Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích 04 (bốn) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.34 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại,
Luật trọng tài thương mại đã có nhiều quy định về sự hỗ trợ của tòa án đối
với hoạt động của trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại hoạt động có
hiệu quả tốt sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho tòa án trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của các nhà kinh doanh trong việc
giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại. Để tìm hiểu
sau hơn về vấn đề, em xin chọn đề bài: “Phân tích 04 (bốn) quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định
đó.” làm bài tập học kỳ của mình.
NỘI DUNG
I. Khái quát về trọng tài thương mại
1. Khái niệm
Theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật tọng tài thương mại 2010 thì: “ trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này.”
2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt
động theo pháp luật và quy chế về trọng tài thương mại. Nhà nước không
can thiệp sâu vào các hoạt động của cơ quan trọng tài, nhưng sẽ thực hiện
vai trò quản lý của mình thông qua hệ thống các quy định pháp luật, cũng
như những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ
kinh phí và cơ sở vật chất...
Thứ hai, trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán.
Trước tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài.
1


Một trong những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được


hình thành từ ý chí thỏa thuận của các bên tranh chấp.
Thứ ba, pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt
Nam đều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động
của trọng tài thương mại. Tòa án hỗ trợ trọng tài về các nội dung như: thông
qua trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
thương mại...
Thứ tư, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là
trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế.
Thứ năm, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể
kháng cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử một lần,
phán quyết có giá trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết sẽ
được chuyển sang Cơ quan thi hành án.
3. Vai trò của tòa án đối với hoạt động tọng tài thương mại
Xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán phi
chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh
chấp giao phó, ủy nhiệm do đó trọng tài không mang trong mình quyền lực
nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang
tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước mà đại diện
cho ý chí của các bên tranh chấp. Do đó cần đến sự giúp đỡ của Tòa án và
các cơ quan tư pháp khác.
Xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam: Các
tranh chấp phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam ngày một nhiều
hơn và đa dạng về chủng loại, phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải
có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu
khác nhau của chủ thể kinh doanh.

2


Xuất phát từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa kinh tế: Cùng

với sự phát triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được đưa đến Tòa kinh tế ngày càng
nhiều, đã tạo ra tình trạng "quá tải", án tồn đọng tại các Tòa kinh tế, đặc biệt
là ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động trọng tài:
Nhà nước nói chung và các cơ quan Nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản
lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà
nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã
thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo
ra hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của
Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại, Luật trọng
tài thương mại 2010 đã có nhiều quy định về sự hỗ trợ của tòa án đối với
hoạt động của trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại hoạt động có hiệu
quả tốt sẽ giảm bớt gánh nặng cho tòa án trong việc giải quyết các tranh
chấp trong kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu của nhà kinh doanh trong việc
giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại.
Sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại được
thể hiện ở các vẫn đề sau đây:
1. Tòa án có thể quyết định thay đổi trọng tài viên
Theo yêu cầu của nguyên đơn, tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc
cư trú có thể quyết định thay đổi trọng tài viên, trong trường hợp hội đồng
trọng tài được các bên thành lập cần phải thay đổi một trọng tài viên mà các
trọng tài viên khác trong hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc cần

3


phải thay đổi hai trọng tài viên trong hội đồng hoặc thay đổi trọng tài viên

duy nhất khi trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết vụ tranh chấp.
Theo Điều 9 Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định luật trọng
tài thương mại số 01/2014/NQ-HĐTP về thay đổi Trọng tài viên trọng tài vụ
việc quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật trọng tài thương mại
1. Tòa án chỉ thụ lý và giải quyết việc thay đổi Trọng tài viên trọng tài
vụ việc trong những trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật trọng tài
thương mại
Người có yêu cầu thay đổi Trọng tài viên phải làm đơn yêu cầu bằng
văn bản, trong đó nêu rõ trường hợp và lý do thay đổi Trọng tài viên.
2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Chánh
án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền phân công một Thẩm phán thực
hiện việc thay đổi Trọng tài viên. Tòa án có thẩm quyền thông báo ngay cho
Hội đồng trọng tài, các Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc, các
bên tranh chấp về việc thụ lý đơn yêu cầu và Thẩm phán được phân công
giải quyết.
3. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm
phán xét đơn yêu cầu thay đổi Trọng tài viên mà không phải mở phiên họp
để xét đơn yêu cầu, không phải triệu tập các bên tranh chấp.
4. Khi xét đơn yêu cầu, Thẩm phán căn cứ vào quy định tại Điều 20,
Điều 21 và khoản 6 Điều 42 Luật trọng tài thương mại, danh sách Trọng tài
viên của các tổ chức trọng tài hoạt động tại Việt Nam quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 15 Luật trọng tài thương mại, khoản 4 Điều 2 và Điều 19 Nghị
định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật trọng tài thương mại và các

4


tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định Trọng tài viên có thuộc trường hợp
bị thay đổi hay không.

Trường hợp yêu cầu thay đổi Trọng tài viên là có căn cứ, thì tùy từng
trường hợp cụ thể mà Thẩm phán căn cứ quy định tương ứng để quyết định
việc thay đổi Trọng tài viên. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thay đổi
Trọng tài viên, thì Thẩm phán phải ra quyết định bằng văn bản, trong đó nêu
rõ lý do của việc không chấp nhận yêu cầu thay đổi. Quyết định thay
đổi Trọng tài viên được thực hiện theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Nghị
quyết này.
5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án
gửi quyết định cho các bên, Hội đồng trọng tài, Trọng tài viên, Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp.
2. Tòa án có thể xem xét lại quyết định về thẩm quyền của hội đồng
trọng tài.
Thẩm quyền giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể của hội đồng trọng tài
do thỏa thuận trọng tài là do thỏa thuận trọng tài của các bên xác định.
Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu lại của một bên
về việc hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, vụ
tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu,
hội đồng trọng tài phải xem xét quyết định xem vụ tranh chấp có thuộc thẩm
quyền của mình hay không. Nếu các bên không đồng ý với quyết định của
trọng tài thì quyền yêu cầu tòa án cấp tỉnh, nơi hội đồng trọng tài đã ra quyết
định, xem xét lại quyết định của hội đồng trọng tài. Trong trường hợp, tòa án
quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài, vụ
tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu

5


thì hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp.
Các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra tòa án.
Khoản 1 Điều 44 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định,Trong

trường hợp không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài quy định tại
Điều 43 của Luật này (Xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài) ,
trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội
đồng trọng tài, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem
xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài. Bên khiếu nại phải đồng thời thông
báo việc khiếu nại cho Hội đồng trọng tài.
3. Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Có các tranh chấp xảy ra với nội dung phức tạp, mức độ tranh chấp
gay gắt… chúng đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền
lợi cho các đương sự. Do đó, trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết
vụ tranh chấp, nếu cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa
án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích
hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp theo quy định tại Điều 48 Luật
trọng tài thương mại 2010 “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng
trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của
Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác; Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Theo đó, hội đồng trọng tài hoặc Tòa án
có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên
đương sự yêu cầu, tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên.
6


Cụ thể, những biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của hội
đồng trọng tài được quy định tại Khoản 2 Điều 49:
a) Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
b) Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một

số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá
trình tố tụng trọng tài;
c) Kê biên tài sản đang tranh chấp;
d) Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp;
đ) Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
e) Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án
thực hiện được quy định tại Khoản 1 Điều 53: “Sau khi nộp đơn khởi kiện,
nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực
tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền
yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện
được quy định tại Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Vì vậy, khi yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu
tới đúng cơ quan có thẩm quyền.
Bên có đơn yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có
bằng chứng chứng minh việc áp dụng các biện pháp đó là cần thiết và phải
chịu trách nhieemh về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng và gây thiệt hại thì phải bồi
thường.
Ngoài ra, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm cấp tạm thời
phải nộp một khoản tiền bảo đảm do tòa án ấn định nhưng không quá nghĩa
7


vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn
và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tamh thời từ phía có người
yêu cầu.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ

biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 Luật trọng tài
thương mại 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể
bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước đối với hoạt động của trọng tài
thương mại, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt
quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện.
Ngoài ra, Khoản 3 Điều 49 Luật có quy định: “Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một
hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà
sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và Khoản 5 Điều 53 cũng có
quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã
yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu hội đồng trọng tài đã áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp
những nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài, và ngược
lại. Ta có thể thấy Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các
bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các
biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng
tài.Luật đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời giữa hội đồng trọng tài và Tòa án nhằm tránh tình trạng
8


xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường
hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp

lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của hội đồng trọng tài.
4. Tòa án có thể quyết định hủy hay không hủy quyết định trọng tài
Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Không ai có thể đảm bảo rằng quyết
định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện.
Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp
tại trọng tài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Luật trọng tài
thương mại quy định trọng tài có quyền làm đơn gửi tòa án cấp tỉnh nơi hội
đồng trọng tài đã ra quyết định trọng tài yêu cầu hủy quyết định trọng tài.
Trên cơ sở yêu cầu đó, tòa án có quyền ra quyết định hủy hay không hủy
quyết định trọng tài.
Căn cứ tuyên hủy phán quyết trọng tài: Tòa án xem xét việc hủy phán
quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên.
Theo Điều 69 Luật trọng tài thương mại 2010, Trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để
chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền
làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Trường

9


hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có sự kiện bất
khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ vào hợp
pháp.

Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp
với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường
hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để
ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công
bằng của phán quyết trọng tài;
Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam.
III. Bình luận thực tiễn áp dụng các quy định về sự hỗ trợ của tòa án
đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Thực tiễn áp dụng bốn quy định của luật tọng tài thương mại 2010
trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ so với Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003, tuy nhiên vẫn có những bất cập, cụ thể như sau:
1. Về quy định Tòa án có thể quyết định thay đổi trọng tài viên

10


Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật trọng tài thương mại quy định
thời hạn Tòa án phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi
Trọng tài viên là 15 ngày, kể từ ngày có đơn yêu cầu mà không có quy định
về thời hạn nộp đơn yêu cầu của các chủ thể nói trên. Điều này, đôi khi làm
kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể có quyền yêu
cầu không nộp đơn yêu cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án không có

thẩm quyền trong việc thay đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không có Trọng
tài viên thay thế.
Nên quy định thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu
đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài viên thông báo bằng văn
bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những
tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình. Các bên chỉ
có quyền gửi yêu cầu thay đổi trọng tài viên trong thời hạn cho phép. Hết
thời hạn theo quy định mà các bên không đưa ra yêu cầu thay đổi trọng tài
viên thì họ sẽ mất quyền yêu cầu. Điều này vừa khiến quá trình tố tụng được
đảm bảo lại vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên. Họ phải theo
dõi sát sao quá trình thành lập Hội đồng trọng tài cũng như trong suốt quá
trình xét xử để đảm bảo cho quyền lợi của mình. Bởi trong thực tế nhiều khi
một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách nhiệm nên không muốn tham
gia tố tụng trọng tài. Đặc biệt là trong hình thức trọng tài vụ việc, các bên sẽ
tự do tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài theo ý chí của mình nên họ có
thể gặp khó khăn lớn nếu một bên (thường là bị đơn) không muốn tham gia
vào trọng tài khi tranh chấp phát sinh. Do đó họ không đáp lại yêu cầu thành
lập Hội đồng trọng tài của bên kia, sau đó họ lại tìm cách trì hoãn tố tụng
bẳng cách yêu cầu thay đổi trọng tài viên. Quy định cụ thể về thời hạn các
chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền sẽ hạn
chế được tình trạng này.
11


2. Về việc Tòa án có thể xem xét lại quyết định về thẩm quyền của hội
đồng trọng tài.
Về điểm này, Pháp luật trọng tài thương mại đã quy định khá chặt chẽ.
Khi không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài quy định tài Điều
43 Luật trọng tài thương mại thì các bên có quyền gửi yêu cầu Tòa án xem
xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài trong thời hạn 05 ngày, và phải

thông bào cho Hội đồng trọng tài biết. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 43 cũng quy
định trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu phát hiện Hội đồng trọng tài
vượt quá thẩm quyền, các bên có thể khiếu nại với Hội đồng trọng tài. Hội
đồng trọng tài có trách nhiệm xem xét, quyết định. Tức Hội đồng cũng có
quyền xem xét, quyết định lại quyết định của mình. Như vậy, phải chăng đã
có sự chồng chéo thẩm quyền, sẽ dẫn đến những rắc rối và ảnh hưởng đến
quá trình giải quyết vụ việc. Có lẽ cần có những quy định cụ thể hơn để phân
biệt thẩm quyền của Tòa án và Hội đồng trọng tài để giải quyết tình trạng
trên.
3. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Luật trọng tài thương mại 2010 của Việt Nam quy định rất uyển
chuyển, cũng như rất thận trọng rằng khi cho các bên có thể lựa chọn Tòa án
hoặc hội đồng trọng tài để yêu cầu thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Việc quy định rất rõ ràng cụ thể việc bên nào sẽ có thẩm quyền ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không chồng chéo lẫn nhau mà
vẫn đảm bảo tính "kịp thời" là một thiết kế rất khôn khéo, phù hợp với tình
hình hiện nay ở Việt Nam. Điều này không chỉ thể hiện khả năng lập pháp
của nước ta đã được tăng lên mà còn góp phần làm tăng niềm tin của các
doanh nghiệp vào việc lựa chọn hình thức trọng tài.

12


Tuy nhiên điều luật này khi đi vào đời sống vẫn còn gặp nhiều ý kiến
cũng như vấn đề trái chiều khác nhau.
Cả Tòa án và Hội đồng trọng tài đều có quyền áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời.Sẽ có những trường hợp thì Tòa án tích cực hợp tác, ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi trọng tài có yêu cầu nhưng
cũng sẽ có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho Hội đồng trọng tài
với lí do bản thân Hội đồng trọng tài cũng có quyền ra quyết định thực hiện

các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hoặc ngược lại, cũng lại có trường hợp các
bên Toà án và Hội đồng "tranh nhau" ra quyết định thực hiện với yêu cầu
của 2 bên đương sự.
Tuy rằng Hội đồng trọng tài cũng được giao quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời nhưng trên thực tế việc thực hiện hơi khó. Trên thực tiễn
đời sống quy định này phụ thuộc vào thiện chí các bên khi mà Hội đồng
trọng tài không có quyền lực cưỡng chế thi hành, mà các bên tranh chấp
không phải lúc nào cũng nghe theo yêu cầu của trọng tài. Việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời mang nặng tính cưỡng chế nên cần có các cơ quan
chức năng ra tay chứ trọng tài không thể làm được. Một số ý kiến cho rằng
theo thông lệ quốc tế thì trọng tài không có thẩm quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Thông thường thì trọng tài chỉ ra văn bản yêu cầu áp
dụng và gửi sang tòa án để tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà thôi. Do đó còn một số ý kiến phản đối việc cho Hội đồng trọng
tài thẩm quyền này.
4. Về quyết định hủy hay không huy phán quyết của trọng tài
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, tính đến hết tháng 6.2014, số lượng
phán quyết trọng tài bị hủy trong cả nước là 7/33 đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài, chiếm tỷ lệ khoảng 22% số đơn yêu cầu. Mặc dù có ý kiến
cho rằng, số lượng phán quyết trọng tài bị hủy chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, song
13


nếu xét trong mặt bằng chung của thế giới, Việt Nam được xem là quốc gia
“vô địch” về hủy phán quyết trọng tài. Riêng đối với Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam VIAC, số lượng phán quyết trọng tài bị hủy có chiều
hướng gia tăng. Cụ thể trong giai đoạn từ 2003 - 2014 với tỷ lệ số vụ tranh
chấp có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chiếm 12% thì tới 43% trong
số đó bị hủy. Riêng tỷ lệ hủy phán quyết trọng tài giai đoạn 2011 - 2014 đã
lên tới 50%. Đây là tỷ lệ hủy rất cao, điều này làm giảm niềm tin và hiệu quả

của phương thức trọng tài, môi trường pháp lý và kinh doanh của Việt Nam
cũng bị ảnh hưởng đáng kể.
Bên cạnh những vi phạm thủ tục tố tụng như lựa chọn trọng tài viên,
lập hội đồng trọng tài, không tuân thủ quy tắc tố tụng áp dụng giải quyết vụ
kiện, cũng không hiếm trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy không có đủ
căn cứ và không đúng với tinh thần của Luật Trọng tài thương mại 2010.
Theo Thẩm phán Tòa Kinh tế, Tòa án Nhân dân TP Hà Nội Nguyễn
Đình Tiến, quy định pháp luật còn nhiều điểm chưa cụ thể, chưa rõ ràng đã
dẫn tới cách hiểu và áp dụng khác nhau khiến cho có những phán quyết bị
hủy một cách không thuyết phục. Các yêu cầu hủy phán quyết chủ yếu chỉ
còn tập trung vào một số nội dung như thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thẩm
quyền trọng tài, thủ tục trọng tài bị vi phạm không đúng với thỏa thuận của
các bên về thành phần hội đồng trọng tài và đặc biệt là quy định “phán quyết
trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Mặc dù quy định về vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam đã được ghi nhận trong Nghị quyết 01/2014/HĐTP - NQ, đó là phán
quyết vi phạm những nguyên tắc cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc
xây dựng và thi hành pháp luật Việt Nam. Thế nhưng, để đánh giá tiêu chí
phán quyết có vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hay không
và vi phạm một hay nhiều nguyên tắc cơ bản cũng là thách thức không nhỏ
14


cho thẩm phán, do các vụ tranh chấp thường có nội dung phức tạp, liên quan
tới nhiều lĩnh vực, nhiều ngành luật khác nhau, đòi hỏi phải có kiến thức
chuyên sâu cần thiết để đánh giá tiêu chí đâu là nguyên tắc pháp luật có liên
quan.
Theo Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì phán quyết
của Trọng tài có thể bị hủy nếu như phán quyết đó dựa trên căn cứ là chứng
cứ giả mạo do các bên cung cấp. Quy định này đã dẫn tới cách áp dụng khác

nhau của nhiều thẩm phán, có thẩm phán nhận định là nếu xem xét chứng cứ
giả mạo thì có thể xem xét về nội dung, trong khi luật không có yêu cầu xét
xử lại nội dung vụ tranh chấp. Hơn nữa, Luật mẫu về trọng tài thương mại
quốc tế của Ủy ba liên hợp quốc UNCITRAL và pháp luật về trọng tài của
các nước cũng không đưa ra căn cứ hủy phán quyết trọng tài trong trường
hợp chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để
ra phán quyết là giả mạo. Trên thực tế đang có sự lạm dụng căn cứ này để
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

KẾT LUẬN
Thiết nghĩ việc áp dụng các quy định về sự hộ trợ của Tòa án đối với
hoạt động của trọng tài thương mại là hoàn toàn cần thiết.Tuy nhiên, việc áp
dụng các quy định này còn nhiều bất cập. Bên cạnh những điều đã đạt được
là những nhược điểm do sự thiếu rành mạch của pháp luật, chưa hiểu biết về
pháp luật cũng như cách áp dụng pháp luật của từng Tòa án. Cần phải tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản để đảm bảo cho các quy định về sự hỗ trợ của Tòa
án đối với trọng tài thương mại.Bên cạnh đó, cũng cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài nói chung và Luật trọng tài
thương mại 2010 nói riêng trong cộng đồng các doanh nghiệp và các đối
tượng có liên quan để hoạt động hỗ trợ của Tòa án với trọng tài thương mại
được hiệu quả hơn.
15



×