Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN NGỌC PHÚ

CON NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ
NỬA SAU THẾ KỶ XIX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN NGỌC PHÚ

CON NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ
NỬA SAU THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BIỆN MINH ĐIỀN


NGHỆ AN - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Nghệ An, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận án

Nguyễn Ngọc Phú


ii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................i
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 3
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 3
6. Đóng góp của luận án ............................................................................................. 4
7. Cấu trúc luận án ...................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................................................. 6

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .......................................................................... 6
1.1.1. Vấn đề nghiên cứu văn học nhà nho và văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế
kỷ XIX.......................................................................................................................................6
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ
nửa sau thế kỷ XIX ................................................................................................... 18
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài ................................................................................ 25
1.2.1. Các lý thuyết nghiên cứu, tìm hiểu về con người trong văn học ......................25
1.2.2. Nho giáo và sự ảnh hưởng, chi phối đến tư tưởng nhà nho và văn học nhà nho...27
1.2.3. Truyền thống tư tưởng của con người Việt Nam nói chung, Nam Bộ nói riêng ...29
1.2.4. Một số lý thuyết về nghiên cứu, phê bình văn học ..............................................31
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................................. 33
Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ VAI TRÒ, VỊ THẾ CỦA VĂN HỌC
NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THẾ KỶ XIX TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC
DÂN TỘC ................................................................................................................ 34
2.1. Văn học Việt Nam nói chung và văn học nhà nho nói riêng giai đoa ̣n nửa
sau thế kỷ XIX ........................................................................................................ 34
2.1.1. Văn ho ̣c nửa sau thế kỷ XIX trong lịch sử văn học dân tộc ..............................34
2.1.2. Văn học nhà nho giai đoa ̣n nửa sau thế kỷ XIX ..................................................44
2.2. Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX............................................. 49
2.2.1. Mô ̣t số giới thuyế t về văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX .............49


iii

2.2.2. Các khuynh hướng tư tưởng và nghê ̣ thuâ ̣t trong văn ho ̣c nhà nho Nam Bô ̣
nửa sau thế kỷ XIX ...............................................................................................................57
2.2.3. Vấ n đề con ngườ i trung nghi ã trong văn ho ̣c nhà nho Nam Bô ̣ nử a sau
thế kỷ XIX .............................................................................................................................63
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................................. 66
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA CON NGƯỜI TRUNG NGHĨA TRONG VĂN

HỌC NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THẾ KỶ XIX........................................ 67
3.1. Quan niệm về trung nghĩa và con người trung nghĩa .................................. 67
3.1.1. Quan niệm về trung nghĩa, con người trung nghĩa trong ho ̣c thuyế t Nho giáo
và Nho giáo triều Nguyễn ...................................................................................................67
3.1.2. Quan niệm về trung nghĩa và con người trung nghĩa trong truyền thống tư
tưởng dân tô ̣c .........................................................................................................................72
3.1.3. Quan niệm về trung nghĩa và con người trung nghĩa trong văn ho ̣c Viê ̣t Nam
trung đa ̣i ..................................................................................................................................76
3.1.4. Tư tưởng trung nghĩa và nhận thức về con người trung nghĩa trong văn ho ̣c
nhà nho Nam Bô ̣ nửa sau thế kỷ XIX ...............................................................................81
3.2. Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ
XIX giữa các mố i quan hê ̣ phức ta ̣p ..................................................................... 87
3.2.1. Con người trung nghĩa trong mố i quan hê ̣ với lý tưởng trung quân ................87
3.2.2. Con người trung nghĩa trong mố i quan hê ̣ với lý tưởng ái quố c ......................92
3.2.3. Con người trung nghĩa trong mố i quan hê ̣ với lợi ích dân tô ̣c và cô ̣ng đồ ng ...95
3.2.4. Con người trung nghĩa trước các “bài toán” của lich
̣ sử giai đoa ̣n nửa sau
thế kỷ XIX..............................................................................................................................98
3.3. Con người trung nghĩa - một hình tượng thẩm mỹ độc đáo, vừa mang vẻ
đẹp của con người “Lục tỉnh”, vừa mang vẻ đẹp thời đại ................................ 101
3.3.1. Vẻ đẹp của lý tưởng và tâm hồn, nhân cách ...................................................... 101
3.3.2. Vẻ đẹp của bản liñ h và sự lựa chọn ứng xử trước các thử thách lịch sử ...... 103
3.3.3. Sức khái quát nghệ thuật của mẫu hình con người trung nghĩa trong văn học
nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX .......................................................... 105
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................ 109
Chương 4. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CON NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THẾ KỶ XIX ............ 111
4.1. Sự lựa chọn thể loại ....................................................................................... 111
4.1.1. Các thể thơ ............................................................................................................... 111
4.1.2. Các thể loại biền văn .............................................................................................. 116



iv

4.1.3. Các thể văn chính luận ........................................................................................... 119
4.1.4. Các thể loại văn xuôi tự sự.................................................................................... 123
4.1.5. Mô ̣t số thể loa ̣i văn học dân tô ̣c ........................................................................... 124
4.2. Sự vận dụng bút pháp ................................................................................... 127
4.2.1. Bút pháp trữ tình ..................................................................................................... 127
4.2.2. Bút pháp tự sự ......................................................................................................... 129
4.2.3. Bút pháp trào phúng ............................................................................................... 130
4.3. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ................................................ 133
4.3.1. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu ............................................................................. 133
4.3.2. Nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ ............................................................................... 137
Tiểu kết Chương 4 ................................................................................................ 148
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 153


1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Văn học nhà nho là bộ phận cơ bản và quan trọng, hàng đầu trong lịch sử
văn học Việt Nam thời trung đại (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX). Bô ̣ phâ ̣n văn ho ̣c
này hiê ̣n còn nhiề u vấ n đề chưa được tìm hiể u, nghiên cứu hoặc có được tìm hiểu,
nghiên cứu nhưng chưa hẳn đã sát, đúng với bản chất của nó. Chẳng hạn, ngay phạm
trù Nho gia (nhà nho) ở Việt Nam có phải chỉ giới hạn trong “cộng đồng” những

người tôn thờ học thuyết Khổng - Mạnh?; nhà nho Việt Nam cũng như văn học nhà
nho Việt Nam có gì khác biệt so với nhà nho và văn học nhà nho Trung Quốc?; Cũng
là nhà nho Việt Nam nhưng tùy theo từng vùng miền (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ)
mà trong sáng tác của họ có những điểm khác biệt nhau?, đâu là mô hình chung và đâu
là những biến thức từ mô hình chung?, v.v... Thiết nghĩ, mọi tìm hiểu, nghiên cứu về
văn học nhà nho Việt Nam ở từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử, ở từng vùng miền
khác nhau của đất nước đều ít nhiều có thể góp phần trả lời cho các câu hỏi trên.
1.2. Văn học nhà nho Nam Bộ mà chúng tôi đề cập ở đây chỉ bộ phận văn
học phát triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX - giai
đoạn mà Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung phải đối mặt với sự xâm lược của
thực dân Pháp. Việc đi sâu nghiên cứu văn học nhà nho không chỉ xuất phát từ
những bí ẩ n của quá khứ chưa có lời giải thoả đáng mà còn hướng tới việc tìm
kiế m, xây đắ p những giá tri tinh
thầ n cho hiê ̣n ta ̣i và tương lai.
̣
Văn ho ̣c nhà nho Nam Bô ̣ ở giai đoa ̣n nửa sau thế kỷ XIX có vai trò, vị trí
đặc biệt quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Ngoài những điể m chung của văn
ho ̣c nhà nho, văn học nhà nho Nam Bộ còn có những đă ̣c điể m riêng do nhiề u
nguyên nhân tác đô ̣ng bởi bố i cảnh lich
̣ sử, xã hô ̣i, văn hoá vùng miền,… Còn
nhiề u vấ n đề của văn ho ̣c nhà nho Nam Bô ̣ chưa được đi sâu tìm hiểu nghiên cứu,
trong đó có vấn đề con người trung nghĩa.
1.3. Con người bao giờ cũng là đối tượng chính yếu, đối tượng trung tâm của
văn học. Thành công hay đóng góp của văn học cho lịch sử - văn hóa - xã hội loài
người, trước hết phải là ở sự tìm hiểu, khám phá con người, ở cái nhìn và sự lý giải về
con người. Đành rằng ở từng tác giả văn học đều có những nét riêng trong tìm hiểu,
khám phá về con người nhưng cùng một loại hình tác giả và loại hình văn học, nhất là
cùng một bối cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội, có thể tìm thấy mẫu số chung (hay những
nét chung) về một dạng thái con người chủ đạo trong văn học. Dạng thái con người
chủ đạo ấy trong văn học nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX là con người



2

trung nghĩa. Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ
XIX vừa mang tính phức tạp của lịch sử, vừa mang nét đặc thù của vùng miền. Đây là
vấn đề đòi hỏi phải có cái nhìn hệ thống, bao quát, chuyên sâu với những khảo sát,
phân tích xác thực để xác định đúng bản chất và ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ sâu sắc của
nó. Con người trung nghĩa trở thành hình tượng thẩm mỹ có sức khái quát lớn, là mẫu
hình con người có cái đẹp và sức sống riêng của vùng đất Nam Bộ. Cho đến nay, nhìn
chung đây vẫn là vấn đề mới, chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng.
1.4. Trong chương trình Ngữ văn ở trung học phổ thông và các trường đại
học, văn học Việt Nam chiếm dung lượng lớn mà phần văn học yêu nước của các
nhà nho cuối thế kỷ XIX là một bộ phận hết sức quan trọng, đặc biệt là văn học nhà
nho Nam Bộ. Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa giúp cho việc tìm hiểu văn học nhà
nho nói chung, văn học nhà nho Nam Bộ nói riêng được tốt hơn. Nghiên cứu văn học
nhà nho và con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ
XIX còn có ý nghĩa quan trọng thiết thực trong thực tiễn giáo dục hiện nay, nhất là
đối với việc tìm kiếm mẫu hình con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới trên cơ sở
biết tiếp thu những giá trị truyền thống.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa
sau thế kỷ XIX, luận án nhằm chỉ ra, làm rõ những đặc trưng của mẫu hình con người
trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ ở mô ̣t giai đoa ̣n đă ̣c biê ̣t của lich
̣ sử dân
tô ̣c; xác định những đóng góp có ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ của văn học nhà nho Nam
Bộ qua việc thể hiện con người trung nghĩa; từ đây đề xuất một số vấn đề về nghiên
cứu và tiếp nhận văn học nhà nho ở một vùng miền có nhiều đặc điểm riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

2.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài.
2.2.2. Xác định vai trò, vị trí của văn học nhà nho Nam Bộ trong lịch sử văn
học dân tộc giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.
2.2.3. Khảo sát, phân tích, luận giải con người trung nghĩa với các dạng thái
và đặc điểm của nó trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
2.2.4. Khảo sát, phân tích, chỉ ra những nét chính, nổi bật trong phương thức
thể hiện của văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về con người trung nghĩa trong văn học nhà
nho Nam Bộ và đề xuất một số vấn đề nghiên cứu có liên quan.


3

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Con người trung nghĩa trong văn học
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luâ ̣n án tâ ̣p trung tìm hiể u, nghiên cứu con người trung nghĩa trong văn học
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Bộ phận văn ho ̣c này rấ t phong phú và cũng đầ y
phức ta ̣p, do nhiề u kiể u tác giả nhà nho thuô ̣c nhiề u khuynh hướng tư tưởng khác
nhau, viế t bằ ng nhiề u thể loa ̣i và ngôn ngữ khác nhau (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quố c
ngữ, thâ ̣m chí cả bằ ng tiế ng Pháp)… Quan tâm tấ t cả, nhưng luâ ̣n án tâ ̣p trung vào
sáng tác của các tác giả nhà nho viết bằng chữ Hán, chữ Nôm (tiêu biể u như: Phan
Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông,
Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân, Nhiêu Tâm, Học Lạc,…).
Về văn bản sáng tác của các nhà nho Nam Bô ̣ ở giai đoa ̣n nửa sau thế kỷ XIX,
luâ ̣n án dựa vào các tài liê ̣u: Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858 - 1900) do
Trần Văn Giàu giới thiệu, Chu Thiên, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi biên soạn
[37]; Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX do Bảo Định Giang biên soạn, Ca
Văn Thỉnh giới thiệu [42]; Nguyễn Đình Chiểu toàn tập do Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ

Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải [189, 190]; Thơ văn Phan Thanh
Giản do Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu biên soạn [111]; Bộ sưu tập Lương Khê Thi
văn thảo do chính Phan Thanh Giản và các con trai của ông sưu tầm, biên tập và khắc
in; Tác phẩm Nguyễn Thông do Cao Tự Thanh - Đoàn Lê Giang biên soạn nhân kỷ
niệm lần thứ 100 ngày mất của Nguyễn Thông [172]; Phan Văn Trị - cuộc đời và tác
phẩm do Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân sưu tầ m, biên soa ̣n [193]; Di cảo
thơ trào phúng Nhiêu Tâm do Nguyễn Xuân Hoanh sưu tầ m, biên soa ̣n [86]. Nhiề u tài
liê ̣u khác có thơ văn của nhà nho Nam Bô ̣ nửa sau thế kỷ XIX như: Văn học miền
Nam Lục tỉnh, tập 3 với chủ đề Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp do
Nguyễn Văn Hầu biên soạn [82]; Nhân vật lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX (Quyển 2 - Cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ) do Vũ Thanh Sơn biên soạn [161]; Nguyễn
Trung Trực - Một Kinh Kha của miền Nam do Tạp chí Xưa và Nay tập hợp các bài viết
của nhiều tác giả để xuất bản sách [73];…
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, luận án sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp liên ngành: Phương pháp liên ngành giúp cho việc huy động
các nguồn tri thức khác nhau (về văn hóa, lịch sử, chính trị, xã hội, nhân học, văn


4

học) nhằm tham chiếu, soi tỏ, phục vụ cho vấn đề được tập trung nghiên cứu (con
người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX).
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này giúp trình bày vấn đề (quan niệm
trung nghĩa và con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ) trong tiến
trình vận động và phát triển của nó, đồng thời dùng để tái diễn những nét lớn của
bối cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau
thế kỷ XIX.
- Phương pháp thông diễn học: Phương pháp này được áp dụng, giúp giải thích

các thuật ngữ, quan niệm trung nghĩa, con người trung nghĩa trong văn học nhà nho
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
- Phương pháp thống kê - miêu tả: Phương pháp này được vận dụng nhằm
thống kê, miêu tả, trình bày những nội dung cụ thể, chi tiết của văn học nhà nho Nam
Bộ nửa sau thế kỷ XIX liên quan đến con người trung nghĩa.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này dùng để phân tích và
tổng hợp các yếu tố qua tác phẩm và hệ thống các tác phẩm, nhằm làm rõ những đặc
điểm của con người trung nghĩa và sự thể hiện con người trung nghĩa của các nhà
nho Nam Bộ trong văn học nửa sau thế kỷ XIX.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này dùng để chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt, sự đa dạng và thống nhất trong quan niệm (về trung nghĩa và con
người trung nghĩa) của các tác giả nhà nho cùng vùng miền (Nam Bộ) cũng như khác
vùng miền (Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ).
- Phương pháp loại hình: Phương pháp này vận dụng tiêu chí loại hình (loại
hình tác giả, loại hình tác phẩm, loại hình văn học) để nhìn vấn đề theo hệ “cộng
đồng giá trị”.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Phương pháp này được dùng để xâu chuỗi,
hệ thống vấn đề nghiên cứu và nhìn chúng trong tính cấu trúc chỉnh thể...
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
6.1. Luận án là công trình nghiên cứu về con người trung nghĩa trong văn
học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX với cái nhìn tập trung và hệ thống.
6.2. Với vấn đề được nghiên cứu, luận án cố gắng bao quát, phác thảo bức
tranh văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX từ diện mạo đến đường hướng
vận động, phát triển và vai trò, vị trí của nó trong lịch sử văn học dân tộc.
6.3. Luận án là công trình đi sâu khảo sát, phân tích, xác định những đặc
điểm nổi bật của con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế


5


kỷ XIX, từ đây góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề phức tạp, không dễ lĩnh hội về
nội dung, tư tưởng của bộ phận văn học này.
6.4. Luận án chỉ ra, xác định và làm rõ những đặc điểm chủ yếu trong
phương thức thể hiện con người trung nghĩa của văn học nhà nho Nam Bộ giai
đoạn nửa sau thế kỷ XIX.
6.5. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu về con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nói
riêng, văn học nhà nho nói chung ở mô ̣t giai đoa ̣n đă ̣c biê ̣t của lich
̣ sử dân tô ̣c: giai
đoa ̣n nửa sau thế kỷ XIX.
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
được triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2. Cơ sở hình thành và vai trò, vị thế của văn học nhà nho Nam Bộ
nửa sau thế kỷ XIX trong lịch sử văn học dân tộc
Chương 3. Đặc điểm của con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam
Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Chương 4. Phương thức thể hiện con người trung nghĩa của văn học nhà
nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX


6

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vấn đề nghiên cứu văn học nhà nho và văn học nhà nho Nam Bộ nửa
sau thế kỷ XIX

1.1.1.1. Về văn học nhà nho trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại nói chung
Nho giáo ảnh hưởng, chi phối sâu sắc, nhiều mặt đến văn học Việt Nam trung
đại, nhà nho lại là lực lượng sáng tác chủ đạo của văn học Việt Nam trung đại. Văn
học nửa sau thế kỷ XIX là một giai đoạn văn học có vai trò, vị trí quan trọng trong
lịch sử văn học dân tộc. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn học
trung đại Việt Nam, trong đó có đề câ ̣p đế n văn ho ̣c Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX phầ n văn ho ̣c do nhà nho sáng tác. Vì vậy có bao nhiêu công trình nghiên cứu về văn
học Việt Nam thời kỳ này, thì dường như có bấy nhiêu công trình đề cập đến Nho
giáo và văn học nhà nho, hoặc ở dạng khái quát, văn học sử; hoặc ở dạng đi sâu vào
từng tác giả, tác phẩm cụ thể.
Trước hết, có thể thấy từ khi có các công trình nghiên cứu về Nho giáo của các
tác giả Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Đào Duy Anh, Nguyễn Đăng
Thục, Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Nguyễn Duy Cần, Bùi Văn Nguyên, Trần Trọng
Sâm, Hoàng Tuấn, Lê Văn Quán, Đỗ Anh Thơ, v.v…, việc nghiên cứu văn học Nho
giáo, văn học nhà nho càng được chú ý hơn. Công trình Việt Nam văn học sử yếu của
Dương Quảng Hàm [80] có thể coi là công trình mở đầu nói về “ảnh hưởng của nước
Tàu”, về “văn chương cổ điển - những điều giản ước về sách giáo khoa cũ để học chữ
Nho”. Trong Chương thứ 3, Dương Quảng Hàm viết: “… dân tộc Việt Nam ngay từ khi
thành lập đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Tàu. Cái văn hóa ấy truyền sang nước ta có
nhiều cách,… tức là nhờ sự học chữ nho và sách chữ nho”…, “Trong đó các trào lưu tư
tưởng của người Tàu… có ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc ta, nhất là Nho giáo” [109,
tr.204]. Trong những năm 1945 - 1954, có thể kể đến một số công trình như: Việt Nam
văn học sử trích yếu (1949) của Nghiêm Toản, Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ XIX
(1952) của Nguyễn Tường Phượng - Bùi Hữu Sủng. Đáng chú ý, hai công trình Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ [143], [144] và Bảng lược đồ văn
học Việt Nam của Thanh Lãng [103] đã khẳng định sự tồn tại của văn học nhà nho và có
những nhận định đánh giá sát, đúng về văn học nhà nho. Đây là hai công trình khá tiêu
biểu, nổi bật nghiên cứu văn học nhà nho từ rất sớm, đưa ra những nhận định có giá trị,


7


khẳng định sự tồn tại của bộ phận văn học nhà nho ở các mức độ khác nhau. Các tác giả
có đề cập Nguyễn Đình Chiểu như một đối tượng nghiên cứu, tuy nhiên việc đánh giá di
sản văn chương của Nguyễn Đình Chiểu vẫn còn thiên lệch, phiến diện. Các nhà nghiên
cứu ít nhiều có những né tránh trong đánh giá dẫn đến việc phủ nhận sự ảnh hưởng hoặc
chưa khẳng định đúng mức những giá trị, đóng góp của văn học nhà Nho.
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đáng chú ý là
công trình Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam: từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng
Tám của Trần Văn Giàu [35], [36]. Khi phân tích đạo đức Nho giáo nói chung, đạo
đức trung nói riêng, Trần Văn Giàu đặt vấn đề: “Lắm khi chữ hiếu đặt trước cả chữ
trung, đạo hiếu được xem là nền của đạo trung”, “trung hiếu là hai đức tính cơ bản của
con người mà luân lý Nho giáo đòi hỏi một cách nghiêm khắc. Đánh giá con người,
nhận xét hành vi, tất thảy đều lấy trung hiếu làm tiêu chuẩn” [35, tr.241-246]. Tác giả
nghiên cứu Nho giáo trên phương diện tư tưởng chứ chưa nhấn mạnh vai trò Nho giáo
tới đời sống văn học. Trong những năm sau đó, giới nghiên cứu quan tâm nhiều,
nghiên cứu hệ thống hơn về loại hình nhà nho, tiêu biểu như Nguyễn Khắc Viện, Trần
Đình Hượu, Quang Đạm. Nguyễn Khắc Viện với công trình Bàn về Đạo Nho đã phân
tích những giá trị tích cực cũng như những hạn chế lịch sử của Đạo Nho, mối quan hệ
của Đạo Nho với truyền thống văn hóa Việt Nam, trong đó có đề cập yếu tố “nghĩa”.
Tác giả cũng đề cập mẫu hình con người, sự kết hợp Đông - Tây của con người Việt
Nam trên con đường hội nhập với thế giới, làm rõ một “đạo lý” đẹp đẽ và chung thủy
của người sĩ phu trung thực, hết lòng vì nước, vì dân. Đặc biệt Trần Đình Hượu với
các bài viết “Mấy ý kiến bàn về vấn đề nghiên cứu Nho giáo”, “Nho giáo và văn học
nghệ thuật” (đã được tập hợp trong sách Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại),
quan tâm đến mối quan hệ giữa văn học và Nho giáo với nhiều nhận định sâu sắc:
“Nho giáo chi phối văn học nghệ thuật… hình thành trong lịch sử cả vùng một loại
hình văn sĩ, nghệ sĩ, một loại hình văn học nghệ thuật, viết cùng những thể loại, theo
cùng một quan niệm văn học” [100, tr.20]. Bàn về ảnh hưởng của Nho giáo đối với
văn học nghệ thuật, Trần Đình Hượu xác định thêm: “Nho giáo gây ra tác dụng kìm
hãm nặng nề đối với văn học nghệ thuật… Ngự trị lâu dài như thế văn học nghệ thuật

của Nho giáo tác động rất mạnh đến truyền thống của các dân tộc” [100, tr.44-45].
Từ sau ngày thống nhất đất nước, việc nghiên cứu văn học sử có những thay đổi
lớn, đem lại cái nhìn mới và góp thêm tiếng nói phong phú và đa dạng về văn học nửa
sau thế kỷ XIX. Gần đây, Phương Lựu với tham luận “Khái quát về quan niệm văn học
Nho giáo ở Việt Nam” tại Hội thảo quốc tế do Viện Hán Nôm Việt Nam và Viện
Harward-Yenching Hoa Kỳ tổ chức (2004) tại Hà Nội nhận diện “ảnh hưởng của Nho


8

giáo đối với văn học Việt Nam trung cận đại” theo hướng miêu tả cụ thể - điều mà học
thuật đang quan tâm. Thực ra, việc nghiên cứu về Nho giáo suốt một thời kỳ dài ở nước
ta bị “trì trệ” khá lâu sau những công trình có tính chất mô tả tổng quan của Trần Trọng
Kim (viết năm 1928 và in 2-3 lần năm 1932). Mặc dù, sách của Trần Trọng Kim chỉ có
tính mô tả nhưng nó lại mang tính nhập môn rất cần thiết,… Sau đó có một số bài viết,
một số người phê bình theo nghĩa là đối thoại, bàn luận thêm. Trong đó Đào Duy Anh
với cuốn Khổng giáo phê bình tiểu luận được coi là “công trình đầu tiên và có lẽ là duy
nhất trước Cách mạng tháng Tám đã thử vận dụng thế giới quan Mác-xít để khảo sát và
đánh giá Nho giáo” (Dẫn theo nhận xét của Trần Ngọc Vương, />Về văn học nửa sau thế kỷ XIX có thể kể tên một số công trình tiêu biểu như Lịch
sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX của Nguyễn Lộc [116]; Lịch sử văn học Việt
Nam nửa sau thế kỷ XIX của tập thể tác giả Đại học Sư phạm I (Lê Trí Viễn, Phan Côn,
Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam [203]; “Lời giới thiệu” của Trần Văn Giàu
trong Hợp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX [55]. Trần Văn Giàu đề cập tư
tưởng chủ đạo trong sáng tác của các nhà nho yêu nước giai đoạn này, là: “việc nghĩa phải
làm, không kể đến thành bại”, “tư tưởng trung quân: hình ảnh vua càng mờ xuống, vị trí
dân càng lên cao” [55, tr.24, 32]. Cũng Trần Văn Giàu, trong công trình Tư tưởng yêu
nước trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam [39] với bài viết “Nguyễn Đình Chiểu:
đạo làm người”, tác giả nêu khái niệm về “Nghĩa”: “là lẽ phải; Gặp việc nghĩa phải làm,
không làm không dũng, mà làm người thì phải dũng, không dũng không ra người; Làm
việc nghĩa không suy tính lợi hại, làm việc nghĩa mà dù có thiệt cho riêng mình, có chết đi

nữa cũng cứ phải làm; Làm việc nghĩa không cần báo đáp” [39, tr.254]. Ông có những
đánh giá khái quát vấn đề trung nghĩa giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, tuy nhiên đấy chưa
phải là công trình nghiên cứu tư tưởng trung nghĩa, con người trung nghĩa trong văn học.
Công trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX của
Nguyễn Lộc [117], viết về hai giai đoạn hết sức quan trọng trong văn học Việt Nam
trung đại: một giai đoạn đỉnh cao, một giai đoạn là bước chuyển mình của văn học dân
tộc từ trung đại sang cận, hiện đại. Quyển sách trình bày quá trình phát triển văn học
Việt Nam qua hai giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, và giai đoạn
nửa sau thế kỷ XIX. Theo tác giả, văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
thể hiện bằng thơ văn yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai bán
nước; văn học mang tính tố cáo hiện thực sâu sắc; văn học có những đổi mới khác hẳn
so với giai đoạn trước (nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX). Nguyễn Lộc
cũng phân chia các khuynh hướng văn học và dành 6 chương giới thiệu, khái quát 6


9

tác giả là nhà nho: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn
Quang Bích, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương. Công trình Văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời 1900 - 1930 của Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng [98] xem giai đoạn
văn học 1900 - 1930 như một sự chuyển hóa, chuẩn bị cho sự ra đời văn học Việt Nam
hiện đại. Theo các tác giả, tính chất giao thời biểu hiện ở sự tồn tại song song hai nền
văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác; hai công chúng với hai quan niệm văn
học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau.
Trần Đình Hượu với công trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại
[100] cho rằng để hiểu hơn nhà nho Việt Nam cần phải đánh giá sự tiếp xúc của họ với
Nho giáo và văn học Trung Quốc, đồng thời phải lưu ý đến tình hình phát triển không
đồng đều của các vùng đất nước. Về nhà Nho theo Trần Đình Hượu, không nên hiểu là
những người học chữ Hán, đọc sách thánh hiền, giữ đạo tam cương ngũ thường… mà
cần nhìn họ như một tầng lớp xã hội, một đội ngũ có nhiều loại hình. Với công trình

này, ông chia nhà nho ra làm ba loại: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài
tử. Trần Đình Hượu khảo sát một số hiện tượng văn học - những trường hợp nhà nho
tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Thông, Phan Bội Châu, Tản Đà,…; ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học
Việt Nam trung đại thế kỷ XV - XIX. Cuốn sách đề cập nhiều hiện tượng văn học trung
cận đại Việt Nam, đặc biệt ảnh hưởng Nho giáo và nhà nho đối với văn học và ảnh
hưởng đó được nhìn tập trung vào quan niệm văn học. Cũng Trần Đình Hượu, trong bài
“Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam trung cận đại”, tác giả
dành nhiều tâm huyết cho việc “khảo sát văn học do nhà nho viết, viết theo quan niệm
Nho giáo…” [100, tr.10]. Theo ông: “Nho giáo ảnh hưởng tới văn học với tư cách là
một học thuyết tức là một hệ thống các quan điểm về thế giới, về xã hội, về con người,
về lý tưởng… cho nên cũng có một cách quan niệm văn học riêng… Theo quan niệm
văn học của Nho giáo, văn học có một nguồn gốc linh thiêng, một chức năng xã hội cao
cả. Nho giáo hy vọng dùng văn chương để giáo hóa, động viên, tổ chức, hoàn thiện con
người, hoàn thiện xã hội”; “Nho giáo ảnh hưởng trực tiếp đến văn học qua thế giới quan
của người viết” [100, tr.49, 50], “Nho giáo hướng văn học vào truyền đạt đạo lý chứ
không phải tả và kể, phản ánh cái thực”; “Nho giáo, các nhà nho làm chủ văn học ta từ
thế kỷ XV đến vài thập kỷ đầu thế kỷ XX…; “Chứng tích ảnh hưởng Nho giáo trong
văn học không chỉ ở mô típ nội dung, hình ảnh, từ ngữ mà sâu xa hơn là ở quan niệm
văn học, ở quan niệm cái đẹp” [100, tr.53-54]. Trên nhiều phương diện, tác giả đề cập
những thành tựu nghiên cứu về xã hội, con người, lý tưởng,… quan trọng là dùng văn
chương để góp phần hoàn thiện con người. Khi nghiên cứu, luận giải về Nho giáo, văn


10

chương nhà nho nói chung, tác giả đã suy ngẫm và tổng kết, khái quát lên từ vốn sống,
từ sự quan sát thực tế đã có những hướng nghiên cứu một cách có hệ thống toàn bộ cấu
trúc của Nho giáo và sự chi phối của nó từ trong lịch sử cho đến thời hiện đại.
Trần Ngọc Vương trong các công trình Loại hình học tác giả văn học - Nhà nho

tài tử và văn học Việt Nam [212]; Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung
[214] cho rằng “từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX… nội hàm khái niệm văn học dân tộc gần
như trùng khớp với nội hàm khái niệm văn học nhà nho ở Việt Nam” [214, tr.117].
Công trình Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX những vấn đề lý luận và lịch sử [215] được
biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần
Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh,... Các tác giả bàn về văn học
nhà nho, tìm hiểu nghiên cứu về Nho giáo, tiêu biểu là hai loại hình nhà nho ẩn dật và
hành đạo, nêu sơ lược về nguồn gốc, lịch sử hình thành cũng như quan niệm, tư tưởng
và cách nghĩ của hai loại hình nhà nho chính thống.
Một số tác giả khác như Nguyễn Tài Thư với công trình Nho học và Nho học ở Việt
Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn [194] có chỉ ra một số đặc trưng và vai trò của Nho
giáo đối với xã hội Việt Nam phong kiến; Trần Nho Thìn với công trình Văn học trung đại
Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa [183] đã nêu những vấn đề cần quan tâm khi “nghiên cứu
hiện tượng văn học sử trong khuôn khổ hệ thống văn học của nhà nho” [tr.20-21]. Với Trần
Nho Thìn, trước hết ông tập trung xác định Một số vấn đề lý luận của văn học trung đại
nhìn từ góc độ văn hóa, trong đó nhấn mạnh định hướng tiếp cận văn hóa học trong nghiên
cứu văn học, phác thảo tính hệ thống và tiến trình văn học trung đại Việt Nam như là bước
tiến đồng hành với quá trình vận động, phát triển của nền văn hóa dân tộc. Trên cơ sở nhấn
mạnh yêu cầu nghiên cứu những lĩnh vực văn hóa chuyên biệt, xác định văn hóa
là hệ thống mở và việc nghiên cứu giao lưu văn hóa, tác giả đã đưa ra nhiều chứng dẫn
thuyết phục và đi đến kết luận hợp lý: “Xét cho cùng thì bản sắc dân tộc phải được xem xét
trong một không gian mở, có so sánh, khu biệt. Phải xác định được những cái chung, cái
phổ biến trước khi rút tỉa ra cái riêng, cái bản sắc” [tr.51]. Đặt trong tương quan chung, các
vấn đề sự thể hiện con người và vai trò “cái tôi” tác giả, nghệ thuật phản ánh cuộc sống xã
hội trong văn chương nhà nho trên hai chiều công thức và sáng tạo tiếp tục được Trần Nho
Thìn phân tích, lý giải và qui chiếu thành những đặc điểm tư duy văn hóa mang tính thời
đại,… (Dẫn theo La Sơn, Các tác giả Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX,… đã xem xét Nguyễn Đình Chiểu trong tương quan không gian văn học Nam Bộ mà
cụ thể văn học Gia Định làm nổi bật một số nét trong phong cách cá nhân và phong cách
thời đại ở nhà thơ. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được các vấn đề



11

cơ bản mang tính lý thuyết của văn học nhà nho từ góc nhìn xã hội học - lịch sử và văn hóa.
Các nhà nghiên cứu đã xác lập được một số điểm quan trọng mang tính lý luận về văn học
nhà nho nói chung. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề cụ thể cần phải được nghiên cứu thêm.
Về các bài viế t đề câ ̣p vấ n đề văn ho ̣c nhà nho Việt Nam nói chung, trước hết có thể
kể đến các bài viết như: “Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt Nam” (1963) của
Nguyễn Đức Vân; “Tìm hiểu thiên đạo quan của triều đình và của các nhà nho trong thời
Nguyễn” (1969) của Trần Văn Giàu; “Thử tìm hiểu quan niệm Thi dĩ ngôn chí của nhà
Nho” (1973) của Trần Lê Sáng; “Tính chất phản kháng trong thơ văn bình dân Nam Kỳ
thời Pháp thuộc” (1974) của Long Điền; “Nghĩa tình Bắc Trung Nam qua một số thơ văn
nửa sau thế kỷ XIX” (1974) của Nguyễn Đình Chú; “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và
thực tại trong văn chương thời cổ” (1994) của Trần Nho Thìn; “Sự công phá bên trong của
đạo đức nhân dân đối với đạo đức Nho giáo ở một tác phẩm văn học cụ thể: Lục Vân Tiên”
(1994) của Nguyễn Đình Chú; “Nho giáo triều Nguyễn - Nội dung, tính chất, vai trò lịch
sử” (1997) của Nguyễn Tài Thư; “Nho sĩ Việt Nam trước cuộc xâm lược Pháp” (1997) của
Nguyễn Tùng; “Tư tưởng về đạo trị nước ở các nhà nho Việt Nam” (2007) của Nguyễn
Thanh Bình; “Đặc trưng hệ thống thể loại của văn chương yêu nước nửa sau thế kỷ XIX ở
Việt Nam” (2008) của Nguyễn Văn Thế,… Một số tác giả cũng đã đề cập đến khái niệm
nhà nho trung nghĩa: “Các tác giả văn chương yêu nước mà trước hết và chủ yếu là nhà nho
trung nghĩa đã dùng những thể loại văn học thích hợp với con người và hoàn cảnh của họ
để nói cảm xúc trước nạn nước” [179, tr.83]. Cũng cần phải kể đến một số bài viết với
hướng tiếp cận khác đề cập văn học nhà nho như: “Quá trình hình thành và phát triển của
loại hình tác giả nhà nho ẩn dật Việt Nam thời trung đại (từ thế kỷ XVI đến hết thế kỷ
XIX)” (2009); “Loại hình tác giả nhà nho ẩn dật trong văn học trung đại Việt Nam” (2013)
của Lê Văn Tấn; “Từ những rạn nứt của lý tưởng nhà nho đến những mâu thuẫn mang tính
bi kịch trong thơ Phan Thúc Trực” (2011) của Đinh Trí Dũng; “Thế giới quan triết học của
các nhà nho trong xã hội phong kiến” (2011) của Phạm Thị Loan; v.v…

Suy nghĩ tiếp từ nghiên cứu Nho giáo của Trần Đình Hượu, Đoàn Lê Giang có bài
viết “Nhà Nho tài tử: Nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa đối với việc nghiên cứu văn học
trung cận đại Việt Nam” đề cập nội dung khái niệm nhà nho tài tử, có nói đến đặc điểm của
người quân tử. Một trong những phẩm chất đó là “nghĩa”: “Nghĩa vua tôi, cha con, vợ
chồng, anh em, bạn bè, đất nước”. “Nghĩa là nghĩa vụ, nghĩa lý, đạo nghĩa, nghĩa ở đời.
Người quân tử đề cao Nghĩa, đối lập với Lợi, với hưởng thụ”
(). Trong bài viết “Trần Đình Hượu với việc phân loại
ba mẫu nhà nho trong văn học Việt Nam trung đại”, Phạm Văn Hưng đưa ra sự phân biệt
khá rạch ròi giữa ba loại hình nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử, nhà nho hành đạo, và sự giao


12

thoa giữa ba loại hình nhà nho này; Biện Minh Điền với: “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả
văn học Việt Nam trung đại”, “Dấu ấn Trần Đình Hượu trong nghiên cứu Nho giáo và ảnh
hưởng của Nho giáo đối với văn hóa, văn học Việt Nam” đã bàn đến những đặc điểm của
tác giả và loại hình tác giả nhà nho Việt Nam… Các bài viết trên đề cập tình hình nghiên
cứu văn học của các nhà nho, quan niệm văn học của nhà nho, cái tôi nhà nho, đạo đức
nhân dân đối với đạo đức Nho giáo, đặc điểm của người quân tử, văn chương yêu nước của
nhà nho trung nghĩa, sự hình thành, phát triển và kết thúc của loại hình tác giả nhà nho,…
Về các công trình, bài viế t của các tác giả nước ngoài, có thể kế đến: The Birth of
Vietnam (1983) và A History of the Vietnamese (2013) của K.M. Taylor [224] [225] có
chú ý tìm hiểu “truyền thống, bản sắc của người Việt, dân tộc Việt, cốt cách bản địa Việt
Nam”; bài viết “Confucianism in Vietnam: an essay on the current state of the industry”
(2006) của C. Kelley [226] đã xem xét lại những nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam thời
tiền hiện đại của những học giả trong lĩnh vực này ở Bắc Mỹ và Úc châu. C. Kelley kết
luận rằng, những học giả này chưa hoàn toàn nhận thấy được vai trò của Nho giáo trong
quá khứ của Việt Nam và tác giả nghiên cứu Nho giáo ở từng triều đại (Việt Nam và mô
hình Trung Hoa), sự khác biệt về quản lý nhà nước qua mỗi triều đại ở từng vùng miền…
Sau đó một số học giả bắt đầu xem xét về vấn đề này như: Keith Taylor, Li Tana, Nola

Cooke, Choi Byung Wook,…; công trình The Vietnamese Response to French
Intervention, 1862 - 1874 (1991) [230] của McLeod Mark W nói về sự phản ứng của Việt
Nam đối với sự can thiệp của Pháp; công trình Southern Vietnam under the Nguyen
(1993/1996) của Tana Li, Anthony Reid [234] đề cập miền Nam Việt Nam dưới thời
Nguyễn; bài viết “Beteunamin eui Namjin gwa Nambu Munhwa eui Hyeongseong” (1999)
của Yu, Insun đề cập các phong trào phía Việt Nam và sự hình thành nền văn hóa miền
Nam Việt Nam;… Một số công trình khác nghiên cứu Nho học (ở Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Việt Nam), có đề cập đến văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX như:
Rethinking confucianism, Past and Present in China, Japan, Korea, and Vietnam (2002)
của BA. Elman, JB. Duncan, H. Ooms [220]; công trình A Mid-19th Century Southern
Literature “Lục Vân Tiên”, and the Anti - French Resistance của Choi Byung - Wook
[221] tìm hiểu về văn học nửa sau thế kỷ XIX có đề cập Lục Vân Tiên và cuộc kháng chiến
chống Pháp; Etude sur la littérature annamite poesies et chants populaires của E. Villard
nghiên cứu về văn học An Nam, trong đó có phân tích truyện Lục Vân Tiên;… Tuy tình
hình nghiên cứu cả ở trong và ngoài nước về văn học nhà nho khá đa dạng, sôi nổi nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu con người trung
nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Vì thế, luận án này có thể coi là
công trình đầu tiên tiếp cận vấn đề trên theo hướng chuyên sâu và hệ thống.


13

1.1.1.2. Về văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Khi nhắc đến văn học Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, các nhà nghiên
cứu không thể không nói đến bộ phận văn học này (văn học nhà nho Nam Bộ). Văn học
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX thể hiện qua sáng tác của các tác giả nhà nho Nam
Bộ tiêu biểu như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phan Văn Trị, Phan Thanh Giản,
Học Lạc, Nhiêu Tâm… đã từng được nghiên cứu. Thành tựu nghiên cứu ở đây (về các
tác giả tiêu biểu trên) là rất đáng khẳng định. Về nhà nho Nam Bộ và văn học nhà nho
Nam Bộ, rất cần phải kể đến công trình Nam Bộ nhân vật chí [56]. Nam Bộ nhân vật chí

giới thiệu cuộc đời, hành trạng và đóng góp của các nhân vật Nam Bộ trong quá trình
xây dựng và phát triển vùng đất Nam Việt Nam. Họ là những nhân sĩ trí thức, nhà hoạt
động cách mạng, nhà văn hóa, văn nghệ sĩ,… có công khai phá trên lĩnh vực văn hóa vật
chất và tinh thần. Công trình đã phác họa chân dung con người, cá tính Nam Bộ, chỉ ra
những đặc trưng của cư dân nơi vùng đất mới, vùng đất nơi “đầu sóng ngọn gió”, là
miền đất “đi trước về sau” ()… Các tác giả công trình Đất
và người Nam Bộ từ rất sớm đã chú ý nghiên cứu văn hóa truyền thống Nam Bộ. Công
trình khẳng định “giá trị, bản sắc văn hóa Nam Bộ, bác bỏ những luận điểm sai trái của
học giả trong và ngoài nước về con người, lịch sử, văn chương, giáo dục Nam Bộ” [192,
tr.7]. Ca Văn Thỉnh cho rằng: “Nam Bộ là đất có lịch sử lâu đời, do người Việt khai
khẩn… Về mặt văn học, ông cho thấy Nam Bộ rõ ràng có một nền văn học quy mô tổ
chức hẳn hoi, với những tác giả tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần “ngay thảo”, “hào khí
Đồng Nai”..., đề cao đạo nghĩa danh tiết, và con người Nam Bộ là những người “có văn
hóa”, “biết đạo nghĩa” [192, tr.7].
Các công trình nghiên cứu trên đã có cái nhìn khái quát về tình hình văn học
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, đồng thời giới thiệu một số tác giả tiêu biểu của văn
học giai đoạn này, giúp người đọc hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp, quá trình đấu
tranh của ông cha ta đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển vùng đất Nam Bộ, cung
cấp nguồn tư liệu, góp thêm những nhận định mới mẻ về nhà nho Nam Bộ.
Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đề cập đến văn học nhà nho nói
chung, trong đó có văn học nhà nho Nam Bộ. Hầu hết các công trình đều khẳng định
vai trò, vị trí của các nhà nho Nam Bộ đối với sự phát triển của lịch sử văn học dân
tộc, tuy nhiên chưa có tính hệ thống, chuyên sâu.
Về loa ̣i công triǹ h đi sâu vào các tác giả và thơ văn của nhà nho Nam Bộ có Thơ
văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX do Bảo Định Giang biên soạn, Ca Văn Thỉnh
giới thiệu [42]. Tập thơ văn tuyển chọn một số bài tiêu biểu, phản ánh tinh thần yêu nước
chống ngoại xâm của nhân dân Nam Bộ. Tác giả có trực tiếp tham gia kháng chiến chống


14


Pháp thì được xếp lên trước, tiếp theo là tác giả có thơ văn trực tiếp động viên, cổ vũ
phong trào chống Pháp. Ca Văn Thỉnh cho rằng: “Thơ văn Nam Bộ phản ánh đặc tính của
nhân dân Nam Bộ: thơ văn đầy nhiệt tình yêu nước, tinh thần đấu tranh vì nghĩa cả, vì
nước, vì dân, lời lẽ chất phác, chân thật, nông dân dễ tiếp thu. Đó là mặt tích cực, mặt độc
đáo của thơ văn Nam Bộ thời đầu kháng Pháp” [42, tr.33]. Về hành động vì nghĩa của
nhân dân Nam Bộ, theo Ca Văn Thỉnh, người Nam Bộ: “Thấy việc nghĩa phải làm, trước
nạn ngoại xâm có nghĩa là phải cứu nước cứu nhà, dù phải hy sinh tính mạng cũng không
lùi bước” [42, tr.33]. Bảo Định Giang trong tiểu luận Những ngôi sao sáng trên bầu trời
văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX [43] có giới thiệu các danh nhân văn học nửa sau thế
kỷ XIX để tuyên truyền, phổ biến di sản tinh thần của tiền nhân cho những thế hệ sau.
Cuốn Nguyễn Đình Chiểu - Về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Ngo ̣c Thiê ̣n tuyển
chọn [186] các bài nghiên cứu, phê bình - tiểu luận, trích đoạn chương sách từ những
công trình nghiên cứu tiêu biểu do các tác giả trong và ngoài nước đã công bố trong
khoảng thời gian từ 1986 - 2001. Nguyễn Đình Chiểu được đánh giá là “nhà thơ yêu
nước lớn của dân tộc” (Hồ Sĩ Hiệp) [tr.58], “ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc”
(Phạm Văn Đồng) [tr.69], “lá cờ đầu của nền thơ văn yêu nước thời kỳ cận đại” (Trần
Thanh Mại) [tr.99], “một tâm hồn vằng vặc nhân nghĩa, một tấm gương kiên trung và
bất khuất” (Hà Huy Giáp) [tr.122],... Còn nhiều bài viết khác đề cập “tinh thần đấu
tranh”, “lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu nước”, “đạo làm người”, “tính nhân
dân”, “yếu tố đạo lý”, “tâm đạo của nhà thơ”,… Đây là những bài viết đề cập con người
và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu. Có những bài viết tiếp cận tác phẩm từ góc độ truyền
thống văn hóa, từ mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ, thế giới quan, hình tượng thời
gian, chữ dân và nước, giá trị nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật…
Nguyễn Thạch Giang với Từ ngữ - Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu [46] đưa ra
những nhận xét tổng quát về ngôn ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, với ba điểm cụ thể:
1. Hình ảnh phong trào kháng Pháp của nhân dân Nam Bộ, 2. Hệ thống ngữ loại hình
tượng về việc học với yêu cầu xác lập một nền tảng tư tưởng của thời đại, và 3. Từ ngữ
và hình tượng về cuộc đời, về con người và người phụ nữ. Công trình chủ yếu tường
giải từ ngữ, điển cố, sắc thái địa phương Nam Bộ trong cách sử dụng ngôn ngữ và nhận

xét chung về một số thư tịch Hán Nôm trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
Đối với tác giả Nguyễn Thông, có: Nguyễn Thông - con người và tác phẩm do
Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang trích dich
̣ và giới thiê ̣u [191] nhân dịp kỷ niệm 100
năm ngày mất của Nguyễn Thông. Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang dựa trên quá trình
nghiên cứu thêm về Nguyễn Thông đã biên soạn lại, bổ sung thêm nhiều tài liệu mới thu
thập được. Khi đánh giá con người và tác phẩm của Nguyễn Thông, các nhà nghiên cứu


15

đều cho rằng Nguyễn Thông có nhiều đóng góp trên nhiều lĩnh vực và nhất trí xếp thơ
văn ông vào dòng thơ văn yêu nước cuối thế kỷ XIX.
Công trình Chân dung Phan Thanh Giản của Nguyễn Duy Oanh [146]; Kỷ yế u
Hội thảo khoa học về Phan Thanh Giản [54]; Nhận thức thêm một bước về thân thế, sự
nghiệp, cuộc đời của Phan Thanh Giản [171] đã tìm hiểu rõ hơn thân thế, sự nghiệp cũng
như nhận thức, đánh giá sâu thêm về Phan Thanh Giản. Công trình Phan Thanh Giản nỗi
đau trăm năm của Hoàng Lại Giang [49] đã dựng lại bức tranh khá hoàn chỉnh về cuộc
đời, con người Phan Thanh Giản và có những nhận định, đánh giá về ông như: “nhẫn
nhục, cam chịu và gắng gỏi” [49, tr.10], ra làm quan phò vua, giúp nước nhưng cảm thấy
mình tài hèn đức mỏng và luôn mang nỗi buồn mênh mông: “Chút nghĩa vương mang
phải gắng đi/ Tang bồng đành rõ chí nam nhi” [49, tr.147]. Công trình Thế kỷ XXI nhìn về
nhân vật li ̣ch sử Phan Thanh Giản [59] đã tập hợp những tham luận của 2 cuộc Hội thảo
gần đây nhất (1994, 2003) để ghi nhận một chặng đường nhận thức dài cùng với những
biến thiên của lịch sử đất nước. Không khí cởi mở, khoan dung đã đưa lại cách nhìn nhận,
đánh giá bớt khắt khe và công bằng hơn đối với Phan Thanh Giản. Chân dung Phan
Thanh Giản đang dần trở lại với cái nhìn đầy vị tha truyền thống của người Việt Nam.
Trong thời gian này, có nhiều tuyển tập tác phẩm Phan Thanh Giản và một số công trình
chuyên luận liên quan được xuất bản hay tái bản. Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu với
quyển Thơ văn Phan Thanh Giản [111] đã tập hợp tất cả những bài thơ do Phan Thanh

Giản sáng tác, giúp cho người đọc hiểu hơn về ông. Trong lời “Giới thiệu Di cảo Phan
Thanh Giản Lương Khê Thi văn thảo”, Chương Thâu nhận định Phan Thanh Giản: “nổi
tiếng là một con người cương trực, khảng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm và được người đời
xưng tụng” [111, tr.8]. Câu Lạc bộ thơ Ba Tri cho xuất bản tập thơ Nỗi oan sáng tỏ [62]
nhân kỷ niệm 212 năm ngày sinh và 141 năm ngày mất của Phan Thanh Giản, ca ngợi
công lao và tấm lòng trung nghĩa của Phan Thanh Giản đối với đất nước: “Câu lạc bộ thơ
Ba Tri hiểu và cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế mà cụ Phan học sĩ phải tiếp nhận
bằng sự “tuẫn tiết” để tỏ rõ lòng trung nghĩa trước buổi dương cùng!” [62, tr.3]; “Cụ - một
vị quan yêu nước, thương dân, suốt đời sống thanh bạch, liêm khiết, cương trực, Cụ dám
can gián Vua để mang họa vào thân vì trách nhiệm trước dân, nước của mình” [62, tr.8].
Công trình Nguyễn Hữu Huân nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất do
Phạm Thiều chủ biên, Cao Tự Thanh, Lê Minh Đức khảo luận, dịch và sưu tầm [187].
Việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể không bắt nguồn từ
những giá trị tinh thần và đạo lý truyền thống dân tộc, đặc biệt là truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm. Trên tinh thần ấy, các tác giả chủ trương tích cực nghiên cứu và giới
thiệu những tấm gương đấu tranh của các thế hệ đi trước, bắt đầu từ những gương mặt


16

tiêu biểu của Hào khí Đồng Nai để tiếp theo, giới thiệu hai nhà thơ yêu nước Nguyễn
Đình Chiểu và Nguyễn Thông.
Nghiên cứu văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, rất cần phải kể đến
các bài viết đề cập đến các tác giả văn học nhà nho Nam Bộ. Về Phan Thanh Giản,
năm 1954 Trường Viễn Đông bác cổ của Pháp tại Hà Nội xuất bản cuốn Hiểu biết về
Việt Nam của hai tác giả Pie Huya và Môrixơ Đurăng. Trang 87 - 88 sách này viết đại
ý: “Lòng trung thành với vua được thể hiện nổi bật trong cách tự vẫn của Võ Tánh,
Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương…” [233]. Quốc sử quán triều Nguyễn đã có
một cái nhìn chia xẻ với Phan Thanh Giản: “Thanh Giản là người ngay thực, giữ lòng
liêm khiết,… Xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài lời nói” (Đại Nam

chính biên liệt truyện, tập 4, Huế, 1993, tr.46).
Đã có nhiều cuộc Hội thảo khoa học về Phan Thanh Giản tổ chức ở Vĩnh Long,
Bến Tre, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Gần đây nhất là cuộc tọa đàm Thế kỷ XXI
nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản với các nhận định: “Người có tội với dân với
nước là Tự Đức. Tư tưởng trung quân của đạo Nho đã buộc Phan Thanh Giản làm trái
với lương tâm và tấm lòng yêu nước, thương dân của mình” [59, tr.79]; “Phan Thanh
Giản nổi tiếng là một con người cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm và được
người đời xưng tụng” [59, tr.91]; “Ông lấy cái chết để tự trừng phạt mình và để tỏ tấm
lòng trung nghĩa. Phải nói là lòng trung này của ông là khẳng định, là sự thực chân thành
và đẹp đẽ… Ông là người cha, người chồng làm tròn bổn phận, là người nói đến tình
nghĩa gia đình” [59, tr.105]; “Phan Thanh Giản cũng dần dần rơi vào bế tắc trên một lập
trường chính trị chiết trung. Vừa mong ái dân vừa muốn trung quân, cái tâm thế lưỡng
phân này khiến từ 1859 Phan không kế thừa được một cách tích cực truyền thống yêu
nước chống ngoại xâm của dân tộc…” [59, tr.282]; “Phan Thanh Giản là một vị quan có
trí thức, mẫn cán, thanh liêm, yêu nước và có nhân cách lớn”. Sự qui kết cho ông tội
“bán nước” hay “phản bội Tổ quốc” như trước đây là nặng nề, không có căn cứ, vừa
không đúng với hành động và động cơ của ông, vừa trái với tấm lòng ngưỡng mộ và
kính mến mà xưa nay nhân dân quê hương vẫn dành cho ông. Nguyên Thủ tướng Võ
Văn Kiệt phát biểu: “Nhân cách đạo đức của Phan Thanh Giản rất đáng để chúng ta và
nhiều thế hệ nối tiếp học tập”, “Tôi khẳng định Phan Thanh Giản là người yêu nước,
thương dân mà lo không tròn bổn phận” [59, tr.231, 234]. Trong bài viết “Một vài nét về
tư tưởng “an dân” của Phan Thanh Giản” (trong sách Những vấn đề văn hóa - xã hội
thời Nguyễn), Đặng Đức Thi nhận xét: “Phan Thanh Giản nói trung quân ái quốc chứ
không nói trung quân như Nho giáo chính thống. Với Phan Thanh Giản, trung quân ái


17

quốc gồm hai nghĩa: một là trung với vua, hai là yêu nước… ông lo cho dân cho nước,
chứ không chỉ lo cho vua” [119, tr.55].

Huỳnh Công Tín với bài viết “Tưởng nhớ ngày mất của Tiến sĩ Phan Thanh Giản
(mồng 5 tháng 7 năm Đinh Mão 4-8-1867)”, đăng trên báo điện tử Cần Thơ ngày
9/8/2008, đã nêu lên tất cả những đức hạnh tốt đẹp Phan Thanh Giản và đồng thời giới
thiệu các tập thơ của Phan Thanh Giản. Bài viết “Đánh giá lại các nhân vật lịch sử nửa
sau thế kỷ XIX ở Việt Nam và Trung Quốc - Trường hợp Phan Thanh Giản (Việt Nam)
và Tăng Quốc Phiên (Trung Quốc)” của Nguyễn Tiến Lực đã khẳng định: “Trong bất
cứ cương vị nào ông cũng luôn luôn trung thành, mẫn cán, lo làm tròn sứ mạng phò vua,
giúp nước, an dân” [120]. Sau khi đất nước thống nhất và tiến hành công cuộc đổi mới,
nhiều nhà khoa học thấy cần phải đánh giá lại Phan Thanh Giản một cách khách quan và
đầy đủ hơn (các bài viết về Phan Thanh Giản trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí
Xưa và Nay, báo Tuổi Trẻ, Tiền Phong,…).
Đối với tác giả Nguyễn Đình Chiểu, có thể nói Nỗi lòng Đồ Chiểu của Phan Văn
Hùm [95] là công trình đầu tiên nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu một cách khoa học và có
tính hệ thống, chú ý lý giải mối quan hệ giữa sáng tác Nguyễn Đình Chiểu với cuộc đời
của ông. Chuyên luận đã “cắm một cái mốc theo định hướng đúng, nhiều triển vọng”
trong lịch sử nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu cả về tư tưởng học thuật cũng như phương
pháp văn bản học. Từ những năm 60 của thế kỷ XX đến nay, giới nghiên cứu chú ý nhiều
đến Nguyễn Đình Chiểu. Phạm Văn Đồng khẳng định: “Nguyễn Đình Chiểu là một
người chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta. Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn
Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật,
nêu cao sứ mệnh của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng” [186, tr.74].
Năm 1982, Hội nghị khoa học quốc gia về Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức tại
tỉnh Bến Tre. Có nhiều tham luận được gửi đến. Các ý kiến đều cho rằng tư tưởng
Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng nhân dân. Ông xứng đáng là đại
biểu cho tinh thần quật cường của lớp sĩ phu tiến bộ cuối thế kỷ XIX cũng như quảng
đại nhân dân Nam Bộ thời kỳ này. Năm 1982, Lê Trí Viễn cho ra đời cuốn Nguyễn
Đình Chiểu ngôi sao càng nhìn càng sáng [204] đã đề cập khá chi tiết về cuộc đời, sự
nghiệp sáng tác của nhà thơ. Đặc biệt Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch
Giang đã cố gắng biên khảo, chú giải trình bày khá chi tiết, đầy đủ tất cả các tác phẩm
Nguyễn Đình Chiểu trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược để cho ra mắt Nguyễn

Đình Chiểu toàn tập [189], [190]. Bộ sách được sưu tầm, biên soạn công phu góp
phần tạo thuận lợi cho việc tiếp cận di sản thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.


18

Vũ Khiêu - Nguyễn Đức Sự với Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng của người trí
thức Việt Nam [70], đã nghiên cứu truyền thống của người trí thức Việt Nam, sự ảnh
hưởng của Nho giáo, việc vận dụng Nho giáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và thái
độ của ông đứng trước nạn ngoại xâm. Trần Văn Giàu với Nguyễn Đình Chiểu đạo làm
người [38] đánh giá cao đạo làm người của Nguyễn Đình Chiểu: “Cuộc đời của Nguyễn
Đình Chiểu là một cuộc đời điển hình (sĩ phu yêu nước) trong một hoàn cảnh điển hình
(đất nước bị xâm lăng). Con người Nguyễn Đình Chiểu không phải sống tùy thời… mà
từ đầu chí cuối đứng sừng sững… đương đầu bất khuất với thời cuộc mỗi lúc thêm bi
đát, giữ được đến cùng cái chính khí bản thiên, cái ý chí quang phục, cái nhân cách Việt
Nam” [38, tr.6]. Gần đây, có thêm một số công trình nghiên cứu như chuyên luận
Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học của Nguyễn Phong Nam [136]; Nguyễn
Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc do Đoàn Lê Giang biên soạn
[45],… đã góp phần tích cực cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm Nguyễn
Đình Chiểu trong nhà trường. Có thể khẳng định, việc nghiên cứu, đánh giá Nguyễn
Đình Chiểu và sáng tác của ông đã có những bước tiến lớn,… Các nhà nghiên cứu thể
hiện thái độ nghiêm túc, khoa học khi đề cao con người, tư tưởng và thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu. Tuy nhiên, vấn đề quan niệm trung nghĩa cũng như con người trung nghĩa
trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn nhiều bỏ ngỏ…
Việc nghiên cứu văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX có ý nghĩa tích
cực về mặt quan điểm, phương pháp nghiên cứu,… góp phần làm rõ hơn những giá trị
văn học nhà nho Nam Bộ và đóng góp của các tác giả vào quá trình phát triển của lịch
sử văn học dân tộc. Những thành tựu đã có trong tìm hiểu, nghiên cứu, đặc biệt trong
sưu tầm, tập hợp, biên dịch, biên soạn tư liệu về văn học nhà nho Nam Bộ là rất đáng
khẳng định. Đấy là thuận lợi lớn cho người đến sau trong tiếp cận văn học nhà nho Nam

Bộ ở một giai đoạn vào loại phức tạp nhất.
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu con người trung nghĩa trong văn học nhà nho
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
1.1.2.1. Về khái niệm trung nghĩa, tư tưởng trung nghĩa trong văn học nhà
nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Tuy chưa lấy con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế
kỷ XIX làm đối tượng nghiên cứu, nhưng khái niệm trung nghĩa, mẫu hình con người
trung nghĩa đã được đề cập trong một số công trình ở cả trong và ngoài nước. Có thể
thấy khái niệm trung nghĩa, tư tưởng trung nghĩa được đề cập trong các công trình với
các ý kiến đáng chú ý.


19

Nguyễn Đình Chiểu là một tác gia lớn của văn học Việt Nam, trong sáng tác của
ông yếu tố trung nghĩa giữ vai trò quan trọng, tạo nên sự độc đáo của phong cách tác giả.
Nhìn nhận về vấn đề này, Lê Trí Viễn có bài “Màu sắc Miền Nam trong thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu”, Nguyễn Trung Hiếu với bài viết “Cái nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu và tấm
lòng ý chí Việt Nam” [84]; E. Hoeffel có bài “Đức trung, hiếu, tiết, nghĩa của Nguyễn
Đình Chiểu”; Hà Huy Giáp có bài “Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn yêu nước, chống
xâm lăng, một tâm hồn vằng vặc nhân nghĩa, một tấm gương kiên trung và bất khuất”,...
Theo Hà Huy Giáp, Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm Lục Vân Tiên “đã đáp ứng được
tinh thần dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, ghét gian ác,... của người dân Việt Nam”;
“những con người tốt trong Lục Vân Tiên kế tục những truyền thống cao quý nhất của dân
tộc về nhân nghĩa; đó là những con người trong sạch, bình dị, làm việc nghĩa như một nhu
cầu mà không hề nghĩ đến tiền tài, ơn huệ”; “Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình
Chiểu là một thứ chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu vì dân, vì nước, vì phẩm giá con người”;
“Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu toát lên một tư tưởng nhân nghĩa lớn, bao
trùm... là tình yêu nước thương dân sâu sắc” [186, tr.126-128].
Vũ Đức Phúc trong các bài viết “Mở rộng nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu”,

“Đạo nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác Nguyễn Đình Chiểu” có đề cập đến
tư tưởng trung quân của Nguyễn Đình Chiểu: “Nguyễn Đình Chiểu đã lên án hết sức
các vua chúa thuở xưa làm hại dân... Đối với các vua như thế thì “trung” sao được... vì
lòng yêu nước thương dân, đã quẳng chữ trung quân đi” [186, tr.243-244]. Trong bài
“Từ Lục Vân Tiên đến Dương Từ - Hà Mậu” [88], Nguyễn Văn Hoàn có nói đến tiêu
chuẩn của “Nghĩa” theo đạo Nho, tư tưởng “trung, nghĩa” tích cực trong Lục Vân Tiên,
quan niệm “nhân nghĩa” của nhà thơ gắn liền với “nợ nước, tình nhà”,... [186, tr.436].
Trần Ngọc Vương trong bài viết “Những đặc điểm mang tính quy luật của sự
phát triển văn học nhìn nhận qua sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu” khẳng định: “chủ đề
cơ bản trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu là “Vệ đạo, bảo dân, trung quân,
ái quốc”; “Hình tượng văn học của cuối thế kỷ XIX về cơ bản là sự kết tinh toàn bộ
những giá trị mà cũng là sự kết thúc của hình tượng người trung nghĩa” [186, tr.307,
310]. Ngoài ra, còn những nghiên cứu khác như: “Sự vận dụng Nho giáo trên lập trường
nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu” của Nguyễn Đức Sự, “Tính nhân dân của Nguyễn
Đình Chiểu” của Phan Ngọc, “Truyện Lục Vân Tiên và vấn đề quan hệ đạo đức và thẩm
mỹ” của Lâm Vinh, “Nguyễn Đình Chiểu qua trang đời, trang văn” của Thạch Phương Mai Quốc Liên,... Về tác phẩm Lục Vân Tiên có một số học giả người Pháp như: G.
Aubaret, A. Michels, G. Jeanneau,... tìm hiểu giá trị nội dung, luân lý đạo đức cũng như
nghệ thuật diễn tả tâm lý, tình cảm nhân vật. Năm 1864, Gabriel Aubaret đã dịch Lục


×