Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIỂU LUẬN TIẾP tục NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO dục ý THỨC bảo vệ môi TRƯỜNG CHO học SINH, SINH VIÊN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.2 KB, 19 trang )

1

TIẾP TỤC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.

Môi trường và ô nhiễm môi trường đang là tâm điểm chú ý, là vấn đề
nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội, thu hút sự quan tâm của lãnh
đạo các nước, các nhà nghiên cứu và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Có thể nói rằng, trong thời gian gần đây những hậu quả nghiêm trọng do ô
nhiễm môi trường để lại đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt
hàng ngày của người dân, tới sự phát triển bền vững của các quốc gia, đe
doạ trực tiếp sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Do
vậy, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH hiện nay không chỉ là đòi hỏi cấp thiết đối với các cấp quản lí, các
doanh nghiệp mà đó còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn
xã hội trong đó phải kể đến trách nhiệm của học sinh, sinh viên - những
người kế thừa sự nghiệp cách mạng của đất nước nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển bền vững của chúng ta.
Xuất phát từ thực tế đó, việc giáo dục cho học sinh, sinh viên những
hiểu biết về vấn đề môi trường đang được đặt ra bức thiết hiện nay.
1. Trước hết hãy để cho học sinh, sinh viên hiểu biết về môi
trường và vai trò của nó đối với cuộc sống xung quanh ta.
“Môi trường bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”. Môi trường
được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu


2



sự tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không
khí, động, thực vật, nước, đất… cho ta không khí để thở, đất để xây dựng
nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên
khoáng sản cần cho sản xuất, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho
cuộc sống con người thêm phong phú. Đồng thời cũng là nơi chứa đựng các
chất thải.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định… ở các cấp khác nhau
như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng
xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể… Nó
định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên
sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con
người khác với các sinh vật khác.
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ,
tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất. Trong giai đoạn hiện nay vấn
đề về môi trường tự nhiên tự nhiên đang được quan tâm nhiều hơn xuất phát
từ vai trò và thực trạng ô nhiễm của nó.
Về vai trò của môi trường tự nhiên:
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn
chứa đựng “đầu ra” cho quá trình sản xuất và đời sống. Hoạt động sản xuất
sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất
kỹ thuật khác, sức lao động của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa; các
hoạt động sống của con người cũng cần có không khí để thở, cần có nhà để
ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập nâng cao
hiểu biết,… đó không gì khác là các yếu tố môi trường. Điều này có nghĩa là
cùng với quá trình đầu vào, con người sẽ không ngừng trả lại môi trường
những đầu ra, trong đó có cả chất thải nguy hại.



3

Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự
phát triển KT-XH. Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về
vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải
tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung
của từng cá nhân cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi
trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và
đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến
đổi của môi trường. Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía
cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho
quá trình cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc
nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự
phát triển KT-XH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên – đối
tượng của sự phát triển KT-XH hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với
các hoạt động KT-XH của con người.
Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.
do đó BVMT chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội
được bền vững. Đó là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng
hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có
mang lại những lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm cho các thế hệ sau không còn điều
kiện để phát triển mọi mặt (cả về kinh tế, xã hội, thể chất, trí tuệ con
người…), thì sự phát triển đó phỏng có ích gì! Nếu hôm nay thế hệ chúng ta
không quan tâm tới, không làm tốt công tác BVMT, làm cho môi trường bị
hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn sẽ phải gánh chịu
những hậu quả tồi tệ.
Để đạt được mục đích giáo dục những hiểu biết về môi trường hiện
nay, thiết nghĩ cần phải đưa nhiều hơn nữa những nội dung học tập về môi



4

trường vào trong các giáo trình, giáo khoa và bài giảng, chỉ có như vậy mới
làm cho quá trình thẩm thấu kiến thức về môi trường ở các em ngày càng
tiến bộ. Đồng thời gắn việc giáo dục trong trường lớp với cuộc sống hiện
thực với những việc làm cụ thể, thiết thực nhất.
2. Hãy để cho học sinh, sinh viên thấy ngày hôm nay chúng ta đã
làm gì nguy hại đến môi trường sống xung quanh.
a. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu
tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn
phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình
trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội
diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm
môi trường diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Từ đầu năm đến
nay, đã có thêm không biết bao nhiêu thống kê mới về tình trạng ô nhiễm
môi trường ở Việt Nam. Và đáng buồn thay, đó là những con số gây thất
vọng… Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất
của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt
tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất,
ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí.
Đối với môi trường nước: Ở nước ta tình trạng quy hoạch các khu đô
thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải, nước thải nên ô nhiễm môi trường ở
các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu đô thị đang ở mức báo động.
Trong tổng số 215 khu công nghiệp trong cả nước, có trên 60% khu công
nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các đô thị chỉ có khoảng
60% - 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý
nước thải, chất thải nên chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường... Hầu
hết lượng nước thải chưa được xử lý đều đổ thẳng ra sông, hồ và dự báo năm



5

2012 là 510.000m3/ngày. Một ví dụ đau lòng của việc xả nước thải, hẳn
không ai không biết, là trường hợp của con sông Thị Vải bị ô nhiễm bởi hoá
chất thải ra từ nhà máy của công ty bột ngọt Vê Đan suốt 14 năm liền. Điều
này khiến cho con sông bị ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới cuộc sống
của nhiều người dân ở xung quanh.
Đối với môi trường không khí và môi trường đất: Không chỉ có môi
trường nước mà môi trường không khí và môi trường đất cũng bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Môi trường không khí ở hầu hết các đô thị Việt Nam đều vượt
quá tiêu chuẩn cho phép. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, kết quả đo đạc tại
6 trạm quan trắc không khí cho thấy 89% mẫu kiểm tra không khí không đạt
tiêu chuẩn cho phép, luôn ở mức nguy hại cao cho sức khỏe của con người.
Tóm lại, trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị
lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm
vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 20/4/2012 cả
nước có 215 khu công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập trên địa bàn. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước
thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay,
mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung
(chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20 khu công nghiệp đang
xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công
nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại
khác. Tại Hội nghị triển khai Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai ngày 26/2/2012, các cơ quan chuyên môn đều có chung đánh giá:
nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm
nặng, không đạt chất lượng mặt nước dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt.



6

Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước
chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực
trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với
các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ
phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công
nghiệp... Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt
của người dân đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi
bùng phát thành các xung đột xã hội gay gắt.
Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng
nghề thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc
phát triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi
trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm
trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong
các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 thải ra trong quá trình
sản xuất khá cao.
Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có
2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang giải quyết
việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường xuyên
và lao động không thường xuyên. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả
nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là Đồng bằng sông
Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Bắc bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ở Đồng
bằng sông Hồng có 866 làng nghề, chiếm 42,9% cả nước. Hình thức các đơn
vị sản xuất của làng nghề rất đa dạng, có thể là gia đình, hợp tác xã hoặc
doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, sử dụng công nghệ
thủ công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư xây dựng



7

hệ thống xử lý nước thải ít được quan tâm, ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái của người dân làng nghề còn kém, bên cạnh đó lại thiếu một cơ chế
quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, chưa có những
chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm. Bên cạnh các khu công nghiệp và các
làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm
cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác
thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng
nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh
chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều
trực tiếp xả ra môi trường mà không có bất kỳ một biện pháp xử lí nào ngoài
việc vận chuyển đến bãi chôn lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng,
mỗi ngày người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ
sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các phương
tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34
tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, thì Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm
đến 1/3; bầu khí quyển của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có mức
benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Theo một kết quả nghiên cứu mới
công bố năm 2008 của Ngân hàng thế giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt
Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí, thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất. Theo báo cáo của
Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh đứng đầu Châu á về mức độ ô nhiễm bụi.
Hậu quả từ tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là vô
cùng lớn. Hàng năm nhiều người đã trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của nạn ô
nhiễm môi trường. Điển hình như “làng ung thư” Thạch Sơn ở Phú Thọ, hàng
trăm người đã chết vì căn bệnh ung thư mà nguyên nhân là do dùng nguồn

nước bị ô nhiễm thải ra Nhà máy Hóa chất Lâm Thao, Phú Thọ. Hàng năm có


8

khoảng 16.000 người ở Việt Nam chết vì những căn bệnh liên quan tới ô
nhiễm không khí. Dự báo trong những năm tới, con số này còn có thể tiếp tục
gia tăng. Cạn kiệt tài nguyên sinh vật là một hậu quả khác không thể tránh
được của ô nhiễm môi trường. Các rặng san hô ở cửa sông cũng như các vùng
nước lợi biến mất dần. Hiện tượng thủy triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta
từ tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch tại vùng biển Nam Trung bộ, đặc
biệt là tại Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Hơn 30km bãi biển từ Cà Ná
đến Long Hương nhầy nhụa những bột báng màu xám đen dày cả tấc, trộn với
xác chết của sinh vật tạo nên mùi hôi thối. Khối nhầy trong suốt bao quanh
một số loài vi tảo biển là nguyên nhân làm cho nước biển đặc quánh như
cháo. Ngoài ra, trong tương lai gần, Việt Nam có thể sẽ bị thiếu nước sinh
hoạt trầm trọng do lượng nước sạch bị ô nhiễm ngày một nhiều…
b. Nguyên nhân ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan khác nhau, song chủ yếu là do:
Thứ nhất, do những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp
luật về bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức
năng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp
luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức,
các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu
trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn
thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn
bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ
đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các
hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường.

Thứ hai, hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí,


9

chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại
tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác
dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi
trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các
biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm,
đóng cửa và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức
năng thiếu kiên quyết.
Thứ ba, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm
đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí,
thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác
thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ
sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong
xã hội còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm
của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ
môi trường.
Thứ năm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên
trách công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ
công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, trong
nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra không thể phát hiện được những thủ đoạn
tinh vi của doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm ra môi trường. BVMT
sinh thái trong quá trình CNH, HĐH hiện nay là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối
tổ chức, doanh nghiệp và của mọi công dân. Nhận thức rõ tầm quan trọng

của vấn đề này, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách về bảo vệ môi trường, điển hình là Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường


10

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị số 29-CT/TW ngày
21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW
của Bộ Chính trị; Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính
phủ hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2011, 2012... Các chỉ
thị, nghị quyết, văn bản pháp quy này đi vào cuộc sống đã bước đầu tạo ra
một số chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường, song vẫn
còn nhiều mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế.
3. Giáo dục cho học sinh, sinh viên hiểu được những nỗ lực để bảo vệ
môi trường hiện nay chúng ta đang thực hiện và trách nhiệm của bản thân họ.
a. Việt Nam hưởng ứng năm quốc tế về năng lượng bền vững 2012
với chủ đề "Kinh tế Xanh: Có vai trò của Bạn".
Năm 2012, thế giới đã tổ chức kỷ niệm Ngày Môi trường với chủ đề
"Kinh tế xanh: Có vai trò của bạn". Vậy “Kinh tế xanh là gì”? Kinh tế xanh
được UNEP định nghĩa là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người
và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và
khủng hoảng sinh thái. Kinh tế Xanh là nền kinh tế ở đó con người là trung
tâm, trong đó có các chính sách tạo ra các nguồn lực mới về tăng trưởng
kinh tế bền vững và bình đẳng. Thúc đẩy nền Kinh tế Xanh và cải tổ quản lý
môi trường là hai nhân tố căn bản đảm bảo tiến trình phát triển bền vững của
mỗi nước nói riêng và trên phạm vi toàn cầu nói chung. Một nền kinh tế
xanh được đặc trưng bởi sự tăng trưởng bền vững của các hợp phần kinh tế
có khả năng duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên của trái đất. Các hợp
phần này bao gồm năng lượng tái tạo, vận tải ít phát thải cacbon, công nghệ
sạch, hệ thống quản lý chất thải tiên tiến, dịch vụ cấp nước sạch nâng cao,

tiết kiệm năng lượng, nông – lâm - ngư nghiệp bền vững.
Phát triển kinh tế xanh hay còn gọi là phát triển bền vững đang được
coi là xu hướng lựa chọn cho một tương lai thân thiện với môi trường. Chính


11

vì thế, năm quốc tế về năng lượng bền vững 2012 đã lựa chọn chủ đề "Kinh
tế Xanh: Có vai trò của Bạn" cho Ngày Môi trường thế giới 5/6. Mục tiêu
của chương trình hành động này là nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của
mỗi tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng nền kinh tế xanh hướng tới sự
nghiệp phát triển bền vững cho nhân loại. Động lực mới của nền kinh tế
xanh là bảo vệ môi trường, phát triển công nghệ sản xuất sạch và năng lượng
sạch, nhanh chóng đạt được mức tăng trưởng kinh tế bền vững.
Hưởng ứng chủ đề này, Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động mang
tầm quốc gia tại Quảng Ninh như: Lễ mít tinh quốc gia và các hoạt động
hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới 05/6/2012; hội thảo - diễn đàn Kinh tế
Xanh; đối thoại, giao lưu văn nghệ về bảo vệ môi trường; phát động phong
trào và triển khai các dự án cải thiện môi trường.
Theo nhiều báo cáo: 40% dân số thế giới hiện đang dùng nguồn năng
lượng hóa thạch là than và gỗ để nấu ăn. Đây là nguồn năng lượng xả ra
nhiều khí nhà kính - nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, đẩy con người vào
nguy cơ thiếu lương thực. Mặt khác, nền “kinh tế nâu” cũng thúc đẩy khai
thác các nguồn năng lượng hóa thạch một cách mạnh mẽ, đồng thời xả ra
môi trường một lượng khí nhà kính cực lớn. Trong khi đó, diện tích rừng tự
nhiên bị tàn phá, bị khai thác kiệt quệ làm nhiệt độ trái đất nóng lên, kéo
theo nước biển dâng, bão lũ, động đất và sóng thần... Việt Nam sẽ là một
trong những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất nếu nước biển dâng. Theo tính
toán, nếu nước biển dâng 1m, có thể giảm đến 10% GDP.
Còn 20% số người dân trên trái đất (1,3 tỉ người) hiện chưa được dùng

điện, vậy mà nguồn năng lượng của trái đất được dự báo là đang kiệt quệ.
Những công trình thủy điện đang làm méo mó sự cân bằng chọn lọc tự nhiên
hàng tỉ năm của trái đất, nguy cơ làm cạn kiệt các dòng sông. Việc khai thác


12

than, dầu quá mức khiến giảm khả năng tái tạo nguồn năng lượng. Vấn đề
năng lượng đang trở nên cực kỳ quan trọng với sự tồn tại của loài người.
Tuy nhiên, kinh tế xanh không thay thế phát triển bền vững mà là
chiến lược kinh tế để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Các quốc
gia phát triển trên thế giới như Mỹ, Đức, Hàn Quốc... đã đầu tư hàng trăm tỷ
USD cho chính sách kinh tế xanh, coi đó là sự đầu tư tốt nhất đối với phát
triển bền vững của quốc gia, vừa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định, vừa
góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và tạo việc làm. Đối với
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, kinh tế xanh tuy còn khá
mới mẻ song bước đầu đã có sự chuyển hướng đầu tư vào các công nghệ sản
xuất sạch hơn, một trong các tiêu chí của nền kinh tế xanh.
Chính những thực tế này đã đặt ra cho nhiều quốc gia quyết định tái
cấu trúc để "xanh hóa" nền kinh tế. Nhiều nước đã coi việc phát triển các
nguồn năng lượng mới và xây dựng một ngành công nghiệp "carbon thấp" là
động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Quốc gia đi đầu trong nỗ lực để trở thành nền "kinh tế xanh" là Đức.
Nước này phấn đấu để trở thành cường quốc công nghiệp đầu tiên trên thế
giới sử dụng 100% "năng lượng xanh" vào năm 2050. Hiện nền công nghiệp
năng lượng tái sinh của Đức có trị giá 240 tỷ USD.
Với chiến lược "tăng trưởng xanh" nhằm giảm thiểu CO2 và xanh hóa chín
ngành công nghiệp chủ lực, từ tháng 8/2008, Hàn Quốc đã xây dựng một chiến
lược sống còn là dành trên 80% trong gói kích cầu kinh tế khoảng 38,1 tỷ USD
cho việc chuyển dịch từ nền “kinh tế nâu” sang nền “kinh tế xanh”.

Trong khi đó, Mexico đi đầu trong xuất khẩu lượng sản phẩm pin Mặt
Trời. Chương trình procalsol (sưởi bằng năng lượng mặt trời) được triển
khai khắp Mexico, đến nay đã mang lại 100.000 việc làm mới.


13

Có thể nói: Kinh tế Xanh là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho
con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi
trường và khủng hoảng sinh học. Đây được xem là một mô hình mới, góp
phần giải quyết những thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu.
Đối với Việt Nam chuyển đổi mô hình Kinh tế Xanh sẽ mang lại hiệu
quả lâu dài cho Việt Nam. Mặt khác, đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ
môi trường, đầu tư phát triển một số ngành Kinh tế Xanh mũi nhọn như
nông nghiệp hữu cơ, du lịch sinh thái, công nghiệp tái chế, năng lượng sinh
học, tái sinh rừng tự nhiên... Lựa chọn nền Kinh tế Xanh là phương án tối ưu
cho sự phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo tại Việt Nam hiện nay.
Việt Nam đã và đang tiếp cận kinh tế xanh bằng nhiều chương trình cụ
thể. Điều này khẳng định quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực
hiện mục tiêu tái cơ cấu kinh tế trong phát triển bền vững, giảm nhẹ tác động
của biến đổi khí hậu. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 đã chỉ rõ đến năm 2020, các cơ sở sản xuất kinh doanh
mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường hoặc
trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải.
Theo UNEP, lợi ích của tăng trưởng xanh là 2,3 triệu việc làm trong
lĩnh vực năng lượng tái tạo sẽ tăng lên 20 triệu vào năm 2030. Thị trường
cấp nước, vệ sinh sẽ tăng từ 253 tỉ USD lên 658 tỷ USD vào năm 2020. Các
tòa nhà xanh sẽ tạo ra từ 2 - 3,5 triệu việc làm. Nền nông nghiệp hữu cơ
cũng tạo ra hơn 30% việc làm/ha. Và điều này chứng minh được rằng kinh tế
xanh chính là hướng đi cho tương lai.

Với chủ đề "Kinh tế xanh: Có vai trò của bạn", Ngày Môi trường thế
giới năm 2012 nhằm nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá
nhân trong việc xây dựng nền kinh tế xanh hướng tới sự nghiệp phát triển
bền vững cho nhân loại.


14

Nhằm hưởng ứng năm quốc tế về năng lượng bền vững 2012 với chủ
đề "Kinh tế Xanh: Có vai trò của Bạn". Đồng thời, để ngăn chặn, khắc
phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường hiện nay,
cần đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp.
b. Một số giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay
đang được triển khai thực hiện có hiệu quả.
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong
toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh
nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái,
làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ
mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường,
trong đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải
thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần
xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu
công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ
nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Ba là, cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi
trường và lực lượng cảnh sát môi trường các cấp phải nắm chắc tình hình,
thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường, chủ động, kịp thời phát hiện,
ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường

của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các
phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho công tác chuyên môn.
Bốn là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm
công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ


15

sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách
phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như
ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói
chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có
quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu
gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng
thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải
tại đó. Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi
trường đối với các dự án.
Năm là, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm
quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc
quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại
trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện
công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để
mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi
trường của những quy hoạch và dự án đó.
c. Hãy giáo dục để học sinh, sinh viên hôm nay biết chia sẻ với
cộng đồng những vấn đề về môi trường bằng việc làm cụ thể và thiết
thực nhất.
Bảo vệ môi trường tự nhiên - ngôi nhà chung của cả nhân loại là trách
nhiệm không phải của một tổ chức hay cá nhân nào, mà là trách nhiệm của

cả cộng đồng, của toàn xã hội trong đó phải kể đến vai trò xung kích của học
sinh, sinh viên. Do đó, phải:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên, làm cho họ
thấy rõ vai trò quan trọng của môi trường tự nhiên đối với cuộc sống xung quanh..


16

Khi đi phân tích mổ xẻ tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, chúng
ta nhận thấy rằng tựu chung lại: Nguyên nhân ẩn chứa đằng sau đó không là
gì khác mà chính là ý thức bảo vệ môi trường của con người còn quá nhiều
hạn chế. Đó chính là căn nguyên gây ra những hậu quả khôn lường mà hiện
tại và tương lai mà chúng ta đang phải gánh chịu và đối mặt. Trên thực tế,
hiện nay ở một số tổ chức, đơn vị, cá nhân vẫn còn tồn tại quan điểm xem
vấn đề bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của các cơ
quan chuyên trách chứ không phải là trách nhiệm của bản thân mình. Từ đó
thiếu ý thức trong bảo vệ môi trường; thờ ơ, vô cảm với những hành vi hủy
hoại môi trường đang diễn ra xung quanh chúng ta hàng ngày, hàng giờ.
Do vậy thông qua giáo dục chính trị, sinh hoạt, học tập và các hoạt
động của thanh, thiếu niên như tọa đàm, hội thi, phim ảnh... cần giáo dục
cho học sinh, sinh viên thấy rõ được vai trò quan trọng của môi trường tự
nhiên đối với đời sống xã hội. Làm cho học sinh, sinh viên thấy được rằng
trách nhiệm bảo vệ môi trường không chỉ là của riêng ai và xem việc bảo vệ
môi trường là quyền lợi thiết thân và là nghĩa vụ cần phải thực hiện. Trên cơ
sở nhận thức đúng đắn, giúp cho học sinh, sinh viên có những việc làm,
hành động thiết thực trong bảo vệ môi trường hiện nay.
Thứ hai, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng môi trường xanh - sạch đẹp tại nơi công tác.
Bảo vệ môi trường không phải chỉ quan tâm đến những vấn đề ở
phạm vi vĩ mô như: Biến đổi khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, cạn kiệt
nguồn tài nguyên quốc gia… mà nó còn bao hàm những vấn đề rất nhỏ như:

bảo vệ môi trường sống xung quang chúng ta.
Đang trong quá trình học tập công tác tại các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp, Trung học phổ thông, Trung học cơ sở và Tiểu học. Hãy


17

bằng những việc làm cụ thể như: chăm sóc cảnh quan môi trường, tu bổ
vườn hoa, cây cảnh, khuôn viên của nhà trường; thường xuyên tổng dọn vệ
sinh, phòng chống các loại dịch bệnh theo mùa, xây dựng cho học sinh sinh
viên nếp sống văn hoá, ý thức tự giác cao trong sinh hoạt tập thể; phát huy
hiệu quả khu vực vườn thanh niên để làm nơi vui chơi, giải trí cho học sinh
sinh viên trong những giờ nghỉ và ngày nghỉ...
Bằng khả năng của mình, hãy đưa những hiểu biết của những kiến
thức đã được ở trường để giúp đỡ bố, mẹ, anh em, người thân và bà con
chòm xóm trong phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, phát triển hệ thống y
tế, giáo dục. Từ đó góp phần giáo dục nhận thức, nâng cao trình độ dân trí
từng bước đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ những hủ tục lạc hậu đang tồn tại trong
sản xuất và sinh hoạt của gia đình, làng quê nói chung và ý thức bảo vệ môi
trường nói riêng.
Tích cực đấu tranh không khoan nhượng, kiên quyết với những nhận
thức sai lầm trong công tác bảo vệ môi trường và những việc làm gây nguy
hại đến môi trường của các cá nhân, tổ chức. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn
kịp thời và báo cáo với các cấp có thẩm quyền để xử lý có hiệu quả các hiện
tượng gây hại đến môi trường sinh thái như: khai thác, chặt phá rừng một
cách bừa bãi; săn bắt, buôn bán động vật hoang dã, động vật quý hiếm; canh
tác du canh, du cư; khai thác tài nguyên khoáng sản bất hợp pháp (khai thác
vàng, kim loại đen, than, cát ở ven sông…); các tổ chức sản xuất kinh doanh
vì chạy theo lợi nhuận mà không quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường,
xả chất thải một cách bừa bãi.

Tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Cả nước chung tay xây dựng
nông thôn mới”. Bằng các việc làm cụ thể hàng ngày các em hãy tuyên
truyền vận động và cùng nhân nhân tham gia các dự án phát triển kinh tế,


18

bảo vệ môi trường như: xây dựng giao thông nông thôn, các dự án cung cấp
nước sạch cho nhân dân, xử lý chất thải ở khu dân cư… Trong cuộc vận
động cần coi trọng nêu gương người tốt, việc tốt trong việc bảo vệ môi
trường vì một tấm gương sáng còn hơn cả trăm bài diễn văn hay. Kịp thời
động viên, khen thưởng kèm theo những khuyến khích cả về mặt tinh thần
lẫn vật chất nhằm kích thích bản thân họ tiếp tục phát huy tinh thần trách
nhiệm. Đồng thời, tạo hiệu ứng thúc đẩy những người khác tham gia tích
cực hơn nữa vào công tác bảo vệ môi trường.
Thứ ba, phát huy vai trò xung kính của Đoàn viên thanh niên trong
bảo vệ môi trường sống của chúng ta.
Không chỉ xung kích trên các mặt học tập công tác mà lực lượng học
sinh sinh viên còn phải xung kích trên tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội trong đó có vấn đề bảo vệ môi trường.
Cần nhận thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm của mình trong Bảo vệ môi
trường. Từ đó có những việc làm cụ thể để bảo vệ cảnh quan môi trường hàng ngày.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tích cực viết bài tuyên truyền
vận động nhân dân cùng thực hiện tốt chủ trương này của đảng. Thường xuyên
phối hợp với Đoàn thanh niên tại các thôn, xóm, làng, xã, và nơi đang học tập,
công tác... tham gia vệ sinh môi trường, làm sạch, phát quang đường làng ngõ
xóm, khơi thông cống rãnh, phòng chống dịch bệnh. Đẩy mạnh việc “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mà trước tiên và thiết thực nhất
là phong trào “Mùa xuân là tết trồng cây” của Bác.
Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Những

việc làm nhìn có vẻ như nho nhỏ ấy của học sinh, sinh viên đang có tác dụng
rất lớn trong việc bảo vệ môi trường sống – vấn đề lớn lao và cấp bách hiện
nay. Tin tưởng rằng, với sự đoàn kết nhất trí cao, chúng ta sẽ từng bước khắc


19

phục được tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, cùng nhau làm cho cuộc
sống của chúng ta phát triển tốt đẹp hơn, cùng nhau chia sẽ những khó khăn,
cũng như giúp đỡ nhau xây dựng một nền kinh tế xanh – kinh tế bền vững
ngày càng phát triển và hoàn thiện! Phấn đấu vì năm quốc tế về năng lượng
bền vững 2012 thành công. Và hơn ai hết mỗi cá nhân, tổ chức hãy nêu cao
tinh thần, trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường, bảo vệ ngôi nhà
chung của nhân loại.



×