Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.14 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như
trong công cuộc đổi mới xây dựng tổ quốc, thi đua, khen thưởng luôn là một chủ trương,
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trong hơn 60 năm qua, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp, góp
phần tạo động lực to lớn, cổ vũ, động viên nhân dân ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách,
chung sức, đồng lòng làm nên thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ
lịch sửa của đất nước. Để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thi
đua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về thi đua. Hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về thi đua đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức tốt công tác thi đua,
khen thưởng trong cả nước, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Tuy nhiên, sau hơn 3 năm thực hiện, Luật Thi đua, khen thưởng và
các văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Để phát
huy được vai trò, tác dụng của phong trào thi đua ái quốc trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện để tổ chức
tốt hơn công tác thi đua, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thi đua là một đòi hỏi
khách quan. Do đó em chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật về thi đua ở Việt Nam" làm đề
tài nghiên cứu tiểu luận của mình.

Page | 1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: THI ĐUA VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA

01

1.1 Những vấn đề chung về thi đua

01



1.1.1 Khái niệm, bản chất và mối quan hệ thi đua

01

1.1.2 Vị trí, vai trò của thi đua

02

1.2 Pháp luật về thi đua

02

1.2.1 Khái quát pháp luật về thi đua từ năm 1945 đến nay

02

1.2.2 Nội dung pháp luật hiện hành về thi đua

04

Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA

06

2.1 Kết quả thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua

06

2.2 Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về thi đua


06

2.2.1 Hạn chế trong các quy định của pháp luật về thi đua

06

2.2.2 Hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua

07

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THI ĐUA

09

3.1 Mục tiêu và những quan điểm cơ bản

09

3.1.1 Mục tiêu

09

3.1.2 Những quan điểm cơ bản

09

3.2 Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thi đua


10

3.2.1 Sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về thi đua

10

3.2.2 Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thi đua

11

3.2.3 Thực hiện pháp luật về thi đua theo hướng đổi mới công tác thi đua

11

3.2.4 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về thi đua

12

3.2.5 Kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức làm thi đua

12

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page | 2


Chương 1
THI ĐUA VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA

1.1. Những vấn đề chung về thi đua.
1.1.1. Khái niệm, bản chất và mối quan hệ thi đua.
- Khái niệm thi đua C.Mác là người đầu tiên nghiên cứu một cách khoa học về bản
chất và nội dung thi đua, ông đánh giá cao vai trò của hiợp tác trong lao động, sự hiệp
cộng lao động tạo ra sức mạnh tập thể lớn hơn sức mạnh của từng lao động cá nhân cộng
lại, Mác viết: Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và
kế hoạch của con người với sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc
biệt, nghị lực sinh động làm tăng thêm nghị lực riêng của từng người. Trên cơ sở những
quan điểm nền tảng của Mác và Ăng ghen về thi đua, Lê nin đã nghiên cứu và đưa ra
những quan điểm, tư tưởng cơ bản về thi đua xã hội chủ nghĩa, đó là phong trào tự
nguyện, góp sức giải quyết khó khăn, xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động
được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, coi thi đua là
biểu hiện của lòng yêu nước, là những hành động cụ thể của mỗi cá nhân vì lợi ích chung
của cộng đồng và xã hội, Người nói: "…Tưởng lầm rằng thi đua là một việc làm khác với
những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí
dụ từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở, nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch, cho
hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng, nay ta thi đua làm cho ruộng tốt
hơn, sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua từ như vậy".
Như vậy, thi đua là một hiện tượng khách quan, là quy luật phát triển tất yếu trong
quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó nảy sinh thi
đua. Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013 quy định: "Thi đua là hoạt động có tổ chức với
sự tham gia tự nguyện của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt
nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
- Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Thi đua là
cơ sở của khen thưởng; tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng cao. Khen
Page | 3



thưởng chính xác, kịp thời, đúng người, đúng việc sẽ có tác dụng động viên cho mùa thi
đua sau đạt kết quả cao hơn.
Do vậy không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì
không có căn cứ đánh giá thành tích khen thưởng.
Thi đua và khen thưởng cũng độc lập với nhau, không phụ thuộc vào nhau; không phải
tất cả các hình thức khen thưởng đều xuất phát từ thi đua. như: Khen thưởng đối ngoại,
khen tổng kết thành tích kháng chiến, khen đột xuất, khen thưởng người có quá trình lâu
dài trong cơ quan, tổ chức đoàn thể… Ngược lại, khi tham gia phong trào thi đua, mục
tiêu cuối cùng mà cá nhân, tổ chức hướng tới là kết quả trong thực hiện công việc của
mình, chứ không phải là để được khen thưởng, tôn vinh.
1.1.2. Vị trí, vai trò của thi đua.
- Thi đua là công cụ thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào cách mạng, phát huy sức
mạnh tổng hợp, động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân thi đua lao động sản xuất, học
tập, chiến đấu góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc.
- Thi đua còn là một công cụ để quản lý nhà nước. Bởi vì, mọi công việc suy cho
cùng đều do nhân dân và các tổ chức cơ sở thực hiện, vậy ai làm tốt, tập thể nào làm tốt
phải biết và khen ngợi, phải tuyên dương để học tập. Có như vậy những việc tốt, việc tích
cực mới nhiều lên, mới phát triển lấn át và đẩy lùi cái xấu, tiêu cực.
- Thi đua là biện pháp cần thiết để xây dựng con người mới, phát triển toàn diện.
Thi đua có nhiệm vụ phát huy mọi nguồn lực, góp phần nâng cao năng lực và trình độ
khoa học công nghệ, gắn với việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước.
1.2. Pháp luật về thi đua
1.2.1. Khái quát pháp luật về thi đua từ năm 1945 đến nay
- Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quốc lệnh ban hành
10 điều thưởng phạt ngày 26/1/1946, nêu rõ 10 loại công việc và thành tích cần được kịp
thời khen thưởng; Sắc lệnh số 83/SL ngày 17/9/1947 thành lập Viện Huân chương, Sắc
lệnh số 195-SL ngày 01/6/1968 thành lập Ban vận động thi đua ái quốc trung ương và cấp
Page | 4



cơ sở. Noài các văn bản trên, Nhà nước còn ban hành một số văn bản quy định các hình
thức khen thưởng, góp phần động viên nhân dân cả nước thi đua lao động sản xuất và
chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
- Giai đoạn từ 1954 đến 1975: Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về thi đua, khen
thưởng. Ngoài một số văn bản quy định về danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng,
các văn bản pháp luật thời kỳ này chủ yếu để hướng dẫn khen thưởng thành tích kháng
chiến; ở miền Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
quyết định ban hành nhiều loại Huân chương, Huy chương, danh hiệu vinh dự nhà
nước… tặng cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân miền Nam có thành tích xuất sắc trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu chống đế quốc Mỹ và tay sai.
- Giai đoạn từ 1975 đến 2003: Thời gian đầu khi đất nước mới thống nhất và thời kỳ
trước đổi mới (năm 1986), các văn bản chủ yếu quy định và hướng dẫn việc khen thưởng
thành tích kháng chiến. Sau năm 1986, pháp luật về thi đua, khen thưởng cũng có nhiều
tiến bộ. Ngoài một số văn bản tiếp tục hướng dẫn khen thưởng kháng chiến, ngày
29/8/1994 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu "Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng". Chính phủ ban hành Nghị định số 56/1998/NĐ-CP ngày 30/7/1998
quy định các hình thức, đối tượng và tiêu chuẩn khen thưởng của Chính phủ, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và nhiều văn bản
pháp luật khác… Các văn bản ngày càng được hoàn thiện về nội dung, hình thức, thể
thức và kỹ thuật thuật trình bày văn bản.
- Từ năm 2003 đến 2013: Quốc hội thông qua Luật Thi đua, Khen thưởng ngày
26/11/2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng ngày
14/6/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng (nay là Nghị
định định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ), Nghị định số
122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng;
Nghị định số 50/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 quy định mẫu Huân chương, Huy chương,
Huy hiệu, Bằng Huân chương, Bằng Huy chương, Cờ Thi đua, Bằng khen, Giấy khen.


Page | 5


Ngày 31/7/2007, Văn phòng Chính phủ ban hành Thông tư số 01/2007/TTVPCP hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ...
- Từ năm 2014 đến nay: Luật số 39/2013/QH13 ngày 16 tháng 11 năm 2013 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 6 năm 2014, Nghị định 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014, Nghị định số
91/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật thi đua, khen thưởng; Thông tư 08/2017/TT-BNV ngày 27/10/2017 của
Bộ Nội vụ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 91/2017/NĐ-CP
ngày 31/07/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng . Những văn bản nêu trên là những văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh
về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay, được quy định khá thống nhất và chặt chẽ,
thể hiện chính sách thi đua, khen thưởng của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Nội dung pháp luật hiện hành về thi đua.
- Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể
nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Mục tiêu thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá
nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo, vươn lên hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
- Về nguyên tắc thi đua: Có hai nguyên tắc gồm "Tự nguyện, tự giác, công khai" và
"Đoàn kết, hợp tác, cùng phát triển".
- Về hình thức thi đua: Thi đua thường xuyên và thi đua theo đợt (hoặc thi đua theo
chuyên đề).
- Danh hiệu thi đua: Theo qui định tại Điều 7 Luật Thi đua, Khen thưởng và Mục 2
Nghị định số 91/2017/NĐ-CP các danh hiệu thi đua gồm có:
+ Các danh hiệu thi đua đối với cá nhân: "Chiến sĩ thi đua toàn quốc"; "Chiến sĩ thi

đua cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương"; "Chiến sĩ thi đua cơ sở"; "Lao động tiên
tiến", "Chiến sĩ tiên tiến".

Page | 6


+ Các danh hiệu thi đua đối với tập thể: "Cờ thi đua của Chính phủ"; "Cờ thi đua
cấp bộ, ban, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương"; "Tập thể lao động xuất sắc", "Đơn vị
quyết thắng"; "Tập thể lao động tiên tiến", "Đơn vị tiên tiến"; Thôn, bản, làng, ấp, tổ dân
phố văn hóa và tương đương.
+ Danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình là "Gia đình văn hóa".
- Căn cứ xét danh hiệu thi đua: Phong trào thi đua, đăng ký tham gia thi đua, thành
tích thi đua và tiêu chuẩn thi đua.
- Tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua: Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua được qui định từ
Điều 20 đến Điều 31 Luật Thi đua, Khen thưởng và từ Điều 09 đến Điều 12 Nghị định số
91/2017/NĐ-CP của Chính phủ, với mỗi loại danh hiệu thi đua được quy định các tiêu
chuẩn cụ thể, thành tích thi đua tương ứng với mức độ đóng góp cho sự nghiệp chung của
đất nước, của Bộ, ngành, địa phương và đơn vị.

Page | 7


Chương 2
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA
2.1. Kết quả thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua
- Các phong trào thi đua phạm vi toàn quốc được phát động sâu rộng và toàn diện
trên tất cả các mặt, các lĩnh vực cửa đời sống xãhôị , do Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng
Thi đua -Khen thưởng Trung ương phát động, nhằm cổ vũ, động viên các cấp, các ngành
và nhân dân cả nước tích cực thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời điểm,
từng giai đoạn nhất định.

Các phong trào thi đua đã bám sát tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
để xác định mục tiêu và nội dung thi đua, cổ vũ, động viên các cấp, các ngành và nhân
dân cả nước tích cực phấn đấu, vượt qua khó khăn, hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Mặt khác, các phong trào thi đua phạm vi toàn quốc cũng chính là các phong trào nòng
cốt, khơi dậy phong trào thi đua trong cả nước.
- Các Bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương và các địa phương đã tổ chức nhiều
phong trào thi đua, cụ thể hóa nội dung thi đua trên tất cả các mặt các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tạo không khí thi đua sôi nổi, rộng khắp, thực sự trở thành động lực, góp
phần khai thác mọi tiềm năng, tập trung các nguồn lực để thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ trọng tâm của các cấp, các ngành, góp phần xứng đáng vào thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Việc bình xét,
phong tặng các danh hiệu thi đua có nhiều tiến bộ và đi vào nề nếp, bám sát các quy định
của pháp luật.
2.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về thi đua
2.2.1. Hạn chế trong các quy định của pháp luật về thi đua
- Về hình thức thi đua: Nghị định 91/2017/NĐ-CP quy định đồng nhất giữa hình
thức thi đua theo đợt và thi đua theo chuyên đề, gây khó khăn trong việc xác định biện
pháp chỉ đạo thực hiện phù hợp.
- Về căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua: Luật Thi đua, Khen thưởng quy định một
trong những căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua là "đăng ký tham gia thi đua", đã hành

Page | 8


chính hóa việc tham gia phong trào thi đua và hạn chế tính tự giác trong thực hiện phong
trào thi đua
- Về đối tượng được xét tặng danh hiệu "Lao động tiên tiến": Điều 10, Nghị định số
91/2017/NĐ-CP, quy định phạm vi đối tượng được xét tặng danh hiệu "Lao động tiến
tiến" bị thu hẹp hơn so với quy định tại khoản 1 và khoản 3, điều 24 Luật Thi đua, khen
thưởng.

- Về tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua:
+ Quy định về tiêu chuẩn một số danh hiệu thi đua còn khái quát, chủ yếu mang tính
định tính, dẫn đến việc bình xét các danh hiệu thi đua hoặc quá chặt chẽ hoặc quá dễ dãi.
+ Đối với hình thức "Cờ Thi đua Chính phủ": Khoản 3, Điều 11, Nghị định số
91/2017/NĐ-CP quy định chỉ tặng Cờ Thi đua của Chính phủ cho các đơn vị đã được
tặng Cờ thi đua cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương, dẫn đến sự bất hợp lý trong
việc phong tặng danh hiệu thi đua và trong việc đề nghị các hình thức khen thưởng.
- Về thẩm quyền quyết định công nhận danh hiệu thi đua: Điều 80 Luật Thi đua,
Khen thưởng quy định thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua của các cơ quan, tổ chức
thuộc Bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương không thực hiện được nếu các cơ quan này
không có tư cách pháp nhân. Thẩm quyền quyết định phong tặng danh hiệu "Lao động
tiên tiến ", "Tập thể lao động tiên tiến" của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chưa
phù hợp. Chưa quy định thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua đối với Chủ tịch Hội
đồng quản tri ̣, Tổng giám đốc , Giám đốc các doanh thuộc các thành phần kinh tế.
2.2.2. Hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua.
- Các bộ, ngành, địa phương ban hành văn bản (cả văn bản quy phạm pháp luật và
văn bản hành chính), để chỉ đạo và hướng dẫn công tác thi đua chưa bám sát những quy
định của Luật và Nghị định.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi đua chưa được các cấp, các ngành
và các địa phương thực sự quan tâm, còn thiếu các hình thức tuyên truyền thiết thực, hiệu
quả.
- Các phong trào thi đua phát triển chưa đồng đều. Tổ chức các phong trào thi đua
còn hình thức, thiếu thường xuyên, liên tục, chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc,
Page | 9


hướng dẫn, chưa tạo được sự phối hợp, liên kết của các bộ, ngành, địa phương và các cơ
quan liên quan.
- Thủ tục hành chính trong công tác thi đua còn phức tạp, nhiều điểm chưa rõ ràng,
còn rườm rà.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về
thi đua chưa được tiến hành thường xuyên và hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầu công việc, trình độ, năng lực còn hạn chế, thiếu kiến thức về pháp luật.

Page | 10


Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THI ĐUA
3.1. Mục tiêu và những quan điểm cơ bản
3.1.1. Mục tiêu
Tiếp tục xây dựng các quy định của pháp luật về thi đua, bảo đảm sự thống nhất,
phù hợp với tình hình thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý ngày
càng hoàn thiện hơn để Nhà nước quản lý thi đua bằng pháp luật; đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi để người dân tiếp cận, tìm hiểu, áp dụng một cách thuận tiện, nhằm nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước về công tác thi đua, tạo động lực cách mạng, lôi cuốn động
viên khuyến khích mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức phát huy truyền thống, năng động,
sáng tạo vươn lên lập thành tích xuất sắc trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thi đua với tư cách làm một công cu q ̣ uản lý nhà nước là một lĩnh vực công tác
thiết thực và cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là một bộ phận không thể
tách rời trong tiến trình đổi mới hiêṇ nay, và để công tác thi đua thực sự phát huy được vi
̣trí, vai trò của mình thì không thể không có sự thể chế hóa bằng pháp luật của nhà nước,
nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thi ̣trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Hoàn
thiện pháp luật về thi đua ở nước ta hiện nay là điều kiện tiên quyết để duy trì trật tự và
thúc đẩy công tác thi đua, đánh giá thi đua đúng, đủ và tạo không khí phấn đấu, hăng say
lao động sản xuất; đồng thời để công tác thi đua thực sự trở thành động lực thúc đẩy hoạt
động chính trị, kinh tế, xã hội phát triển.

3.1.2. Những quan điểm cơ bản
- Pháp luật về thi đua phải thể hiện được tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi
đua ái quốc; quán triệt và thể chế hóa các đường lối chính sách thi đua của Đảng trong
giai đoạn mới.
- Pháp luật về thi đua thể hiện được truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam là "Uống nước nhớ nguồn"; phát huy những ưu điểm, kinh nghiệm về công tác thi
đua qua các giai đoạn cách mạng.
Page | 11


- Pháp luật về thi đua phải xác định được hệ thống tiêu chí thi đua góp phần xây
dựng các chuẩn mực đạo đức và pháp lý của xã hội Việt Nam trong giai đoạn phát triển
mới. Tạo lập khuôn khổ pháp lý, làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của công tác thi
đua.
- Pháp luật về thi đua khi được ban hành phải đảm bảo tính thống nhất giữa tính
chất, hình thức và đối tượng.
3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thi đua.
Vấn đề đặt ra là trong cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác thi đua,
khen thưởng cần phải ghi nhận những vấn đề nào , hình thức hoạt động nào, quan điểm
nào, phương pháp xử lý?... thì bên cạnh những đòi hỏi mang tính nguyên tắc chung, trong
mỗi thời kỳ, tùy theo đặc thù trong sự phát triển của đất nước để có những giải pháp hoàn
thiện pháp luật. Dưới đây là một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về thi đua
trong giai đoạn hiện nay của cá nhân em.
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về thi đua.
- Về hình thức thi đua: Bổ sung quy định về hình thức thi đua theo chuyên đề vào
khoản 1, Điều 15 Luật Thi đua, khen thưởng và quy định rõ khái niệm về hình thức thi
đua này.
- Về đối tượng được xét tặng danh hiệu "Lao động tiên tiến": Bổ sung vào Điều 10,
Nghị định số 91/2017/NĐ-CP, về đối tượng được xét tặng danh hiệu "Lao động tiến tiến",
theo đó thêm quy định khái quát để bao hàm hết được những đối tượng là người lao động

thuộc các thành phần kinh tế.
- Căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua : Sửa đổi khoản 1, Điều 10 Luật Thi đua , Khen
thưởng, theo đó không quy định căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua phải có "đăng ký thi
đua"
- Về tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua:
+ Sửa đổi một số điều của Luật Thi đua , Khen thưởng và Nghi đ ̣ ịnh số
91/2017/NĐ-CP theo hướng nâng cao tiêu chuẩn đối với các danh hiệu thi đua. Có thể
quy định tỷ lên phần trăm số người được tặng danh hiệu thi đua so với tổng số người lao

Page | 12


động của cơ quan, địa phương, đơn vi, ̣tránh tình trạng bình xét tràn lan danh hiệu thi
đua.
+ Đối với danh hiệu "Cờ Thi đua Chính phủ ": Sửa đổi điều khoản 3, Điều 11, Nghị
định số 91/2017/NĐ-CP: Đối tượng được tặng Cờ Thi đua Chính phủ được lựa chọn
trong số những tập thể đã được bình xét tặng Cờ Thi đua cấp bộ ngành, tỉnh, đoàn thể
Trung ương.
- Về thẩm quyền quyết định công nhận danh hiệu thi đua: Sửa đổi khoản 1, Điều 80
Luật Thi đua, Khen thưởng theo hướng: Bổ sung thẩm quyền quyết định phong tặng một
số danh hiệu thi đua đối với Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế; phân cấp thẩm quyền cho Chủ tic ̣h Ủy ban nhân dân cấp xã
. Đối với các cơ quan, tổ chức thuôc ̣ bộ, ban, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ không có tư cách pháp nhân, do Thủ trưởng cấp trên trực tiếp quyết định công
nhận danh hiệu thi đua.
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thi đua.
Công tác tuyên truyền , giáo dục pháp luật phải được kết hợp thống nhất với công
tác tổ chức và các hoạt động khác, phải gắn chặt với phong trào cách mạng quần chúng
và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng các phương tiện.
Cần sử dụng linh hoạt các biện pháp khác nhau đối với từng đối tượng và từng hoàn

cảnh cụ thể . Ngoài các hình thức truyền thống cần mở rộng các hình thức đặc thù như :
Tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến; tuyên truyền thông qua nội dung các phong
trào thi đua. Công tác tuyên truyền phải hướng tới mọi đối tượng trong xã hội . Đặc biệt
phải chú ý hướng công tác tuyên truyền , giáo dục về cấp cơ sở , vùng sâu, vùng xa,
những vùng còn khó khăn về phát triển kinh tế, xã hội.
3.2.3. Thực hiện pháp luật về thi đua theo hướng đổi mới công tác thi đua.
- Đổi mới trong tổ chức các phong trào thi đua: Mục tiêu, nội dung thi đua phải sát
thực , có tính toàn diện, đột phá vào những trọng tâm , trọng điểm, những việc khó hoặc
những mặt còn yếu kém của cơ quan, điạ phương, đơn vi. ̣
Các chỉ tiêu thi đua phải cụ thể , sát thực tiễn, được sự đồng tình, hưởng ứng của
các cá nhân, tập thể tham gia phong trào thi đua. Mở rộng đối tượng thi đua trong tất cả
Page | 13


các thành phần kinh tế và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, coi trọng việc
phát triển phong trào thi đua trong các tổ chức kinh tế ngoài nhà nước. Phong trào thi đua
phải đươc ̣ phát động sâu rộng trong quần chúng nhân dân, quy tu đ ̣ ược mọi nguồn lực xã
hội thực hiện mục tiêu chung của đất nước.
Xây dựng kế hoạch tổ chức thi đua phải phù hợp với thực tế, gắn với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị và nguyện vọng của quần chúng. Xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát và chế độ trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Đổi mới công tác tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến.
- Cải cách hành chính trong thi đua
Thực hiện phân công , phân cấp trong xét duyệt , đề nghị và quyết định thi đua đối
với từng cấp, từ đó nâng cao trách nhiệm trong thi đua.
Cải tiến quy trình xét thi đua, rà soát các quy định về hồ sơ, thủ tục thi đua, để loại
bỏ các các thủ tục còn chồng chéo, trùng lặp, đơn giải hóa thủ tục hành chính trong thi
đua.
Nâng cao trách nhiệm và đổi mới hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng
các cấp.

3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về thi đua
Thanh tra, kiểm tra viêc ̣ chấp hành các quy định của pháp luật về thi đua cần phải
tiến hành kiểm tra ngay tại chính cơ quan, đơn vi l ̣ àm công tác thi đua.
Công tác thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, thủ tục nhưng
nhanh gọn, không gây xáo trộn, phiền hà cho đơn vi đ ̣ ược thanh, kiểm tra.
Công tác thanh tra, kiểm tra phải đươc ̣ tiến hành toàn diện từ khâu thực hiện hồ sơ,
thủ tục, thẩm định, cấp phát hiện vật thi đua, và sử dụng quỹ thi đua.
Xây dựng đội ngũ công chức làm công tác thanh tra từ trung ương đến các điạ
phương nắm vững về chuyên môn nghiệp vụ thi đua, nghiệp vụ thanh tra và có đạo đức
nghề nghiệp .
3.2.5. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức làm thi đua.
- Tiếp tục kiện toàn bô m
̣ áy tổ chức làm công tác thi đua từ Trung ương đến địa
phương.
Page | 14


- Về công tác quản lý cán bộ, công chức: Tiến hành tổng điều tra đánh giá đội ngũ
công chức làm thi đua. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ công
chức. Ban hành quy định cơ cấu công chức và tiêu chuẩn chức danh công chức theo
ngạch bậc của ngành thi đua trong hê t ̣ hống thang, bảng lương công chức của nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo , bồi dưỡng cho đội ngũ công chức làm thi đua. Cho
phép thành lập Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng công chức làm công tác thi đua ở Trung
ương là đơn vi s ̣ ư nghiệp tương đương cấp vu t ̣ huộc Ban Thi đua -Khen thưởng Trung
ương.
- Thực hiện tốt các chính sách đối với công chức làm thi đua. Xây dựng và hoàn
thiện chính sách cán bộ, công chức phải được tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn
thiện cơ chế chính sách cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức làm thi đua,
khen thưởng nói riêng.


Page | 15



×