lao động
Thứ nhất, việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi giúp người
sử dụng lao động xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất kinh doanh khoa học và
hợp lý, sử dụng một cách tiết kiệm các nguồn tài nguyên trong doanh nghiệp
nhằm hoàn thiện tốt tất cả các mục tiêu đã đề ra. Căn cứ vào khối lượng công
việc, tổng quỹ thời gian cần thiết hoàn thành và số thời gian làm việc pháp luật
quy định với mỗi người lao động mà người sử dụng lao động định mức lao động,
xác định được chi phí nhân công và bố trí sử dụng lao động linh hoạt, hợp lý
đảm bảo hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là căn cứ
pháp lý cho việc người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý, điều hành,
giám sát lao động, đặc biệt trong xử lý kỷ luật lao động, từ đó tiến hành trả
lương, thưởng… khen thưởng và xử phạt người lao động.
12


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Đối với Nhà nước
Quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thể hiện rõ thái
độ của Nhà nước đối với lực lượng lao động - nguồn tài nguyên qúy giá nhất của
quốc gia, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý để Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý của mình. Bằng các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
Nhà nước kiểm tra giám sát quan hệ lao động, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các
mâu thuẫn, bất đồng nảy sinh giữa các bên tham gia quan hệ lao động liên quan
đến thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Trong công tác thanh tra lao động và quản lý lao động, việc giám sát thực
hiện pháp luật lao động, hướng dẫn tổ chức lao động hợp lý, khoa học cho các

nơi sử dụng lao động và làm việc thường kỳ của các cơ quan Nhà nước. Xong,
dựa vào chế độ làm việc và nghỉ ngơi để thực hiện kiểm tra, kiểm soát là việc
làm trước tiên để nhận thấy mặt tốt và mặt chưa tốt trong quản lý lao động, từ đó
để tổ chức lao động khoa học hơn.
Chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi còn là một trong những nội
dung để tổ chức công đoàn tham gia xây dựng và đấu tranh quyền lợi cho người
lao động. Vì mục tiêu lợi nhuận tối đa, người sử dụng lao động rất dễ vi phạm
chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Chính vì thế, công đoàn với tư cách
là tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động sẽ phải căn cứ vào các quy định về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để đấu tranh với người sử dụng lao động,
đem lại quyền lợi chính đáng cho người lao động.
Ngoài ra, cùng với các quy định pháp luật về việc làm, tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hộ lao động…quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi cũng phản ánh trình độ phát triển, điều kiện kinh tế của các quốc gia
và tính ưu việt của chế độ xã hội. Thông thường ở những nước nền kinh tế phát
13


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

triển, trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến, thời gian làm việc được rút ngắn hơn
so với các nước khác.
1.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những chế định quan
trọng trong pháp luật lao động của các nước trên thế giới. Ở mỗi quốc gia, do
phong tục tập quán, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khác
nhau nên pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cũng có những nét
riêng biệt, đặc trưng của mỗi nước. Tuy nhiên, nhìn chung pháp luật các nước
đều quy định cụ thể về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi với việc giới hạn số

giờ làm việc tối đa và số giờ nghỉ ngơi tối thiểu. Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật
nuớc ta điều tiết thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bằng ba loại quy định:
-

Quy định pháp luật của Nhà nước: pháp luật quy định mức tối đa

thời giờ làm việc và mức tối thiểu thời giờ nghỉ ngơi mà không quy định cụ thể.
-

Quy định chung trong nội bộ doanh nghiệp: dựa vào những quy

định về mức tối thiểu và mức tối đa của Nhà nước mà các doanh nghiệp có quy
định cụ thể (trong nội quy của doanh nghiệp) về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi thực hiện với những người lao động trong doanh nghiệp. Những quy định
đó phải phù hợp với quy định của Nhà nước và điều kiện thực tế của doanh
nghiệp cũng như thỏa ước lao động tập thể của doanh nghiệp.
-

Quy định cụ thể: Thông qua hợp đồng lao động, người lao động và

người sử dụng lao động thống nhất với nhau về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi của người lao động. Những thỏa thuận này phải phù hợp với quy định
chung của Nhà nước, với quy định nội bộ của doanh nghiệp và phù hợp với yêu
cầu thực tế của các bên trong quan hệ lao động.
14


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Cũng như các nước trên thế giới, nội dung pháp luật về thời giờ làm việc,

thời giờ nghỉ ngơi được chia làm hai phần: thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ
ngơi
1.2.1. Quy định về thời giờ làm việc
Pháp luật Việt Nam quy định thời giờ làm việc bằng việc giới hạn khung
tối đa mà không được phép vượt qua hoặc phải đảm bảo hơn quyền lợi cho
người lao động. Trên cơ sở đó, pháp luật đưa ra khái niệm về thời giờ làm việc
tiêu chuẩn. Đây là loại thời giờ làm việc theo định mức của người lao động, theo
thỏa thuận trong hợp đồng lao động dựa trên quy định pháp luật. Thời giờ làm
việc tiêu chuẩn được quy định trên cơ sở tiêu chuẩn hóa thời giờ làm việc bằng
việc quy định số giờ làm việc trong một ngày đêm, một tuần lễ, hoặc số ngày
làm việc trong một tháng, một năm. Trong đó việc tiêu chuẩn hóa ngày làm việc,
tuần làm việc là quan trọng nhất, là cơ sở để dễ dàng trả công lao động và xác
định tính hợp pháp của các thỏa thuận về thời giờ làm việc. Ngày làm việc tiêu
chuẩn chính là việc quy định độ dài thời giờ làm việc của người lao động trong
một ngày đêm (24 giờ) và tuần làm việc tiêu chuẩn là số giờ hoặc ngày làm việc
trong một tuần lễ 7 ngày. Thời giờ làm việc tiêu chuẩn bao gồm: thời giờ làm
việc bình thường và thời giờ làm việc rút ngắn. Theo đó, với các đối tượng lao
động đặc thù như lao động nữ, lao động chưa thành niên, người tàn tật, người
cao tuổi, người làm các công việc nặng nhọc, độc hại thì thời giờ làm việc được
rút ngắn hơn một hoặc hai giờ so với lao động bình thường.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đưa ra khái niệm về thời giờ làm việc không
tiêu chuẩn. Thời giờ làm việc không tiêu chuẩn là loại thời giờ làm việc quy định
cho một số lao động nhất định, do tính chất công việc mà không thể xác định
được số giờ làm việc cụ thể. Loại thời giờ này khó kiểm soát, sẽ gây khó khăn
15


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

cho các cơ quan chức năng trong việc quản lý về thời giờ làm việc của người lao

động.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định về thời giờ làm thêm, làm ban đêm và
thời giờ làm việc linh hoạt cho người lao động. Với việc giới hạn tối đa số giờ
làm thêm, làm ban đêm, các quy định pháp luật là hành lang pháp lý vững chắc
bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tránh sự lạm dụng sức lao động từ phía
người sử dụng lao động. Đồng thời pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận giữa các
bên, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm giờ,
làm thêm ban đêm…phù hợp với quy định pháp luật. Tùy theo thời giờ làm việc
của người lao động mà người lao động được hưởng các chế độ: lương, tiền
thưởng, phụ cấp v.v.
1.2.2. Quy định về thời giờ nghỉ ngơi
Song song với việc quy định thời giờ làm việc ở mức tối đa, người lao
động còn được đảm bảo thời giờ nghỉ ngơi ở mức ít nhất bằng mức đã được pháp
luật quy định. Đó là các quy định về thời gian nghỉ giữa ca (ít nhất 30 phút, ca
đêm ít nhất 45 phút), nghỉ hàng tuần (từ một đến hai ngày trong một tuần) (Điều
71,72 BLLĐ). Khi được quy định, những nội dung này trở thành quyền chính
đáng của người lao động, giúp họ đỡ căng thẳng thần kinh, cơ bắp, phục hồi sức
khỏe để tiếp tục làm việc, có thể dưỡng sức lao động, dành thời gian cho các nhu
cầu vật chất và tinh thần khác…nên cần được pháp luật bảo vệ. Bên cạnh chế độ
nghỉ trong quá trình làm việc như nghỉ theo ca, nghỉ hàng tuần…, người lao động
còn được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ (9 ngày/ năm), nghỉ việc riênghoặc nghỉ không
hưởng lương (từ Điều 74 đến Điều 79 BLLĐ).

16


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Có thể nói, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã góp
phần quan trọng trong việc bảo vệ người lao động trong trường hợp cần thiết và

tạo thành một chế định cần thiết và không thể thiếu được trong Bộ luật lao động.
Xuất phát từ đặc điểm của thị trường lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi là điều khoản cơ bản trong hợp đồng lao động và trong thỏa ước lao động
tập thể. Mặt khác, các chế định trong bộ luật lao động chẳng hạn như: Quy định
chế độ bồi thường, trợ cấp khi tai nạn lao động xảy ra v.v muốn thể hiện rõ cũng
phải căn cứ vào các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.

CHƯƠNG II: THỤC TRẠNG TUÂN THỦ PHÁP LUẬT VỀ THỜI
GIỜ LÀM VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỐC OAI.

Huyện Quốc Oai nằm ở phía Tây thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành
phố khoảng 19km. Phía Đông giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức; phía
Tây giáp tỉnh Hòa Bình; phía Nam giáp huyện Chương Mỹ và phía Bắc giáp
huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ. Quốc Oai là một huyện nằm trong vùng
chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có hai tuyến giao thông trọng yếu chạy
qua là đường Láng - Hòa Lạc và đường Hồ Chí Minh nên có nhiều lợi thế phát
triển đô thị và công nghiệp. Vì vậy, hơn mười năm trở lại đây, đặc biệt là khi tỉnh
Hà Tây sáp nhập vào thủ đô Hà Nội (tháng 8 năm 2008) đây là nơi tập trung rất
17


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

nhiều dự án đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút hàng trăm doanh
nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất.
Nằm trong cụm công nghiệp Thạch Thất-Quốc Oai, trên địa bàn huyện
Quốc Oai hiện tại có khoảng hơn 150 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang
hoạt động. Trong đó phải kể đến các công ty lớn như: Công ty cổ phần Tràng AnHà Nội; Công ty TNHH Youngfast electronics Việt Nam; Công ty TNHH Tân
Mỹ; Tập Đoàn Sunhouse Việt Nam; Công ty TNHH Kenmec Việt Nam… Các

doanh nghiệp đã tạo việc làm cho một lượng lớn người lao động trên địa bàn
huyện. Tuy nhiên, vẫn còn một số các doanh nghiệp tuân thủ không đầy đủ các
qui định của Luật lao động nói chung, và qui định của pháp luật về thời giờ làm
việc thời giờ nghỉ ngơi nói riêng.
2.1. Thực trạng tuân thủ pháp luật về thời giờ làm việc của các doanh
nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai
2.1.1. Thời giờ làm vệc tiêu chuẩn
Thời giờ làm việc tiêu chuẩn là loại thời giờ làm việc áp dụng cho đại bộ
phận những người lao động làm việc trong điều kiện lao động, môi trường lao
động bình thường.
Khái niệm thời giờ làm việc trong luật lao động không chỉ là khoảng thời
gian mà người lao động bỏ công sức ra mà theo Khoản 3 Điều 3 Nghị định
195/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi (Nghị định số 195/CP)
thì thời giờ sau được tính vào thời giờ làm việc:
-

Thời giờ nghỉ giữa ca làm việc;
18


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

-

Thời giờ nghỉ giải lao theo tính chất của công việc;

-

Thời giờ nghỉ cần thiết trong quá trình lao động đã được tính


trong định mức lao động cho nhu cầu sinh lý tự nhiên của con người;
Thời giờ nghỉ mỗi ngày 60 phút đối với người lao động nữ
nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
-

Thời giờ nghỉ mỗi ngày 30 phút đối với người lao động nữ

trong thời gian hành kinh;
-

Thời giờ phải ngừng việc không do lỗi của người lao động;

-

Thời giờ học tập, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao

-

Thời giờ hội họp, học tập do yêu cầu của người sử dụng lao

động;

động hoặc được người sử dụng lao động cho phép.
Căn cứ vào thời giờ làm việc tối đa do pháp luật quy định và thỏa thuận
của các bên thì “người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc
theo ngày hoặc tuần, nhưng phải thông báo trước cho người lao động biết”
(Khoản 1 Điều 68 BLLĐ), người lao động phải đảm bảo nghĩa vụ tuân thủ như
nội dung kỷ luật lao động, sau ngày làm việc mới được rời khỏi nơi làm việc.
Trong một số trường hợp do tính chất sản xuất, công tác, do thời vụ hoặc sản

xuất theo ca kíp mà phải phân bố lại thời gian làm việc trong tuần, trong tháng
cho thích hợp thì người sử dụng lao động phải thống nhất với công đoàn cơ sở
trên cơ sở ký thỏa ước lao động tập thể và nguyên tắc chung về thời giờ làm việc
theo quy định pháp luật.
Dự thảo Bộ luật lao động sửa đổi (Dự thảo BLLĐ) cũng tiếp nối các quy
định của BLLĐ hiện hành bằng việc quy định “Thời giờ làm việc không quá 8
giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần. Người sử dụng lao động có
19


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần; trong trường hợp theo
tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong một ngày. Nhà
nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ”
(Điều 109). Việc quy định cụ thể số giờ làm việc như trong Dự thảo BLLĐ là
phù hợp chung với thông lệ quốc tế.
Trên thực tế, trong các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai, việc
tăng thời giờ làm việc tiêu chuẩn quá 8 giờ/1 ngày là tình trạng diễn ra phổ biến.
Đặc biệt là nhóm doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực dệt may,
gia công… Theo khảo sát, có tới hơn 80 doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc
Oai có công nhân làm việc quá thời giờ tiêu chuẩn. Có hơn 81% công nhân được
hỏi và trả lời làm việc quá thời giờ tiêu chuẩn Có tới 27,3% công nhân làm việc
quá thời giờ tiêu chuẩn trung bình mỗi công nhân là hơn 200 giờ/ năm.
Theo chị Kiều Thị Trinh 25 tuổi ở xã Ngọc Mĩ làm việc tại Công ty
TNHH KENMEC cho biết: “Tôi làm việc từ 8 giờ sáng tới 6 giờ chiều, có hôm
nhiều việc thì làm tới 6 giờ 30 phút hoặc 7 giờ tùy vào công ty”
Anh Đỗ Lai Minh 26 tuổi ở thị trấn Quốc Oai làm việc tại Công ty TNHH
Thành Phát cho biết: “Tôi cũng chẳng rõ là một ngày phải làm bao nhiêu tiếng
nữa. Lúc nào Công ty cho nghỉ thì mình nghỉ thôi, mình là công nhân có việc là

may rồi đòi hỏi gì nhiều nữa”
Như vậy, có thể thấy có khá nhiều doanh nghiệp chưa tuân thủ qui định
của pháp luật về thời giờ làm việc tiêu chuẩn. Tự ý tăng thời giờ làm việc, hay
yêu cầu người lao động làm thêm giờ. Nguyên nhân chủ yếu là do người lao
động chưa nắm được qui định của pháp luật về thời giờ làm việc. Mặc dù là một
huyện gần nội thành, nhưng người lao động vẫn còn thiếu hiểu biết cơ bản về
20


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

luật lao động. Dẫn đến việc bị người sử dụng lao động lạm dụng sức lao động
của mình.
2.1.2. Thời giờ làm việc rút ngắn
Thời giờ làm việc rút ngắn là loại thời giờ làm việc có độ dài ngắn hơn
thời giờ làm việc bình thường mà vẫn hưởng đủ lương, áp dụng đối với một số
lao động đặc biệt, đó là: người lao động làm các công việc trong điều kiện lao
động đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; người lao động nữ; lao động chưa
thành niên; lao động khuyết tật; và lao động cao tuổi.
Theo khảo sát, nhìn chung các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai
đều chấp hành khá tốt các qui định của pháp luật về thời giờ làm việc rút ngắn
của người lao động giành cho những điều kiện làm việc đặc biệt.
Theo anh Nguyễn Văn Trường 35 tuổi làm việc tại Công ty cổ phần Ximăng Sài Sơn: “Tôi làm công đoạn bốc hàng, bụi xi-măng độc lắm vì thế một
ngày tôi chỉ phải làm 6 tiếng thôi”
Chị Nguyễn Thị Lờ 32 tuổi làm việc tại Công ty bánh kẹo Tràng An cho
biết: “Từ lúc mang bầu tháng thứ 7 mỗi ngày tôi chỉ phải làm việc 7 giờ thôi”
Như vậy qua khảo sát, có thể thấy các doanh nghiệp chấp hành khá tốt các
qui định của pháp luật về thời giờ làm việc rút ngắn. Đây là điểm sáng của các
doanh nghiệp, và cũng là cơ sở để tạo điều kiện cho người lao động làm việc tốt
trong hoàn cảnh đặc biệt, thúc đẩy người lao động làm việc hiệu quả.


2.1.3. Thời giờ làm thêm
21


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

Thời giờ làm thêm là thời giờ làm việc của người lao động ngoài phạm vi
thời giờ làm việc tiêu chuẩn, được hưởng thêm tiền lương, theo yêu cầu của
người sử dụng lao động trong những trường hợp cần thiết được pháp luật quy
định. Có hai trường hợp làm thêm giờ: làm thêm giờ trong ngày làm việc bình
thường và làm thêm giờ vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ, ngày tết.
Trên thực tế, để nhằm tối đa hóa lợi nhuận, tránh việc phải tuyển thêm lao
động, nhiều người sử dụng lao động đã cố tình vi phạm các quy định về làm
thêm giờ. Theo khảo sát, đa số các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai
đều vi phạm quy định về thời giờ làm việc và nghỉ ngơi. Cụ thể, các doanh
nghiệp đều kéo dài thời giờ làm việc từ 12 đến 14 giờ/ngày. Đối với lao động nữ
tại doanh nghiệp may mặc, da giày, thời gian làm thêm từ 2 giờ đến 5 giờ/ngày,
khoảng 600 giờ đến 1.000 giờ/năm, vượt quá xa quy định. Trong số lao động
được hỏi có 35,8% người cho rằng phải làm thêm ít nhất 2 giờ/ngày; 18,8% phải
làm 3 giờ/ngày và 7,5% phải làm thêm từ 4 giờ đến 5 giờ/ngày.
Chị Ngô Thu An 29 tuổi làm việc tại Công ty may Vân Khánh chia sẻ:
“Thường thì mỗi ngày tôi phải làm thêm trung bình là 4 giờ, có hôm đảm bảo kịp
tiến độ tôi còn làm thêm 5 giờ. Nhiều lúc cũng mệt nhưng công ty họ yêu cầu
nên cũng chẳng dám không làm.”
Như vậy, người lao động thường không biết hoặc không có điều kiện sử
dụng các quy định để bảo vệ mình hiệu quả. Thực tế, trong những năm qua,
khoảng 90% những cuộc đình công ở Việt Nam đều có nguyên nhân từ sự vi
phạm quyền lợi người lao động. Trong đó, vi phạm về thời giờ làm việc, đặc biệt
là vấn đề làm thêm giờ khá phổ biến, xếp hàng thứ hai trong nguyên nhân đình

công. Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đối chiếu với các quy định của
Luật lao động về thời giờ làm việc và nghỉ ngơi thì hiện nay phần lớn các Doanh
22


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

nghiệp đều vi phạm Luật lao động. Các doanh nghiệp trên địa bàn huyên Quốc
Oai cũng không là ngoại lệ. Điều này đã vi phạm lớn đến quyền lợi của người
lao động.
2.1.4. Thời giờ làm việc ban đêm
Thời giờ làm việc ban đêm là thời giờ làm việc tính từ 22 giờ đến 6 giờ
hoặc từ 21 giờ đến 5 giờ tuỳ theo vùng khí hậu và được hưởng phụ cấp làm
thêm.Theo Điều 6 Nghị định 195/CP, thời giờ làm việc ban đêm được tính từ22
giờ đến 6 giờ (đối với khu vực từ Thừa Thiên Huế trở ra Bắc) và từ 21 giờ đến 5
giờ (đối với khu vực từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở về phía Nam).
Làm việc ban đêm có những ảnh hưởng, biến đổi nhất định đến tâm sinh
lý của người lao động, làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện cho
sự phát triển của các tình trạng bệnh lý (nếu có)… Điều này dẫn đến nhu cầu
được bảo vệ và bù đắp hao phí sức lao động cao hơn so với làm việc vào ban
ngày. Theo quy định pháp luật, người lao động làm việc vào ban đêm được trả
thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương và tiền lương của
công việc đang làm vào ban ngày (Nghị định 114/CP ngày 31/12/2002 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về tiền lương). Khi làm
việc ban đêm người lao động cũng được nghỉ ngơi nhiều hơn so với làm việc ban
ngày. Nếu làm việc ca đêm được nghỉ ít nhất 45 phút tính vào giờ làm việc
(Khoản 2 Điều 71 BLLĐ). Ngoài ra, người lao động cũng được hưởng lương,
phụ cấp và lương làm thêm giờ.
Có khoảng 50% các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai làm việc
theo mô hình ca kíp, chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì

vậy làm việc ca đêm là điều thường thấy trong các doanh nghiệp đó. Nhìn chung
23


Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

các doanh nghiệp thực hiện đủ các qui định về thời giờ làm thêm giành cho
người lao động. Tuy nhiên, vẫn có khoảng 20% các doanh nghiệp cố tình vi
phạm quyền lợi của người lao động làm việc ban đêm. Ví dụ như: yêu cầu người
lao động làm việc vào ban đêm mà không cho hưởng tiền phụ cấp làm đêm ít
nhất bằng 30% tiền lương làm việc vào ban ngày, hoặc cắt xén thời gian nghỉ
giữa ca 45 phút của người lao động. Điều này đã vi phạm đến quyền lợi chính
đáng của người lao động.
2.1.5. Thời giờ làm việc linh hoạt.
Thời giờ làm việc linh hoạt là thời giờ làm việc cho phép người lao động
lựa chọn số giờ làm việc trong một ngày, một tuần hoặc được giao việc làm ở
nhà…Loại thời giờ làm việc này khó áp dụng trong điều kiện tổ chức sản xuất và
lao động theo dây chuyền khép kín nhưng lại phù hợp với lao động giản đơn thủ
công trong thương mại và dịch vụ. Mục đích của việc quy định này nhằm tạo
điều kiện cho những người lao động có hoàn cảnh đặc biệt hoặc làm công việc
đặc biệt như lao động nữ, người chưa thành niên, người cao tuổi, người tàn tật,
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao … có cơ hội tìm việc làm phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện của mình.
Hiện nay, mô hình thời giờ làm việc linh hoạt chưa được áp dụng trong
các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai. Đây là mô hình có tính mới, và
mang lại nhiều điều kiện làm việc tốt cho người lao động. Do đó, các doanh
nghiệp đang nghiên cứu mô hình này để áp dụng đối với người lao động.
2.2. Thực trạng về thời giờ nghỉ ngơi
2.2.1. Thời giờ nghỉ có hưởng lương
24



Đặng Trần Hiếu-ĐH QTNL 13C

2.2.1.1. Thời giờ nghỉ giữa ca, chuyển ca
Trong một ngày làm việc, người sử dụng lao động bố trí cho người lao
động thời gian nghỉ ngơi hợp lý. Việc bố trí nghỉ giữa ca cho người lao động có ý
nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ sức khỏe, tái tạo sức lao động, đảm bảo năng
suất, chất lượng, hiệu quả công việc, góp phần phòng ngừa và giảm thiểu lao
động. Theo quy định tại Điều 71 BLLĐ, thời giờ nghỉ giữa ca làm việc là thời
gian xen vào giữa thời giờ làm việc trong một ngày đối với những người làm
việc liên tục 8 giờ một ngày trong điều kiện bình thường hoặc 7 giờ, 6 giờ một
ngày trong các trường hợp đặc biệt đã được rút ngắn.
Điều 71 BLLĐ, Điều 7 Nghị định 195/CP quy định cụ thể về thời giờ nghỉ
giữa ca làm việc của người lao động. “Người lao động làm việc 8 giờ liên tục
trong điều kiện bình thường hoặc làm việc 7 giờ, 6 giờ liên tục trong trường hợp
được rút ngắn thời giờ làm việc thì được nghỉ ít nhất 30 phút tính vào giờ làm
việc. người làm theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi chuyển sang ca khác.
Người làm việc ca đêm được nghỉ giữa ca ít nhất 45 phút, tính vào giờ làm việc”.
Trên thực tế, khoảng thời gian nghỉ giữa ca, chuyển ca này là khoảng thời
gian dễ bị người sử dụng lao động ăn bớt nhất. Vì thế, rất nhiều doanh nghiệp ở
Việt Nam thường bớt xén khoảng thời gian này của người lao động. Và các
doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai cũng không là ngoại lệ.
Qua khảo sát, có tới 95% các doanh nghiệp được khảo sát có hành vi bớt
xén thời giờ nghỉ giữa ca, nghỉ chuyển ca của người lao động. Đặc biệt là những
công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Họ bớt xén thời giờ nghỉ theo nhiều hình thức
như: thay vì xem thời gian nghỉ giữa ca, nghỉ giải lao theo tính chất công việc là
thời gian làm việc có hưởng lương theo quy định thì họ lại kéo dài thời gian làm
25



×