Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Sở Nội Vụ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.01 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

CNH – HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HĐND:

Hội đồng nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân

CBCC:

Cán bộ, công chức

HCNN:

Hành chính nhà nước

CCHC:


Cải cách hành chính

CBCCVC:

Cán bộ công chức, viên chức

QPPL:

Quy phạm pháp luật


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là nhân tố quan trọng nhất trong các nguồn lực phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta. Ở Việt Nam, Nghị quyết của
Đảng cũng chỉ ra rằng Việt Nam chỉ có thể đi tắt đón đầu sự phát triển trên thế
giới bằng cách đầu tư vào yếu tố con người. Đó chính là động lực quan trọng
nhất của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Đối với mỗi tổ chức, con người là yếu tố quyết định đến việc đạt được
mục tiêu của tổ chức. Trong các nguồn lực phát triển tổ chức, con người giữ vai
trò quyết định hiệu quả, năng suất của các yếu tố khác. Quan tâm đến sự phát
triển con người là chiến lược thông minh và lâu dài của mỗi tổ chức.
Để có được sự phát triển đó, đào tạo, bồi dưỡng là động lực cơ bản, quan
trọng thúc đẩy quá trình nâng cao phẩm chất, năng lực của con người. Hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng giúp con người có được tri thức, phát triển kỹ năng và
phẩm chất lao động mới, thúc đẩy sáng tạo thành tựu khoa học kỹ thuật, đảm
bảo cho sự vận động tích cực các ngành nghề lĩnh vực và toàn bộ xã hội. Quá
trình đào tạo, bồi dưỡng làm biến đổi nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con người phát triển toàn

bộ và từng bộ phận trong cấu trúc nhân cách, phát triển cả về năng lực vật chất
và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức
và tay nghề, cả về tâm hồn và hành vi từ trình độ chất lượng này đến trình độ
chất lượng khác cao hơn, toàn diện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong cơ quan hành chính nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động cơ
bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, phẩm chất thực
hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó, đáp ứng các yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập quốc tế của đất
nước.
Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của Sở
3


Nội Vụ Hà Nội còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực thi
công vụ của Thành phố Hà Nội
Từ những lý do trên, tôi chọn “Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức tại Sở Nội Vụ Hà Nội” làm đề tài Thực tập tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu chung
Báo cáo tập trung phân tích thực trạng công tác đào tạo bồi dưỡng CBCC
tại sở Nội vụ Hà Nội. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục
những khó khăn, hạn chế, giúp cơ quan có cái nhìn tổng quát hơn về tình
hình thực tế trình độ của CBCC của mình để có những hướng đi đúng đắn hơn
trong tương lai.
- Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
+ Tìm hiểu sâu về quy trình đào tạo bồi dưỡng CBCC bằng cơ sở lí luận
+ Tìm hiểu và mô tả được thực trạng công tác đào tạo bồi dưỡng CBCC
tại sở Nội vụ Thành phố Hà Nội
+ Nêu ra được những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả

của công tác đào tạo bồi dưỡng CBCC tại sở Nội vụ Thành phố Hà Nội
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: Từ năm 2014 - 2016
- Về mặt không gian: Phòng Công chức, Viên chức – Sở Nội Vụ Hà Nội.
4. Vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu đề tài là chú trọng nghiên cứu trong phạm vi CBCC
các phòng ban đợn vị thuộc Sở Nội Vụ Hà Nội, đề cập đi sâu vào khâu đào tạo,
bồi dưỡng CBCC nhìn nhận thực trạng đào tạo, bồi dưỡng CBCC của Sở Nội
Vụ Hà Nội từ đó đưa ra những nhận xét đánh giá và một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC của Sở Nội Vụ Hà Nội
5. Phương pháp nghiên cứu
Có rất nhiều phương pháp để nghiên cứu nhưng do đặc thù của đề tài và
đặc thù của đơn vị tôi thực tập nên tôi đã lựa chọn những phương pháp sau để
nghiên cứu cho đề tài của mình:
4


+ Phương pháp phân tích tài liệu: Tiến hành thu thập thông tin theo đối
tượng và mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Những thông tin bao gồm các bài báo,
các văn bản luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Quyết định, các văn bản Quản
lý Nhà nước liên quan tới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức tại
Sở Nội Vụ Hà Nội. Bên cạnh đó đề tài còn dựa trên báo cáo tổng kết .
+ Phương pháp quan sát: Trong thời gian nghiên cứu tại cơ quan tôi chủ
động quan sát vấn đề liên quan tới quá trình xây dựng đào tạo, phân bổ các lớp
học đào tạo về lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ cho cán bộ công chức tại Sở
Nội Vụ Hà Nội.
+ Phương pháp xử lý, phân tích thông tin: Từ những số liệu điều tra, thu
thập được, tôi đã xử lý thông tin bằng chương trình EXCEL, máy tính.
6. Ý nghĩa đề tài
- Đối với bản thân: Với việc chọn đề tài “Thực trạng công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Sở Nội Vụ Hà Nội”: “Thực trạng, giải pháp
và khuyến nghị” giúp tôi thực hiện hóa vấn đề lý thuyết đã học tập trên giảng
đường, đồng thời giúp tôi bổ sung, củng cố kiến thức về chuyên ngành.
- Đối với xã hội: Bài báo cáo giúp tôi có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đề tài báo cáo cũng là tài liệu bổ ích
cho bản thân tôi, giúp tôi học hỏi thêm kinh nghiệm từ thực tế. Đồng thời, bài
báo cáo cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho những độc giả quan tâm đến vấn
đề đào tạo trong hệ thống hành chính của nước ta.
- Đối với tổ chức: Bài báo cáo góp phân hoàn thiện hơn công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức giúp cho tổ chức hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh
đó cũng là nhằm xác định được rõ hơn và tìm hiểu sâu hơn về tầm quan trong
của vấn đề công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Sở Nội vụ.
7. Kết cấu đề tài:
Gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức.

5


Chương 2. Thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
tại Sở Nội Vụ Hà Nội.
Chương 3. Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Sở Nội Vụ Hà Nội.

6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ CÔNG CHỨC

1.1. Một số khái niệm cơ bản về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
Công chức là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên
trong cơ quan nhà nước.
Nhưng do tính đặc thù của từng quốc gia trên thế giới nên quan niệm công
chức ở các nước không hoàn toàn đồng nhất. Có nước chỉ giới hạn công chức
trong phạm vi những người tham gia hoạt động quản lý nhà nước. Một số nước
có quan niệm rộng hơn, công chức bao gồm tất cả những người làm việc trong
các cơ quan, tổ chức có tính chất công quyền.
Ở Pháp, công chức bao gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc
cộng đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên
trong các công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế
vào một nghạch của nền hành chính công.
1.1.2 Khái niệm cán bộ, công chức Việt Nam
Tại khoản 2, Điều 4 của Luật cán bộ, công chức của Quốc hội ban hành
ngày 22 tháng 8 năm 2008:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
7



lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.” [4;25].
Qua định nghĩa này, công chức có các dấu hiệu sau:
- Là công dân Việt Nam
- Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào nghạch, chức vụ, chức danh;
- Công việc có tính chuyên nghiệp và thường xuyên;
- Làm việc trong cơ quan Nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội,
cơ quan thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập;
Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; riêng lương của
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì theo
quy định riêng
1.1.3. Vai trò của cán bộ, công chức trong nền hành chính
Cán bộ, công chức là người hoạch định đường lối, chính sách cho cơ
quan, tổ chức hoạt động. Trong việc đưa ra đường lối, chính sách cho cơ quan
hành chính nhà nước, cán bộ, công chức là người đưa ra ý tưởng, định hướng
của tổ chức. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng nên các đường lối, chính sách
của cơ quan, tổ chức.
Cán bộ, công chức là người trực tiếp tổ chức thực thi các chính sách, kế
hoạch của cơ quan nhà nước. Cán bộ, công chức là người đưa các đường lối,
chính sách của cơ quan hành chính đi vào thực thi, đi vào đời sống nhân dân. Họ
là những người đứng ra điều phối, thực hiện, giám sát, kiểm tra các hoạt động
nhằm thực hiện mục tiêu của cơ quan hành chính nhà nước. Những công việc
này được quy định trong chức trách, nhiệm vụ của chức danh công việc đang
đảm nhận.
Nền hành chính của đất nước được cấu thành bởi các yếu tố: thể chế; tổ
chức bộ máy; đội ngũ cán bộ, công chức; và tài chính công, trong đó đội ngũ cán
bộ, công chức là thành phần quyết định đến sự mạnh hay yếu của nền hành
chính, là chủ thể tổ chức, phối hợp các yếu tố khác hoạt động có hiệu quả. Vì
vậy, muốn xây dựng “một nền hành chính trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại

hóa, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực” thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công
8


chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước.
1.1.4. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
Trong quản lý nguồn nhân lực nói chung, thuật ngữ “đào tạo”, “bồi
dưỡng” thường được sử dụng đi liền với nhau. Vì nó có sự gần gũi nhất định về
mặt nội dung nên được gọi chung là “đào tạo, bồi dưỡng”. Tuy nhiên hai thuật
ngữ này có sự khác biệt nhất định về mặt nội dung.
Có khá nhiều khái niệm về đào tạo nguồn nhân lực trong tổ chức. Theo từ
điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, “đào tạo là quá trình tác động đến một con
người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo… một cách hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và
khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào
việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người.” “Đào
tạo được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể
thực hiện hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.” “Đào tạo là quá trình
cung cấp và tạo dựng khả năng làm việc cho người học; đưa họ vào chương
trình, khóa học, môn học một cách hệ thống nhằm hình thành và phát triển nhân
cách có hệ thống”. Tại khoản 1 điều 5, Nghị định số 18 về đào tạo, bồi dưỡng
công chức, “đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri
thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, từng bậc học.”
Từ những cách tiếp cận khác nhau, có thể hiểu một cách chung nhất: “đào
tạo là một quá trình làm tăng hiệu quả làm việc của người lao động thông qua
việc cung cấp cho họ sự thành thạo về kiến thức, kỹ năng hoặc kiến thức mới”.
Khái niệm bồi dưỡng có các quan điểm khác nhau. Theo TS. Ngô Thành
Can, “bồi dưỡng là quá trình làm cho người ta tăng thêm năng lực hoặc phẩm
chất”. Tại khoản 2 điều 5 Nghị định 18 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng

công chức quy định “bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến
thức, kỹ năng làm việc”.
Bồi dưỡng được hiểu là quá trình liên tục nâng cao trình độ chuyên môn,
kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao năng lực nói chung trên cơ sở của mặt
9


bằng kiến thức đã được đào tạo trước đó.
Hai thuật ngữ “đào tạo”, “bồi dưỡng” có sự khác nhau nhất định: xét về
mặt thời gian, đào tạo có thời gian dài hơn, thường là từ một năm học trở lên; về
mặt bằng cấp thì đào tạo có bằng cấp chứng nhận trình độ được đào tạo, còn bồi
dưỡng thường chỉ có chứng chỉ chứng nhận đã học qua khóa bồi dưỡng. Việc
tách bạch hai thuật ngữ “đào tạo” và “bồi dưỡng” giúp chúng ta thấy rõ được sự
giống, khác nhau cơ bản của chúng.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần đưa ra một định nghĩa chung cho đào tạo,
bồi dưỡng. “Đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta
học tập, nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường
năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người,
là cán bộ, công chức làm việc trong tổ chức”. Đào tạo, bồi dưỡng được hiểu là
một quá trình nhằm trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức những kiến thức, kỹ
năng hành vi cần thiết để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động nhằm:
- Trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan đến công việc;
- Thay đổi thái độ và hành vi;
- Nâng cao hiệu quả thực thi công việc.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: là một quá trình nhằm trang bị
cho đội ngũ cán bộ, công chức những kiến thức, kỹ năng, hành vi cần thiết để
thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Tùy thuộc vào từng nhóm cán bộ, công
chức ở trên đã nêu.
Các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được tổ chức dưới các

hình thức khác sau:
- Phân loại theo cách thức triệu tập học viên, gồm có:
+ Đào tạo, bồi dưỡng dưới hình thức tập trung hoặc bán tập trung.
+ Đào tạo, bồi dưỡng dưới hình thức tại chức.
+ Đào tạo, bồi dưỡng dưới hình thức kèm cặp.
+ Bồi dưỡng từ xa.
- Phân loại theo thời gian:
10


+ Đào tạo dài hạn;
+ Các khóa đào tạo bồi dưỡng trung hạn;
+ Các khóa đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn;
-

Bên cạnh 2 cách phân biệt trên, còn có thể xem xét hình thức đào tạo

theo mục đích:
+ Đào tạo, bồi dưỡng tiền công chức;
+ Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh, tiêu chuẩn ngạch;
+ Bồi dưỡng nâng cao;
+ Bồi dưỡng cập nhật.
- Quan điểm của Đảng về đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về đào tạo đội ngũ cán
bộ, công chức nước ta, chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức thời kỳ đổi
mới được đào tạo trên cơ sở một hệ thống quan điểm chỉ đạo có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc đó là:
Thứ nhất: Phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội

mà đào tạo đội ngũ, cán bộ, công chức và đổi mới công tác cán bộ.
Thứ hai: Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy
truyền thống yêu nước của dân tộc. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập
trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ.
Thứ ba: Gắn việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức với xây dựng tổ chức
và đổi mới cơ chế chính sách. Có nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức, có tổ chức
mới bố trí cán bộ, không vì cán bộ mà lập ra tổ chức, mỗi cán bộ trong tổ chức
phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng.
Thứ tư: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức.

11


1.2. Vai trò của đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức
Công tác đào tạo – bồi dưỡng CBCC là một vấn đề quan trọng của công
tác cán bộ. Vấn đề này đã, đang và sẽ tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm,
nhất là khi Việt Nam đã trở thành viên của WTO, vị thế của nước ta trên trường
quốc tế ngày càng được nâng cao thì nó càng trở nên cần thiết.
Trong giai đọan hiện nay, công tác đào tạo – bồi dưỡng CBCC hiện nay
có những vai trò sau đây:
- Công tác đào tạo – bồi dưỡng CBCC nhằm phục vụ cho công tác chuẩn
hóa cán bộ. Đây có thể coi là vấn đề quan trọng khi mà đội ngũ CBCC hiện nay
còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, trình độ, năng lực, phẩm chất còn bộc
lộ nhiều yếu kém. Điều này đã làm giảm sút chất lượng và hiệu quả giải quyết
công việc, gây nhiều bức xúc trong dân nhân. Vì vậy trong thời gian tới công tác
đào tạo – bồi dưỡng CBCC cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa để nâng cao
trình độ, kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ CBCC.
- Đào tạo – bồi dưỡng CBCC nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH

đất nước, đào tạo – bồi dưỡng CBCC có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có
năng lực, phẩm chất sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
- Đào tạo – bồi dưỡng CBCC nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc
CCHC.
- Tạo ra một đội ngũ CBCC vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có
năng lực, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, say mê với công việc tận tụy phục
vụ nhân dân, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Xây dựng một đội ngũ CBCC năng động, nhạy bén, linh hoạt, có khả
năng thích nghi với môi trường làm việc hiện đại, khả năng giải quyết công việc
nhanh góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
1.3. Mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức
Trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta, mục tiêu cơ bản của công tác
đào tạo, bồi dưỡng là:
-

Trang bị những kiến thức kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên

môn, nghiệp vụ và quản lý nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
12


thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ; trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa,
tận tụy với công vụ; có trình độ quản lý tốt, đáp ứng yêu cầu công việc kiện toàn
và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước; tiếp tục thực hiện một cách
có chất lượng và hiệu quả chương trình cải cách hành chính nhà nước.
-

Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo tiêu chuẩn của

từng nghạch công chức và chức danh cán bộ quản lý đã được nhà nước ban hành

nhằm khắc phục những hạn chế, hẫng hụt hiện nay để thực thi công vụ, đảm bảo
yêu cầu công việc và tạo nguồn nhân lực thường xuyên cho cơ quan nhà nước
cũng như hệ thống chính trị.
1.4. Nguyên tắc của công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công
chức
Nguyên tắc là những tư tưởng làm nền tảng để tiến hành các hoạt động
một cách hiệu quả. Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng là nền tảng tư tưởng định
hướng các bên tham gia, các hoạt động và việc huy động các nguồn lực nhằm
thực hiện mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức đạt hiệu quả cao. Nguyên tắc
đào tạo, bồi dưỡng công chức cần hướng đến các nội dung sau:
Một là, đào tạo, bồi dưỡng phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu của tổ
chức. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng một kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
người phụ trách công tác đào tạo phải căn cứ vào các mục tiêu phát triển của tổ
chức để xác định nội dung đào tạo, các kiến thức kỹ năng cần đào tạo, thái độ
với công việc mà người lao động cần có.
Hai là: đào tạo, bồi dưỡng không gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của tổ
chức. Nguyên tắc này đòi hỏi khi lên kế hoạch đào tạo, tổ chức sẽ phải tính toán
sao cho việc thực hiện quá trình đào tạo hoàn toàn không gây ảnh hưởng xấu
đến kết quả hoạt động của tổ chức. Do vậy, tổ chức cần phải tính toán, nên tổ
chức đào tạo vào thời điểm nào để có thể huy động được nhiều người tham gia
đào tạo nhất. Trong nhiều trường hợp, do nhu cầu đào tạo quá lớn, có thể chia
quá trình đào tạo ra thành nhiều giai đoạn khác nhau hoặc thành nhiều lớp, nhiều
đợt khác nhau.
Ba là: đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ nhu cầu đào tạo. Đào tạo, bồi
13


dưỡng là để phục vụ cho nhu cầu công việc, do vậy, trong điều kiện nguồn lực
có hạn, tổ chức sẽ phải lựa chọn đào tạo kiến thức và kỹ năng gì là cần thiết nhất
để giúp người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao qua đó giúp tổ chức

đạt được các mục tiêu của mình. Nói cách khác, nội dung đào tạo phải xuất phát
từ nhu cầu đào tạo.
Bốn là: đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với việc sử dụng nhân lực sau đào
tạo. Để đào tạo, bồi dưỡng thật sự có ý nghĩa tổ chức cần có chính sách sử dụng
nhân lực sau đào tạo cách đúng đắn. Có nghĩa là, những kiến thức kỹ năng mà
người lao động đạt được trong quá trình đào tạo phải được tổ chức tạo điều kiện
để ứng dụng trong thực tiễn.
Năm là: kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải có tính khả thi. Mặc dù đào tạo,
bồi dưỡng cho người lao động bất kỳ kiến thức, kỹ năng nào cũng mang lại lợi
ích, song tổ chức sẽ phải lựa chọn đào tạo, kiến thức kỹ năng gì là cần thiết nhất.
Có nghĩa là, khi lập kế hoạch đào tạo, tổ chức sẽ phải sắp xếp các nội dung kiến
thức và kỹ năng cần đào tạo theo thứ tự ưu tiên và lựa chọn nội dung đào tạo
dựa trên sự ưu tiên đó sao cho với các nguồn lực có thể huy động, tổ chức có thể
tiến hành đào tạo một cách hiệu quả.
Sáu là: đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Điều này
đòi hỏi quá trình đào tạo phải tiến hành một cách bài bản, các nội dung và
phương pháp đào tạo được lựa chọn phải đảm bảo cho người lao động tiếp thu
và rèn luyện được kiến thức kỹ năng cần thiết. Hay nói cách khác, các mục tiêu
đào tạo được đặt ra ban đầu phải được thực hiện có hiệu quả.
1.5. Tác động
Để nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ
chức hiện nay, cần quan tâm, nghiên cứu và thực hiện tốt các yếu tố tác động
chủ yếu sau:
-

Nhận thức của đội ngũ cán bộ, giảng viên và học viên
Nhận thức đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của con

người. Nhận thức giúp các cá nhân và cộng đồng định hướng cho hành vi của
mình. Mặt khác, nhận thức cũng giúp con người điều chỉnh hành vi bản thân

14


trong quá trình hoạt động thực tiễn để đạt được các mục tiêu đã định hoặc để các
hành vi đó phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ chức cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào nhận thức
của người đào tạo, bồi dưỡng và người được đào tạo, bồi dưỡng. Giảng viên,
học viên có nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ nghiệp vụ tổ chức trong tình hình hiện nay thì mới có thái độ và hành vi
giảng dạy, học tập nghiêm túc. Ngược lại, nhận thức của đội ngũ cán bộ, giảng
viên và học viên chưa đúng, chưa thấy được tính cấp thiết của công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ chức hoặc cho rằng còn nhiều công việc khác
quan trọng hơn công việc này thì chắc chắn chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ chức sẽ thấp.
-

Nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với

yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ của công tác tổ chức.
Đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sau khi khẳng định các kết
quả và thành tựu đã đạt được, Nghị quyết Trung ương ba (khoá VIII) nêu rõ:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa gắn với yêu cầu, nội dung, chương
trình và phương pháp đào tạo cán bộ chậm đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ X cũng nêu: “Chương trình, phương thức dạy và học còn lạc hậu, nặng
nề, chưa thật phù hợp”. Nhận định đó là chung cho cả hệ thống đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của cả Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, trong đó hệ thống trường
đảng cũng có những thiếu xót, khuyết điểm ở mức độ này hay mức độ khác.
Nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiệp
vụ tổ chức phải thiết thực, phù hợp với đối tượng đào tạo, với tình hình thực tiễn
của công tác tổ chức hiện nay. Phải chú trọng trang bị cả kiến thức và yêu cầu về

phẩm chất đạo đức, cả lý luận và thực tiễn, cả kiến thức cơ bản và kỹ năng thực
hành; chú trọng bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt
các kiến thức khoa học nghiệp vụ tổ chức. Tuy nhiên, cần chú ý tránh dàn trải,
trùng lặp về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
Phương pháp dạy và học phải thực sự đổi mới, khoa học, các phương
15


pháp mới cần được áp dụng triệt để, nhất là phương pháp sắm vai, phương pháp
giải quyết tình huống, phương pháp hỏi và đáp, đặc biệt là phương pháp tổng kết
thực tiễn.
Những phương pháp này được đào tạo kỹ lưỡng, thường xuyên sẽ tạo ra
được kỹ năng giải quyết tình huống tốt khi ra làm công tác tổ chức.
-

Nhân cách và uy tín của giảng viên, uy tín của nhà trường cũng ảnh

hưởng, tác động đến chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nghiệp vụ tổ chức.
Công tác tổ chức là thiết kế các hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu và
tổ chức sử dụng con người một cách phù hợp để hoàn thành các mục tiêu một
cách tốt nhất. Như vậy, muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, người làm công tác tổ
chức trước hết phải có phẩm chất, năng lực tốt, mẫu mực, nhất là năng lực điều
hành, năng lực sử dụng, cảm hoá, cuốn hút con người. Những năng lực đó ở
trong nhà trường được học viên nhận thức, học hỏi, hội tụ bằng chính người
thầy, hàng ngày đào tạo, bồi dưỡng họ. Mặt khác, uy tín của nhà trường (cơ sở
đào tạo) cũng tác động rất lớn đến chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ chức. Một nhà trường chú trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bài bản, khoa học, bảo đảm đúng thời gian

đào tạo, học viên ra trường có kiến thức nghiệp vụ tốt, công tác tốt, được mọi
người và xã hội chấp nhận, tin tưởng, nhà trường đó sẽ là điểm đến của nhiều
thế hệ học viên.
-

Quản lý tốt học viên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng sẽ tác động tích

cực đến hoạt động thực tiễn của cán bộ làm nghiệp vụ tổ chức sau khi ra
trường.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ chức ở nhà trường
không chỉ đơn thuần là quá trình học tập, tiếp thu tri thức, mà quan trọng là ngay
trong quá trình đó người học được rèn luyện kỹ năng, bản lĩnh và hoàn thiện
nhân cách theo yêu cầu của một nhà tổ chức. Nói cách khác, quá trình đào tạo
phải được xét tới là quá trình đào luyện, rèn giũa nên những nhân tài về công tác
tổ chức cho Đảng, Nhà nước, dân tộc.
16


Người đi học cần ý thức đầy đủ rằng, thời gian đi học là thời gian tu
nghiệp gian khổ và toàn diện, là cơ hội không lặp lại, nếu tập trung tư tưởng,
năng lực, thời gian và nỗ lực phấn đấu thì sẽ có bước trưởng thành vượt bậc.
Người dạy và người học cần xác định rõ việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nhà
trường phải thật sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Vì vậy, học viên cần tự giác và tranh thủ thời gian, tranh thủ thu nạp kiến
thức, tích cực học tập, rèn luyện, chấp hành tốt nội quy, quy chế học tập của nhà
trường, của lớp học. Nhà trường và giáo viên chủ nhiệm cần quản lý tốt học viên
không chỉ đủ, đúng thời gian trên lớp mà cả thời gian tự học ở nhà.
Quản lý tốt học viên nghiệp vụ tổ chức trong thời gian học tập vừa giúp
học viên tranh thủ nâng cao kiến thức vừa giúp cho học viên kỹ năng quản lý
con người - lĩnh vực, môi trường họ sẽ gặp và thực hiện khi ra công tác.


17


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ CÔNG CHỨC TẠI SỞ NỘI VỤ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về Sở Nội Vụ Hà Nội
2.1.1. Giới thiệu chung
Tên đơn vị: Sở Nội vụ Hà Nội.
Địa chỉ: số 18B, phố Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà
Nội.
Số điện thoại: 043.933.5176
Fax: (04) 3.933.5177
Mail: vanthu_sonv@.gov.vn
2.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của Sở Nội vụ Hà Nội
Sở Nội vụ thành phố Hà Nội có quá trình phát triển lâu dài, gắn liền với
quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của Thủ đô Hà Nội. Ngành Nội vụ,
Sở Nội vụ của thành phố có những đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng
và phát triển của bộ máy Nhà nước cách mạng, quá trình đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước, xây dựng Thủ đô qua các giai đoạn lịch sử.
Ngành tổ chức Nhà nước Việt Nam (nay là ngành Nội vụ) được thành lập
ngay từ những ngày đầu khi nhân dân ta có được Chính phủ lâm thời năm 1945
(28/8/1945). Trong hơn 6 thập kỷ qua, dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng
chức năng, nhiệm vụ cơ bản của ngành là giúp Chính phủ xây dựng chính quyền
nhân dân, quản lý địa giới hành chính và đội ngũ cán bộ công chức thì không
thay đổi. Trong thành quả chung của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, các
giai đoạn đều luôn ghi dấu ấn của công tác tổ chức và cán bộ. Sở Nội vụ thành
phố Hà Nội phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử đáng ghi nhận.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tháng 10/1954 phòng Quản lý
nhân sự thành phố Hà Nội cùng với một số cơ quan của Uỷ ban hành chính

Thành phố được thành lập.
Tháng 10/1963, Ban Tổ chức dân chính ra đời là tiền thân của Ban Tổ
chức chính quyền Thành phố.
Ngày 12/8/1965 Ban Tổ chức dân chính được đổi tên thành Ban Tổ chức
18


chính quyền Thành phố theo Quyết định số 3852/QĐ-TCDC của Uỷ ban hành
chính Thành phố Hà Nội. Trong giai đoạn này, nhiều vấn đề mới về tổ chức bộ
máy Nhà nước, công chức, công vụ và các vấn đề xã hội khác được đặt ra. Các
vấn đề như bố trí cán bộ, công chức, nhân viên; sắp xếp, kiện toàn bộ máy chính
quyền địa phương được thực hiện đã góp phần vào việc nhanh chóng ổn định tổ
chức bộ máy chính quyền nhân dân ở Hà Nội, tạo cơ sở cho việc khôi phục và
phát triển kinh tế- xã hội sau chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bước vào
giai đoạn tập trung xây dựng và phát triển Thủ đô.
Ban Tổ chức chính quyền thành phố được đổi tên thành Sở Nội vụ thành
phố Hà Nội tại Quyết định số 1791/QĐ-UB ngày 22/12/2003 của UBND thành
phố Hà Nội.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, công tác tham mưu cho Thành uỷ
và UBND Thành phố về công tác xây dựng chính quyền, công tác tổ chức bộ
máy, quản lý biên chế, tiền lương, công chức, công vụ .v.v là rất quan trọng và
nặng nề. Dân số thành phố tăng nhanh; quy mô thành phố nhiều lần mở rộng; vị
thế và vai trò trung tâm đối với cả nước của Thủ đô Hà Nội đặt trọng trách lớn
đối với tổ chức Đảng, chính quyền thành phố mà ngành Nội vụ có vai trò trung
tâm trong tham mưu công tác cán bộ và tổ chức.
Phục vụ sự nghiệp đổi mới, chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải có những đổi mới trong
hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung, của nền hành chính nói riêng.
Qua quá trình hình thành và phát triển gần 60 năm của ngành, Sở Nội vụ

thành phố Hà Nội đã đạt được nhiều thành tích, được Chủ tịch nước CHXHCN
Việt Nam quyết định tặng Huân chương Lao động Hạng 3 và Huân chương Lao
động Hạng 2. Thành tích nêu trên ghi nhận công sức đóng góp của nhiều thế hệ
cán bộ công chức đã và đang làm việc tại Sở và ngành Nội vụ thành phố Hà Nội;
sự giúpđỡ của các cấp, các ngành từ Trung ươngđếnđịa phương cho sự trưởng
thành của ngành Nội vụ thành phố.
Năm 2008 ghi thêm nhiều dấu ấn đối với ngành Nội vụ. Thực hiện chủ
19


trương tinh giản bộ máy; thành lập các cơ quan quản lý đa ngành đa lĩnh vực,
công tác quản lý nhà nước về Tôn giáo, Thi đua- khen thưởng và Văn thư- Lưu
trữ được sáp nhập vào ngành Nội vụ. Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12
của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số
tỉnh liên quan, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 35/QĐUBND về việc thành lập Sở Nội vụ thành phố Hà Nội trên cơ sở hợp nhất Sở
Nội vụ tỉnh Hà Tây với Sở Nội vụ thành phố Hà Nội (cũ).
Nhiệm vụ của ngành Nội vụ nói chung và Sở Nội vụ Thành phố Hà Nội
nói riêng còn nặng nề, khó khăn, nhưng với quyết tâm, tinh thần trách nhiệm và
truyền thống tốt đẹp của ngành, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, HĐND, UBND
Thành phố Hà Nội, toàn thể cán bộ, công chức Sở Nội vụ thành phố Hà Nội nỗ
lực phấn đấu, quyết tâm vượt khó, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ và phát triển của Thủ đô Hà Nội.
2.1.3. Chức năng nhiệm vụ chung của Sở Nội vụ Hà Nội
Sở Nội vụ là cơ quan Hành chính Nhà nước cấp Thành phố, vì vậy Sở có
vị trí và chức năng hết sức quan trọng, điều đó được thể hiện ngay trong tên gọi,
“Sở Nội Vụ Thành phố Hà Nội” và phạm vi quản lý của cơ quan.
2.1.3.1. Chức năng
Sở Nội vụ Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban Nhân dân Thành
phố Hà Nội có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban Nhân dân thực hiện các chức
năng quản lý Nhà nước về nội vụ, gồm: Tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan hành

chính, sự nghiệp hành chính, cải cách hành chính, chính quyền địa phương; địa
giới hành chính; cán bộ công chức, viên chức Nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức cấp xã, phường, thị trấn; tổ chức hội, tổ chức phi Chính phủ; Văn thư, lưu
trữ Nhà nước; tôn giáo, thi đua khen thưởng.
Sở Nội vụ có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự
chỉ đạo quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân Thành
phố, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của
Bộ Nội vụ.

20


2.1.3.2. Nhiệm vụ
Sở Nội vụ Hà Nội là cơ quan hành chính Nhà nước thuộc quản lý của Ủy
ban nhân dân Thành phố Hà Nội, vì thế Sở có các nhiệm vụ sau:
Trình Ủy ban nhân dân Thành phố dự thảo các quyết định, chỉ thị; Quy
hoạch kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm và các đề án, dự án, chương trình
thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Sở trên địa bản Thành phố;
Trình UBND Thành phố quyết định phân cấp quản lý về tổ chức bộ máy
đối với các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp Nhà nước thuộc UBND
Thành phố và UBND Quận;
Tham mưu giúp Ủy ban nhân dân Thành phố xây dựng đề án thành lập,
sát nhập, chia tách các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp Thành
phố và cấp Quận;
Xây dựng, báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố về kế hoạch biên chế của
địa phương để trình Hội đồng nhân dân quyết định về tổng biên chế sự nghiệp ở
địa phương và thông qua tổng biên chế hành chính của địa phương trước khi
trình cấp có thẩm quyền quyết định;
Trình Chủ tịch Ủy Ban nhân dân Thành phố quyết định giao chỉ tiêu biên
chế hành chính, sự nghiệp Nhà nước;

Thẩm định, trình Ủy ban nhân dân Thành phố phê duyệt kết quả bầu cửa
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND cấp Quận; Giúp Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn các chức danh bầu cửa theo quy định của pháp
luật;
Tham mưu giúp Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, thống kê số
lượng, chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, thành viên Hội đồng nhân dân
các cấp để tổng hợp, báo cáo theo quy định;
Tham mưu, trình Ủy ban nhân dân ban hành các văn bản về tuyển dụng,
quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ chính sách đối với cán
bộ, công chức, viên chức Nhà nước và cán bộ công chức Nhà nước cấp xã theo
21


quy định của pháp luật;
Trình Ủy ban nhân dân quyết định các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân Thành phố phụ trách về các nội dung, công việc của cải cách hành
chính, bao gồm: Cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, cải cách hành chính công,
hiện đại hóa nền hành chính; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện, triển
khai thực hiện theo quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố;
Trình Ủy ban nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân Thành phố về quyết
định phân công các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố phụ
trách các nội dung, công việc của cải cách hành chính, xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hóa nền Hành
chính; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện theo nghị quyết của
UBND Thành phố;
Trình Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định
các chủ trương, biện pháp cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản

lý của các cơ quan hành chính Nhà nước trong Thành phố; Chủ trì, phối hợp
cùng các ban ngành liên quan của Trung ương đóng trên địa bàn Thành phố triển
khai cải cách hành chính;
Thẩm định, trình Chủ tịch UBND Thành phố cho phép thành lập, giải thể,
phê duyệt điều lệ của hội, tổ chức phi Chính phủ trên địa bàn Thành phố theo
quy định của pháp luật
Tham mưu giúp Ủy ban nhân dân, Chủ tịch UBND Thành phố chỉ đạo,
thống nhất quản lý Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, cụ thể hóa chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về thi đua khen thưởng phù hợp với
tình hình thực tế của Thành phố; Làm nhiệm vụ thường trực của Hội đồng thi
đua – Khen thưởng Thành phố;
Xây dựng, quản lý và sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng theo quy định của
pháp luật; Quản lý, cấp phát, thu hồi, cấp đổi hiện vật khen thưởng theo quy
định của pháp luật;
Quản lý, tổ chức bộ máy biên chế, thực hiện chế độ tiền lương và các chế
22


độ chính sách về đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc Sở theo thẩm quyền;
Xây dựng Quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ
máy, mối quan hệ công tác và trách nhiệm của người đứng đầu của các tổ chức
thuộc Sở theo quy định của pháp luật để trình UBND Thành phố quyết định
hoặc quyết định theo thẩm quyền;
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân Thành phố, Chủ tịch
UBND Thành phố giao và theo quy định của pháp luật.
2.1.4. Cơ cấu tổ chức
2.1.4.1. Ban lãnh đạo Sở Nội vụ Hà Nội
Ban lãnh đạo Sở Nội vụ Hà Nội gồm có gồm có: 1 Giám đốc và 8 Phó
Giám đốc.

Giám đốc là người đứng đầu Sở, chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch
UBND Thành phố và chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của
Sở và thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Phó Giám đốc Sở là người giúp việc cho Giám đốc, đồng thời chỉ đạo một
số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở và trước pháp luật về
nhiệm vụ được phân công. Khi Giám đốc vắng mặt, một Phó Giám đốc được
Giám đốc ủy nhiệm điều hành các hoạt động của Sở;
Chủ tịch UBND Thành phố quyết định việc bổ nhiệm Giám đốc, Phó
Giám đốc Sở theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Nội vụ ban hành,
theo quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ và theo quy định của
pháp luật;
Việc miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, từ chức,
nghỉ hưu và thực hiện chế độ đối với Giám đốc và Phó Giám Đốc Sở do Chủ
tích Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định theo quy định của pháp luật.
2.1.4.2. Cơ cấu tổ chức chung
Sở Nội vụ Hà Nội có 7 phòng chuyên môn, nghiệp vụ; có 3 ban đơn vị
thuộc sở:
- Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở
23


+ Văn phòng Sở;
+ Thanh tra Sở;
+ Phòng xây dựng chính quyền;
+ Phòng Công chức – Viên chức;
+ Phòng Tổ chức, Biên chế;
+ Phòng Cải cách hành chính;
+ Phòng Tổ chức phi chính phủ và Công tác thanh niên;
- Các đơn vị trực thuộc Sở:
+ Ban Thi đua và Khen thưởng;

+ Ban Tôn giáo;
+ Chi cục Văn thư - Lưu trữ.
Việc khen thưởng, miễm nhiệm, kỷ luật Trưởng, Phó ban, Giám đốc, Phó
giám đốc Trung tâm, Trưởng phòng và các chức danh khác thực hiện theo pháp
luật quy định.
Sở Nội Vụ Hà Nội hoạt động theo nguyên tắc chỉ đạo từ trên xuống, cấp
dưới chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ được cấp trên giao, chịu toàn bộ
trách nhiệm thực hiện và báo cáo kết quả cho cấp trên quản lý trực tiếp hoặc do
ban lãnh đạo Sở yêu cầu.
Các Phó Giám đốc phối hợp thực hiện công viêc, chịu trách nhiệm trước
Giám Đốc và chịu trách nhiệm trước UBND Thành phố.
Đây là cơ cấu tổ chức nhân sự Sở Nội vụ Thành phố Hà Nội theo Nghị
định số 13/2008/NĐ-CP, hiện nay cơ cấu tổ chức đang hoạt động một cách
nhuần nhuyễn, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban, hiệu quả hoạt động
được thể hiện một cách rõ nét. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy vẫn đang được tiến
hành cải cách để ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
công việc cũng như yêu cầu của giai đoạn mới, giai đoạn mà nước ta đang đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.4.3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở Nội Vụ Thành phố Hà Nội (Phụ lục)
2.2. Tổng quan về Phòng Công chức, Viên chức
2.2.1. Vị trí và chức năng
24


Phòng Công chức, Viên chức là tổ chức trực thuộc Sở Nội vụ, giúp Giám
đốc Sở Nội vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp Thành phố thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về: Cán bộ, công chức, viên chức; cải cách chế độ công
vụ, công chức; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, công
chức cấp xã; chế độ tiền lương và các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức,
viên chức, lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự

nghiệp công lập.
Phòng Công chức, Viên chức chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế
và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn,
nghiệp vụ của Vụ Công chức, Viên chức Trung ương trực thuộc Bộ Nội vụ.
Phòng Công chức, Viên chức có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng, có trụ sở, biên chế, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp
theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn
- Giúp Giám đốc Sở Nội vụ thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Tham mưu, trình Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành chế dộ, chính
sách khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức của Thành phố học tập nâng
cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác;
+ Phối hợp với các cơ quan có liên quan thẩm định trình Ủy ban nhân dân
Thành phố quyết định việc bố trí, phân bổ kinh phí đối với hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Thành phố theo quy định.
+ Nghiên cứu xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý; tổ chức triển khai thực hiện quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức sau khi được
cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức; tổng hợp, báo cáo kết quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức hang năm gửi Bộ Nội vụ theo quy định.
+ Phối hợp với Thanh tra Sở tổng hợp báo cáo thường xuyên, đột xuất về
công tác phòng, chống tham nhũng liên quan đến lĩnh vực Nội vụ do phòng phụ
25


×