Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn huyện hương thủy, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.29 KB, 71 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế. Xu thế này đã buộc tất cả các quốc gia, dân tộc phải mở cửa hợp tác, giao lưu.
Sự phát triển nhanh của công nghiệp đã đẩy nhanh tốc độ, quy mô của quá trình đô thị
hóa. Trong những năm qua trên khắp các vùng, miền của đất nước nhiều khu công
nghiệp với quy mô khác nhau đã được xây dựng và đi vào hoạt động. Cùng với xu
hướng đó, quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia...cũng đang diễn ra rất nhanh ở
nước ta, không chỉ ở những thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh mà
đô thị hóa diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố khác trên phạm vi toàn quốc. Đây là xu
thế tất yếu trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước, tạo động lực cho sự phát
triển, thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH.
Việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị...sẽ song song với việc
thu hồi đất, bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp của một bộ phận dân cư, chủ yếu là
vùng ven đô có điều kiện thuận lợi, có tiềm năng phát triển.
Trong những năm trở lại đây, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, công
nghiệp phát triển mạnh mẽ làm cho bộ phận dân cư nông thôn bị thu hồi đất ngày càng
nhiều. Trong đó đáng lưu tâm là diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi tăng lên nhanh
chóng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến dân cư nông thôn quen sống và gắn bó với
nghề nông. Mất việc làm khi đất đai bị thu hồi buộc họ phải tìm kiếm việc làm mới để
duy trì và ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, không phải lao động nào cũng tìm được việc
làm mới dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, khó khăn trong việc chuyển đổi
ngành nghề...đã và đang diễn ra ở nhiều nơi.
Huyện Hương Thủy cách trung tâm thành phố Huế 12km về phía Đông Nam, có
khu công nghiệp Phú Bài, cảng hảng không quốc tế Phú Bài...và nhiều công trình khác
lần lượt được quy hoạch và xây dựng. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn
đến một lượng lớn diện tích đất nông nghiệp của huyện bị thu hồi. Người nông dân đối

1



mặt với khó khăn khi mất đi TLSX chủ yếu là đất đai. Việc làm và thu nhập chịu sự
tác động mạnh mẽ nhất đối với họ sau khi thu hồi đất. Xuất phát từ lý do trên trong đợt
thực tập tốt nghiệp này tôi đã chọn đề tài: “Tác động của việc thu hồi đất nông
nghiệp đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn huyện Hương Thủy, tỉnh
Thừa Thiên Huế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
* Mục tiêu nghiên cứu:
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa đến việc làm và thu nhập của người nông dân.
- Đánh giá được mức độ tác động của việc thu hồi đất đến việc làm và thu nhập
của người dân.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của
quá trình đô thị hóa đến vấn đề việc làm và thu nhập của người nông dân.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng lao động, việc làm và thu nhập của
lao động ở các nông hộ có ruộng đất bị thu hồi phục vụ cho quá trình đô thị hóa ở huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn phát triển từ năm 2005 đến năm 2010.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
* Phương pháp điều tra thu thập số liệu.
- Chọn điểm nghiên cứu: trên địa bàn huyện Hương Thủy để phù hợp với điều
kiện, đặc điểm nghiên cứu, tôi chọn 3 xã Thủy Dương, Thủy Phương và Thủy Vân nơi
có các dự án “xây dựng đường Tự Đức – Thuận An”, “xây dựng khu tái định cư”, “xây
dựng đường Thủy Dương - Thủy Phương”...thực hiện quá trình đô thị hóa của huyện
làm địa bàn nghiên cứu chính. Trên địa bàn 3 xã này tôi chọn các tổ có hộ gia đình đã
và đang tham gia sản xuất nông nghiệp để tiến hành điều tra.
- Thông tin có sẵn: được tham khảo và thu thập trên các sách, báo, tạp chí, niên
giám thống kê, các báo cáo tổng kết của địa phương, trên mạng internet, khóa luận....
- Tổ chức điều tra: để tiến hành điều tra tôi đã sử dụng phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên có phân loại. Cơ cấu mẫu điều tra được phân loại thành 3 nhóm theo diện

tích đất bị thu hồi: Nhóm I: thu hồi <50% diện tích; Nhóm II: thu hồi từ 50 – 70% diện

2


tích; Nhóm III: thu hồi 70 – 100% diện tích. Số đơn vị điều tra của mẫu trong mỗi
nhóm được tính theo công thức:
Số hộ trong mỗi nhóm = số hộ trong mỗi nhóm của tổng thể : tổng thể * mẫu điều tra.
- Phân tích và xử lý số liệu: sử dụng phương pháp thống kê mô tả, thống kê so
sánh. Số liệu được tổng hợp, xử lý và phân tích trên phần mềm Excel.
* Phương pháp thống kê, phân tích kinh tế
- Phương pháp thống kê mô tả: Từ các số liệu thu thập được, tiến hành xây dựng
bảng biểu để phân tích, đánh giá tác động của thu hồi đất nông nghiệp tới việc làm và
thu nhập của lao động nông thôn
- Phương pháp phân tổ: Là phương pháp cơ bản để tiến hành tổng hợp thống kê,
giúp hệ thống hoá các số liệu điều tra, từ đó tìm ra mối quan hệ lẫn nhau của rừng
yếu tố riêng biệt như: độ tuổi, trình độ văn hoá chuyên môn, cơ cấu ngành nghề,
giới tính… Do đó, phân tổ thống kê được sử dụng nhằm đánh giá được mức độ ảnh
hưởng của một số nhân tố cơ bản, nghiên cứu các nhân tố đó trong mối quan hệ với
việc làm và thu nhập của lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất phân tổ.
 Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo

3


PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ VIỆC LÀM
VÀ THU NHẬP CỦA NÔNG DÂN


1.1. Đô thị hóa và sự cần thiết phải thu hồi đất
1.1.1. Đô thị hóa
Trên quan điểm kinh tế quốc dân: “Đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố
lại lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất,
kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá trình tập trung, tăng cường,
phân hóa các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ dân số thành thị trong các
vùng, các quốc gia cũng như trên thế giới. Đồng thời, đô thị hóa cũng là quá trình
phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư”
Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tiến trình phát triển xã hội đã có sự
thay đổi cơ bản là: 1) phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn; 2) làm
thay đổi căn bản xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp. Cùng với quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa được coi như một khía cạnh quan trọng trong sự vận động đi lên
của xã hội. Đô thị hóa có 2 hình thức biểu hiện chủ yếu:
- Một là, đô thị hóa theo chiều rộng, trong đó quá trình đô thị hóa diễn ra tại các đô
thị trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô diện
tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới.
Đô thị hóa theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển
trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
- Hai là, đô thị hóa theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hóa nâng cao trình độ
của các đô thị hiện có. Đô thị hóa theo chiều sâu lá quá trình thường xuyên và là yêu
cầu tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản
lý đô thị, các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động, tận dụng
tối đa những tiềm năng sẵn có, hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hóa mọi
lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị.

4


1.1.2. Đặc điểm chủ yếu của quá trình đô thị hóa

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta cũng chính lá quá trình cơ
cấu lại nền kin tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệ và dịch vụ, cơ cấu lại công
việc, phân bố lại dân cư theo hướng tăng nhanh khối lượng dân cư sống ở khu vực thành
thị và giảm mạnh số lượng, tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn. Quá trình hình thành
các đô thị ở nước ta trong những năm gần đây có một số đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị lớn:
sự hình thành các trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những đô thị lớn là xu thế
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện của tính chuyên môn hóa
cao trong sản xuất, kinh doanh.
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các vùng ngoại ô: sự
hình thành các trung tâm của mỗi vùng là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu
của sản xuất, đời sống ngày càng tăng nhanh của chính vùng đó và là hạt nhân lan tỏa
sang các vùng khác. Đó cũng chính là biểu hiện của tính tập trung hóa trong các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động thương mại – dịch
vụ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy mô dân số của vùng đê đảm
bảo hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, các trung tâm này còn là điểm nối, sự chuyển tiếp
giữa các đô thị lớn làm cho tính hiệu quả của hệ thống đô thị được nâng cao. Trong quá
trình đô thị hóa, các trung tâm này sẽ trở thành những đô thị vệ tinh của các đô thị lớn.
- Mở rộng các đô thị hiện có: việc mở rộng các đô thị hiện có theo mô hình làn
sóng là xu thế tất yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở rộng có
thể thực hiện tương đối dễ dàng. Xu hướng này tạo sự ổn định và giải quyết vấn đề quá
tải cho đô thị hiện có.
- Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị: đây là xu hướng hiện đại trong quá
trình công nghiệp hóa nông thôn ở nước ta. Vấn đề cơ bản là tạo nguồn tài chính để
xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại.
- Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất: cả hai hình thức đô thị hóa đều dẫn đến sự
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. hình thức phát triển theo chiều rộng đưa đến tình trạng
thu hẹp đất canh tác nông nghiệp nhanh chóng. Một phần đất do nhà nước thu hồi để
xây dựng các công trình, một phần đất dân cư bán cho những người từ nơi khác tới ở,


5


làm cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hình thức phát triển theo chiều sâu cũng dẫn đến tình
trạng thay đổi mục đích sử dụng đất. Trong quá trình đô thị hóa, nhà nước chủ động
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: trong quá trình đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế trong
đô thị, trong vùng và cả nền kinh tế đều thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng trong khu
vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng khu vực CN-DV. Khi đô thị mở rộng ra vùng ngoại vi
nhằm giải quyết vấn đề quá tải dân số, hình thành các khu dân cư đô thị thì các hoạt
động thương mại, dịch vụ phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng khu
vực thương mại, dịch vụ.
- Thay đổi hình thái kiến trúc: hình thái kiến trúc đô thị được biểu hiện tập trung ở các
kiểu nhà ở. Kiểu nhà ở phản ánh trình độ văn hóa, mức sống, đặc điểm xã hội mỗi thời kỳ.
- Hình thành nhanh chóng kết cấu hạ tầng: quá trình đô thị hóa là quá trình hình
thành nhanh chóng kết cấu hạ tầng kỹ thuật bắt đầu bằng hệ thống giao thông, tiếp
theo đó là hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, trung tâm
thương mại, dịch vụ và cuối cùng là khu dân cư.
- Thay đổi lối sống: thay đổi tập quán sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm sống
là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa. Người dân sẽ nhanh chóng thích nghi và
biến đổi tập quán cho phù hợp với lối sống đô thị hiện đại.
- Thay đổi cơ cấu dân cư: cơ cấu dân cư theo tuổi, giới, theo tấng lớp xã hội, theo
nghề nghiệp cũng biến đổi trong quá trình đô thị hóa. Sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng rõ nét. Thu nhập của dân cư nói chung tăng lên nhưng tốc độ tăng của mỗi nhóm
xã hội, mỗi nghề nghiệp rất khác nhau. Cơ cấu giàu nghèo có quan hệ chặt chẽ với cơ
cấu nghề nghiệp, việc làm của người lao động.
1.1.3. Tầm quan trọng của việc thu hồi đất phục vụ cho quá trình đô thị hóa
Như đã nói ở trên, đô thị hóa là xu thế đã, đang và sẽ diễn ra ở các vùng trên khắp
cả nước. Đây là một hướng đi nhằm góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước, giúp nước
ta thoát khỏi tình tạng nghèo và lạc hậu. Lẽ dĩ nhiên quá trình đô thị hóa tất yếu dẫn

đến sự phân bố lại các nguồn lực trong đó có nguồn lực về đất đai. Một bộ phận đất
đai, trước hết là đất nông nghiệp được chuyển sang phục vụ cho việc xây dựng các khu
công nghiệp, khu chế xuất mở rộng các khu đô thị cũ và xây dựng các khu đô thị mới.

6


Xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và các công trình công cộng phục vụ lợi ích
quốc gia. Hiện nay, đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra đồng thời cả hai quá trình: đô thị hóa
theo chiều rộng và đô thị hóa theo chiều sâu. Từ nay cho đến năm 2020, khi nền kinh tế
nước ta cơ bản trở thành một nền kinh tế công nghiệp – đô thị hóa đã và dang tiếp tục diễn
ra với quy mô lớn theo chiều rộng. Đó là quá trình hình thành các trung tâm công nghiệp,
dịch vụ, các khu đô thị mới. Do vậy việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp,
khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là một tất yếu có vai trò quan trọng trong quá
trình CNH-HĐH và đô thị hóa. Tác động này thể hiện rõ ở những điểm sau:
-Thứ nhất, nhờ có đất thu hồi mới có thể xây dựng các khu công nghiệp, khu chế
xuất thu hút hàng trăm dự án đầu tư ở trong và ngoài nước.
- Thứ hai, việc thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất làm cho quá trình đô
thị hóa được đẩy mạnh.
- Thứ ba, tạo điều kiện nâng cấp và xây dựng mới được khá đồng bộ và tương đối hiện
đại hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và an ninh- quốc phòng.
- Thứ tư, việc hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị mới đã tạo điều kiện thu
hút đầu tư, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập tương đối khá,
giúp họ từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nguời dân.
- Thứ năm, việc thu hồi đất nông nghiệp có quy hoạch cụ thể, chính xác sẽ tạo điều
kiện thuận lợi để hoạt động công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển nhanh, mạnh và
nông nghiệp sẽ thuận lợi hơn khi sản xuất được cải thiện không còn manh mún, nhỏ lẻ.
Tóm lại, nếu CNH-HĐH và đô thị hóa là tất yếu khách quan đối với nước ta thì
việc thu hồi đất phục vụ CNH-HĐH và đô thị hóa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Vì
thế, muốn quá trình CNH-HĐH và đô thị hóa diễn ra thuận lợi và hiệu quả cần có

những biện pháp thu hồi đất đúng đắn đặc biệt là khi thu hồi đất sản xuất nông nghiệp.
1.2. Những tác động của quá trình đô thị hóa đối với nông thôn
1.2.1. Những tác động tiêu cực
- Sự phát triển nhanh chóng của các đô thị là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng
đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái khi tài
nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lượng khai thác và sử dụng

7


nước sạch tăng, ô nhiễm các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích cây
xanh và mặt nước, bùng nổ gia tăng cơ giới.
- Vấn đề phân tầng xã hội: phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo là một thực tế
đang diễn ra ở các đô thị. Trong lĩnh vực sản xuất, phân tầng xã hội được thể hiện
trong sự chênh lệch về thu nhập và thu lao. Trong lĩnh vực giáo dục là tình trạng thất
học, bỏ học của học sinh là con em của các gia đình nghèo.
- Vấn đề văn hóa xã hội và lối sống đô thị: đây là vấn đề hết sức nhức nhối hiện nay,
nhiều khía cạnh tốt đẹp của văn hóa truyền thống bị mai một, các tệ nạn xã hội gia tăng.
- Sự gia tăng dòng dân cư từ nông thôn ra đô thị cũng gây nên những áp lực đáng
kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội... gây khó khăn trong
công tác quản lý đô thị.
- Đối với nước ta, với 80% dân cư sống ở nông thôn và khoảng 60% lực lượng lao
động làm việc trong khu vực nông nghiệp khi đô thị hóa diễn ra, đất đai bị thu hồi thì
bộ phận dân cư thiếu việc làm và khó khăn trong chuyển đổi việc làm sẽ tăng lên
nhanh chóng. Thậm chí có một bộ phận dân cư phải chuyển đổi chỗ ở do đất ở bị thu
hồi và cuộc sống của họ sẽ bị xáo trộn.
Như vậy, những tác động tiêu cực của đô thị hóa trong nông thôn chủ yếu xuất
phát từ việc thu hồi đất nông nghiệp. Do vậy, nhiệm vụ cấp bách là phải có quy hoạch
cụ thể, các công tác sau quy hoạch như bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải quyết việc
làm cho lao động nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do quá trình đô thị hóa gây ra.

1.2.2. Những tác động tích cực
- Khi đô thị hóa theo chiều rộng thì diện tích và dân số đô thị không ngừng gia
tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động kinh tế đô thị không
ngừng được mở rộng. Sự hình thành các đô thị mới được tạo trên cơ sở phát triển các
khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ,ở vùng nông thôn và
ngoại ô là xu hướng tất yếu của sự phát triển, là nhân tố mở đường thúc đấy lực lượng
sản xuất phát triển.
- Đối với các vùng đô thị hóa theo chiều sâu thì mật độ dân số có thể tiếp tục
tăng cao, phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học

8


kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường, hiệu quả kinh tế- xã hội cũng ngày càng
được cải thiện và nâng cao.
- Đô thị sẽ là nơi cung cấp những cơ sở kỹ thuật để CNH-HĐH nông nghiệp
nông thôn như: thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa...xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội từng bước hình thành nông thôn hiện đại.
- Đô thị là thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển toàn diện nông – lâm – ngư nghiệp nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có
chất lượng đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến, của thị trường trong và ngoài nước.
- Đô thị còn là nơi tạo nguồn vốn, cung cấp vốn cho nông thôn. Mặc dù chính các
đô thị cũng đang thiếu vốn đầu tư cho sự phát triển của mình, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển, nhưng các đô thị tạo điều kiện thu nhập khá hơn nhiều so với nông thôn.
- Đô thị hóa nông thôn mạnh mẽ sẽ hạn chế được sự di chuyển lao động từ nông
thôn ra thành thị. Vì đô thị hóa bao gồm cả việc đưa công nghiệp về nông thôn qua các
xí nghiệp vừa và nhỏ, thu hút lao động nông thôn đồng thời xây dựng lối sống đô thị ở
vùng nông thôn. Và chính điều này sẽ tạo ra những đô thị sầm uất, thị trường được mở
rộng cả về quy mô lẫn phạm vi ảnh hưởng. Các đô thị với thị trường của nó sẽ gắn kết
sự phát triển các xí nghiệp nhỏ trên địa bàn huyện, nhất là các xí nghiệp chế biến các

mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống với dịch vụ tổng hợp và thương mại. Qua
đó, góp phần công nghiệp hóa nông thôn phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản
xuất hàng hóa, đa dạng hóa các ngành nghề và sản phẩm, tạo ra nhiều việc làm và tăng
thu nhập cho người nông dân.
Vậy có thể xem đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng
trưởng và phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế, lan
truyền tiến bộ công nghệ, văn hóa, xã hội. Sơ đồ sau biểu thị rõ hơn vai trò và tác động
tích cực của quá trình đô thị hóa:

9


Phát triển DTH

Phát triển và Phân bố Các ngành
CN mới

Tăng việc làm và DS
Trong vùng
Nâng cao trình độ của
LĐ CNo
Thu hút vốn đâu tư và sự
Phân bố của DNo mới

Tạo ra các ngoại ứng
Tới các hoạt động KT
Phát triển các ngành
SX
Đáp ứng nhu cầu

Đầu vào của CN

Cung cấp
kết
Cấu hạ tầng
Tốt hơn
cho
SX và đời
Sống

Tăng nguồn
Thu cho
Ngân sách

Mở rộng qui mô và PTr
Các ngành DV đáp ứng
Nhu cầu SX và đời sống

Nâng cao phúc lợi XH
Cho các vùng

Sơ đồ 1: Vai trò và tác động tích cực của quá trình đô thị hóa
1.3. Khái quát chung về lao động, việc làm và thu nhập của người lao động
1.3.1. Khái niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người thông qua các công cụ lao
động tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật chất cần
thiết cho nhu cầu của mình và xã hội.
Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất, là
quá trình con người sử dụng sức lao động hay năng lực lao động bao gồm toàn bộ thể
lực và trí lực của mình để phát động và đưa vào các tư liệu hoạt động lao động tạo ra

sản phẩm. Do vậy, trong quá trình lao động, sức lao động là yếu tố tích cực và hoạt
động nhiều nhất, bởi sức lao động là một trong những nguồn lực khởi đầu của quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hóa.
Lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người
đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm

10


việc. Trong đó lực lượng quan trọng nhất là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao
động gồm những người đủ 15-55 tuổi đối với nữ, đến 60 tuổi đối với nam đang có việc
làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Trên thực tế vẫn có một số
lao động, thường là lao động nông nghiệp mặc dù ngoài độ tuổi nhưng vẫn tham gia
lao động như thiếu niên từ 13-15 tuổi hay những người nữ trên 55 tuổi, nam trên 60
tuổi. Đây là nguồn lao động và được quy đổi theo tỷ lệ 3:1 với những người dưới độ
tuổi lao động, 2:1 với người trên độ tuổi lao động.
Dân số không hoạt động kinh tế, bao gồm toàn bộ số người từ 15 tuổi trở lên không
thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh tế
vì các lý do: đang đi học, đang làm công việc nội trợ cho bản thân hoặc gia đình, tàn tật
không có khả năng lao động, các lý do về sức khỏe, hoặc ở vào tình trạng khác.
1.3.2. Quan niệm về việc làm
Tùy theo tình trạng việc làm mà dân số hoạt động kinh tế được chia làm 2 loại:
người có việc làm và người thất nghiệp.
Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO), người có việc làm là người
đang làm việc trong các lĩnh vực ngành nghề, các dạng hoạt động có ích không bị pháp
luật nghiêm cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời góp
một phần cho xã hội.
Một định nghĩa khác cụ thể hơn thì người có việc làm là những người thuộc
nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra người đó:
- Đang làm việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền công

hoặc hiện vật.
- Đang làm công việc không được hưởng tiền lương hay lợi nhuận trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình.
- Đã có công việc trước đó song tại thời điểm điều tra tạm thời không làm việc và
sẽ làm việc trở lại sau thời gian tạm nghỉ.
Căn cứ vào thời gian làm việc và nhu cầu làm thêm mà người có việc làm được
chia thành 2 loại, người đủ việc làm và người thiếu việc làm.

11


- Người đủ việc làm bao gồm những người có thời gian làm việc trong tuần lễ
trước điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc số giờ
đó bằng hoặc lơn hơn số giờ quy định cho từng ngành nghề riêng biệt.
- Người thiếu việc làm bao gồm những người có thời gian làm việc trong tuần lễ
trước điều tra nhỏ hơn 40 giờ, hoặc số giờ làm việc nhỏ hơn quy định và có nhu cầu
làm thêm (trừ những người có thời gian làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm thêm mà
không tìm được việc)
Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có sức lao động nhưng
chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Hay thất
nghiệp là một tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc
nhưng chưa tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành.
1.3.3.. Khái niệm về thu nhập
Về bản chất, theo nghĩa rộng thu nhập gồm hai bộ phận hợp thành: thù lao cần
thiết (tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương...) và phần
có được từ thặng dư sản xuất (hoặc lợi nhuận). Tuy nhiên, ở phạm trù khác nhau (toàn
bộ nền kinh tế, ngành kinh tế, doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân), biểu hiện của thu
nhập có những đặc thù riêng biệt. Sau đây là một số khái niệm về thu nhập của lao động:
- Theo từ điển kinh tế thị trường thì “thu nhập cá nhân là tổng số thu nhập đạt được
từ các nguồn thu khác nhau của cá nhân trong thời gian nhất định, thu nhập cá nhân từ

nhiều nguồn khác nhau đều từ thu nhập quốc doanh”.
- Theo Robert.J.Gorden thì “thu nhập cá nhân là thu nhập mà các hộ gia đình nhận
được từ mọi người bao gồm các khoản làm ra và các khoản chuyển nhượng. Thu nhập
cá nhân khả dụng là thu nhập cá nhân trừ đi các khoản thuế cá nhân”. Tóm lại, thu
nhập của người lao động là số tiền mà họ nhận được từ các nguồn thu và họ được toàn
quyền sử dụng cho bản thân và cho gia đình”.

12


1.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá việc làm và thu nhập của lao động
Để đánh giá thực trạng việc làm và lao động, trong quá trình nghiên cứu tôi sử
dụng một số hệ thống chỉ tiêu sau:
1.3.4.1. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động là tỷ số giữa người thất nghiệp so với lực lượng lao
động. Tỷ lệ thất nghiệp lao động được tính theo công thức:
Tn = Tm / Llđ
Trong đó:
+ Tn: tỷ lệ thất nghiệp của lao động (%).
+ Tm: tổng số lao động thất nghiệp (người).
+ Llđ: lực lượng lao động
Tỷ lệ thất nghiệp là chỉ tiêu được sử dụng ở tất cả các nước thực hiện theo cơ chế thị
trường. Chỉ tiêu này phản ánh tình hình lao động, việc làm, vấn đề giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động ở mỗi quốc gia hay mỗi địa phưong. Nhưng thất nghiệp lại được
phân ra: thất nghiệp công khai, bán thất nghiệp hay thất nghiệp mùa vụ...vì vậy ngoài chỉ
tiêu trên, khóa luận còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất quỹ thời gian lao động trong năm.
1.3.4.2. Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian làm việc của lao động trong năm
Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian làm việc của lao động trong năm là tỷ số giữa
ngày – người có thể làm việc được trong năm (quỹ thời gian làm việc trong năm tính
bình quân cho một lao động).

Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian làm việc của lao động được tính theo công thức sau:
Tq = Nlv / Tlv
Trong đó:
Tq: tỷ suất sử dụng thời gian làm việc của lao động trong năm (%).
Nlv: số ngày đầu tư vào sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ tính bình quân cho
một lao động trong năm.
Tlv: quỹ thời gian làm việc trong năm của lao động (ngày).
Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian trong năm nói lên trình độ sử dụng lao động theo
ngày và qua đó thấy được tỷ lệ quỹ thời gian chưa sử dụng hết cần phải huy động
trong năm. Tất nhiên, ngày lao động được tính theo ngày chuẩn tức thời gian làm việc
phải đạt 8 giờ trong một ngày. Trường hợp chưa phải là ngày chuẩn thì phải tính tỷ

13


suất sử dụng lao động theo giờ để tính ra số ngày làm việc (theo ngày chuẩn) bình
quân của một lao động trong năm. Qua chỉ tiêu này sẽ thấy được tình hình và mức độ
việc làm, thấy được số ngày còn dôi ra chưa được sử dụng vào sản xuất, trên cơ sở đó
lập kế hoạch và biện pháp tạo thêm việc làm để người lao động có thể sử dụng tối đa
quỹ thời gian làm việc trong năm.
Quỹ thời gian làm việc của người lao động trong năm là số ngày trung bình mà
mỗi người lao động có thể dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ trong năm. Đó là
số ngày trong năm còn lại sau khi đã trừ đi số ngày nghỉ do đau ốm, giỗ tết, ma chay,
cưới xin, hội họp hoặc thời tiêt xấu (bão, lụt...) và những ngày nghỉ khác. Đối với lao
động nữ trong độ tuổi sinh đẻ còn có những ngày nghỉ do thai sản, sinh đẻ...ngoài ra
những người lao dộng phải dành một số thời gian vào các công việc khác cần thiêt cho
cuộc sống cũng như trong sản xuất: đi chợ, sửa chửa nhà, mua sắm vật tư...
Hiện nay, việc lấy quỹ thời gian làm việc bình quân của một lao động nông
nghiệp là bao nhiêu ngày chưa có sự thống nhất. Theo kết quả điều tra về việc làm và
thu nhập của các hộ ở nông thôn trong các năm 1988, 1990, 1993 của trung tâm dân số

và lao động (Bộ LĐTBXH) cho thấy bình quân một lao động có số ngày nghỉ có tính
chất bắt buộc nói trên thường chiếm từ 80 – 90 ngày trong một năm. Do vậy, có thể lấy
quỹ thời gian làm việc trong năm của lao động nông nghiệp khoản 285 ngày là phù hợp.
1.3.4.3. Thu nhập bình quân của một lao động trong năm
Thu nhập của một lao động nông thôn là một thu nhập của nông hộ. Do đó,
chúng ta phải xác định thu nhập của họ được tính theo công thức:
Thu từ

thu từ sản

thu từ

Thu nhập = tiền lương + xuất nông, + sản xuất kinh
tiền công

lâm, ngư

doanh Nn – Dv

thu từ các khoản
+

thu khác được tính
vào thu nhập

Trong đó:
- Thu từ tiền lương bao gồm:
+ Tiền lương, tiền công ( không kể BHXH).
+ Phụ cấp làm thêm giờ , ăn trưa, nghỉ trưa, ăn giữa ca, phụ cấp.
+ Phụ cấp độc hại.

+ Thưởng và các khoản khác.
+ Các khoản trợ cấp.

14


- Thu nhập từ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
Thu nhập từ

Tổng thu từ

sản xuất nông,

=

lâm, ngư nghiệp

-

sản xuất nông,

ngư nghiệp

Chi phí sản xuất
nông, lâm,

nông, lâm,

Chi phí


Chi phí
=

ngư nghiệp

vật
chất

lâm, ngư nghiệp

chi phí
+

dịch

các khoản
+

chi

vụ

các khoản
+

khác

đã
nộp


- Thu nhập từ sản xuất kinh doanh nghề dịch vụ
Thu nhập từ
sản xuất kinh
doanh Nn-Dv

tổng thu từ các
=

hoạt động sản xuất

chi phí sản xuất
-

kinh doanh Nn-Dv

kinh doanh ngành nghề
dịch vụ và thuế phí

- Các khoản thu được tính vào thu nhập nông nghiệp:
+ Giá trị hiện vật và tiền của người gửi về cho,biếu, mừng, giúp.
+ Lương, hưu, trợ cấp mất sức, trợ cấp mất việc một lần.
1.4. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động sau thu hồi đất
1.4.1. Ở Việt Nam
Như đã nói ở trên, công nghiệp hóa và cùng với nó là đô thị hóa đã trở thành xu thế
chung cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Điều này cũng có nghĩa là đô thị hóa
càng phát triển thì quỹ đất của xã hội giành cho nông nghiệp có xu hướng giảm. Đất đai
cũng như các nguồn lực khác, không có nó thì không thể tiến hành sản xuất đối với bất cứ
ngành kinh tế nào đặc biệt là trong nông nghiệp. Đất đai lại không giống các nguồn lực
khác ở chỗ nó là sản phẩm của tự nhiên, có giới hạn và không thể thay thế được. Trong
những năm qua, việc thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng trên khắp cả nước cũng

như ở các thành phố trọng điểm ngày một tăng cao. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến việc làm và thu nhậo của người dân trước kia luôn gắn bó với nghề nông.
Thực trạng việc làm, mỗi năm cả nước có khoảng 100.000 ha đất nông nghiệp
đô thị hóa trở thành các khu công nghiệp, nhà ở và công trình công cộng. Chỉ tính
riêng trong 5 năm (2001-2005) nhà nước đã thu hồi 366,44 nghìn ha đất nông nghiệp
phục vụ cho công nghiệp hóa, đô thị hóa (chiếm 3,89% đất nông nghiệp đang sử

15


dụng), thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy việc thu hồi đất
nông nghiệp trong 5 năm qua đã tác động đến đời sống của trên 627.000 hộ gia đình
với khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu người.
Mặc dù quá trình thu hồi đất, các địa phương đã ban hành nhiều chính sách cụ
thể đối với người dân bị thu hồi đất về các vấn đề như bồi thường, hỗ trợ giải quyết
việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư... Tuy nhiên, trên thực tế có tới
67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ sau khu bị thu hồi đất, 13%
chuyển sang nghề mới và khoảng 20% không có việc làm hoặc có việc làm nhưng
không ổn định. Thực trạng này cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả 53% số hộ dân bị
thu hồi đất có thu nhập giảm so với trước đây, chỉ có khoảng 13% số hộ có thu nhập
tăng hơn trước. Tình hình chung ở những vùng sau khi bị thu hồi đất, là:
- Từ nhiều năm nay, người nông dân chỉ quen với sản xuất nông nghiệp, nên
sau khi thu hồi, không có đất canh tác, họ trở thành thất nghiệp hoặc thiếu việc làm;
Một số tuy tìm được việc làm nhưng thu nhập thấp, đời sống rất khó khăn. Nhiều hộ
nông dân nhận tiền đền bù do không có nghề nên đã sử dụng không hợp lý, chủ yếu là
xây nhà mua sắm đồ dùng sinh hoạt, rất hạn chế đầu tư tạo việc làm bằng một nghề
mới phi nông nghiệp hay đầu tư giáo dục con em, cho nên chỉ sau một, đến hai năm bị
thu hồi đất, nông dân bị rơi vào “bần cùng hoá tương đối" dẫn đến các tệ nạn xã hội,
trộm cắp, mại dâm, cờ bạc, nghiện hút…
- Người lao động mất đất sản xuất, thiếu việc làm dẫn đến di dân tự do, không

có tổ chức từ nông thôn ra thành thị ở chính địa phương, cũng như đến các thành phố
lớn tìm việc làm. Trong khi đó các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp trên địa bàn
lại yêu cầu lao động có nghề, đặt ra các tiêu chí tuyển dụng lao động quá cao so với
năng lực, tay nghề, sở trường của lao động địa phương. Thêm vào đó, lao động ở
những vùng bị thu hồi đất mang nặng dấu ấn của người sản xuất nhỏ, không có tác
phong công nghiệp, ý thức kỷ luật kém, nên các khu công nghiệp không thể tuyển hết
số lao động địa phương, dẫn đến tình trạng một bộ phân không nhỏ không có việc làm
sau khi đất sản xuất bị thu hồi.
Tuy nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị hóa cũng
đã có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống của người dân nói riêng và toàn xã hội

16


nói chung. Cần phải thấy rằng, việc thu hồi đất thời gian qua đã góp phần rất lớn vào
việc phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta đã xây dựng được hàng
trăm khu công nghiệp, đã thu hút được hàng chục ngàn dự án đầu tư của các nhà đầu
tư ở trong và ngoài nước. Cơ cấu của nền kinh tế nước nhà nhờ đó đã chuyển dần theo
hướng tiến bộ, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong toàn bộ GDP của đất nước
giảm nhanh, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng ngày càng hợp lý. Trình
độ công nghệ của các ngành sản xuất được cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội được nâng cấp, được xây mới ngày càng nhiều, càng hiện đại và đồng bộ. Các đô
thị được mở mang, được xây dựng mới ngày càng nhiều, to đẹp hơn, hiện đại hơn.
Hàng triệu lao động được giải quyết việc làm với thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Đó là
những thành tựu rõ ràng. Thu hồi đất, giải quyết việc làm cho người lao động có tác
động tích cực đối với việc chuyển đổi ngành nghề trong nền kinh tế. Điều này góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nước ta.
Tóm lại, quá trình đô thị hóa ở nước ta trong những năm gần đây đã diễn ra rất
nhanh và còn nhanh hơn nữa trong tương lai, thu hồi đất phục vụ cho đô thị hóa ngày
càng lớn. Do vậy cần thiết phải đảm bảo phát triển bền vững của nông nghiệp nông

thôn trong tiến trình đô thị hóa ở nước ta.
1.4.2. Ở các nước trên thế giới
* Kinh nghiệm của Trung Quốc
- Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút lao động: các chính sách
khuyến khích phát triển các xí nghiệp địa phương đã làm cho công cuộc cải cách và
mở cửa của Trung Quốc diễn ra sâu rộng hơn. Các doanh nghiệp địa phương đóng vai
trò chính trong việc thu hút lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn trong quá trình đô
thị hóa. Chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước cùng với sự đầu tư của kinh tế
tư nhân vào khu vực phi nông nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
địa phương. Trong những năm đầu đã có đến 20% tổng thu nhập của người dân nông
thôn là từ các doanh nghiệp địa phương. Ở những vùng phát triển, tỷ lệ này lên tới trên
50%. Công nghiệp địa phương có tốc độ tăng trưởng rất cao.
- Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư vào các
thành phố lớn: Trung Quốc cho rằng có hai cách để chuyển đổi lao động dư thừa trong

17


nông thôn: cách thứ nhất là chuyển họ sang các ngành công nghiệp, dịch vụ ở các vùng
nông thôn; cách thứ hai là chuyển họ đến thành phố. Các chính sách đúng đắn trong
việc thúc đẩy hình thành các khu đô thị quy mô nhỏ đã gặt hái được những thành công
đáng khích lệ. Theo các nhà kinh tế Trung Quốc, lợi thế của việc phát triển các đô thị
nhỏ là: các đô thị này dân số ít, nhiều ngành công nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao
động; những đô thị này nằm giữa thành phố và nông thôn sẽ đem lại cho nó những đặc
trưng về lối sống ở cả hai khu vực nên người nông dân sẽ dễ dàng định cư ở đây hơn;
ở các đô thị nhỏ người nông dân sẽ dễ dàng hơn trong việc kinh doanh do điều kiện
cạnh tranh thấp và yêu cầu về vốn nhỏ. Chính vì vậy chính phủ Trung Quốc đã tạo
điều kiện để hình thành hơn 19.000 đô thị nhỏ. Trong những năm 1990, các đô thị nhỏ
đã thu hút trên 30 triệu lao động nông nghiệp dư thừa, chiếm hơn 30% tổng số lao
động nông thôn dư thừa.

* Kinh nghiệm của Nhật Bản
Quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản cũng bắt đầu bằng thời gian dài tăng
trưởng trong nông nghiệp. Nhật Bản luôn là nước bị giới hạn bởi tài nguyên đất đai ít
và dân số đông, diện tích canh tác bình quân của một hộ nông dân khoảng 0.8ha. Nhật
Bản thực hiện chính sách đưa công nghiệp về nông thôn. Chính điều này đã làm cho
cơ cấu nông thôn thay đổi, các ngành phi nông nghiệp đã đóng góp ngày càng tăng vào
thu nhập của người dân nông thôn (năm 1950 tỷ lệ này là 29% đã tăng lên 85% năm
1990). Việc chú trọng phát triển công ngiệp thu hút nhiều lao động trong giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hóa đã cơ bản giải quyết được vấn đề việc làm cho lao động
nông nghiệp, mặc dù diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng giảm.
Chính phủ Nhật Bản đã thành lập mạng thông tin việc làm trên khắp đất nước
với mục đích cung cấp đầy đủ các thông tin về việc làm từ các tổ chức, doanh nghiệp
qua internet đến những người đang tìm việc, giúp họ có những lựa chọn phù hợp với
năng lực, điều kiện của mình. Chính phủ cũng bồi dưỡng những công nhân có tay nghề
cao qua việc hỗ trợ tài chính, tạo cơ hội phát triển năng lực, nâng cao chất lượng các tổ
chức giáo dục-đào tạo. Hoạt động giải quyết việc làm cho người cao tuổi cũng được
chú trọng để xóa bỏ những bất cân đối về việc làm do tuổi tác gây ra. Các loại hình
tuyển dụng và thuê mướn cũng được đa dạng hóa, coi trọng các công việc làm thêm

18


không chính thức như làm bán thời gian, tạm thời hoặc bất thường. Chế độ tuyển dụng
thay đổi theo khu vực, không tập trung chủ yếu tại các đô thị lớn như trước kia mà
chuyển sang các khu vực lân cận và địa phương.
Từ chính sách của Nhật Bản trong quá trình đô thị hóa có thể rút ra một số bài học
kinh nghiệm sau:
- Không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trên cơ sở nhu
cầu lao động của xã hội.
- Phát triển mạnh mẽ những ngành nghề ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học-kỹ thuật

và những ngành sử dụng nhiều lao động.
- Phát triển hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động.
- Thực hiện cải cách chế độ tiền lương, thu nhập của người lao động.
1.5. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN HƯƠNG THỦY
1.5.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Huyện Hương Thủy là một huyện nằm ở phía Đông Nam cách trung tâm thành
phố Huế khoảng 12km . Phía Bắc giáp thành phố Huế , phía Nam giáp huyện Phú Lộc ,
phía đông nam giáp huyện Phú Vang , phía Tây giáp huyện Nam Đông . Với vị trí địa lý
như vậy đã tạo nên những điều kiện rất thuận lợi cho Huyện Hương Thủy trong việc thu
hút đầu tư phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, tạo nên tiềm năng phát
triển sản xuất nông nghiệp – nông thôn nói riêng và kinh tế của huyện nói chung .
* Địa hình
Địa hình của huyện thấp dần từ Tây sang Đông, được chia thành 2 vùng với đặc
điểm khác biệt:
- Vùng đồi núi : Chiếm phần lớn diên tích tự nhiên của huyện (khoảng 76,33%),
nằm trên phía Tây Nam quốc lộ 1A, bao gồm 3 xã: Dương Hòa, Phú Sơn, Thủy Bằng
và một phần các xã Thủy Phương, Thủy Dương, Thủy Châu, Thủy Phù. Vùng này
gồm những dải đồi với độ cao trung bình 400-500m, đặc biệt có động Mang Chan ở
phía Tây Nam của huyện với độ cao trung bình 861m. Địa hình thuận lợi cho việc
trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, phát triển công nghiệp, dịch vụ và du lịch.

19


- Vùng đồng bằng: Chiếm 23,67% diện tích tự nhiên của huyện, nằm về phía Đông
Bắc của quốc lộ 1A, bao gồm các xã Thủy Vân, Thủy Thanh, Thủy Lương, Thủy
Châu, Thủy Phù. Vùng này có địa hình thấp dần theo hướng Đông Nam, độ cao trung
bình từ 2-5m so với mặt nước biển.
* Khí hậu, thủy văn

Có thể nói, khí hậu của 3 xã nói riêng và của huyện Hương Thủy có nền nhiệt độ
cao, lượng mưa lớn thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng.
Tuy nhiên, mưa tập trung, cường độ lớn gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
- Nhiệt độ trung bình năm 25-270C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất khoảng
13,70C vào tháng 12, tháng nóng nhất là tháng 7 khoảng 38,50C.
- Lượng mưa trung bình hằng năm của huyện là 2.844mm tuy nhiên phân bố
không đều. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau kèm theo mưa
lạnh, gió mùa Đông Bắc, chiếm khoảng 85% lượng mưa cả năm, tám tháng còn lại chỉ
chiếm 25% lượng mưa cả năm.
Chế độ thủy văn của huyện chịu ảnh hưởng của các sông: Sông Hương, Lợi Nông,
Đại Giang, Như Ý...và các hồ: Châu Sơn, Phú Bài, Ba Cửa...ảnh hưởng trực tiếp đến
nước tưới cho một phần đất nông nghiệp của huyện. Hiện hồ Tả Trạch được xây dựng
để ngăn lũ; chủ động tưới tiêu và tạo ra cảnh quan để phát triển du lịch, dịch vụ.
1.5.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Huyện Hương Thủy là một trong những huyện của tỉnh Thừa Thiên Huế có tốc
độ phát triển khá nhanh, huyện đã có những bước phát triển mạnh về cả kinh tế, cơ sở
hạ tầng cũng như đời sống vật chất của người dân. Để thấy rõ tình hình kinh tế của
huyện ta xem xét bảng sau:
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tổng giá trị sản xuất của huyện tăng qua 3 năm, năm
2007, tổng giá trị sản xuất đạt 2.635.367 triệu đồng đến năm 2008 tăng lên 3.439.412 triệu
đồng (tức tăng 30,51% so với năm 2007) và tăng lên 4.638.214 triệu đồng năm 2009 (tức
tăng 1.198.802 triệu đồng tương ứng với mức tăng 34,85% so với năm 2008).

20


Bảng 1: Tình hình kinh tế huyện Hương Thủy qua 3 năm 2007 – 2009
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu


2007

2008

2009

2008/2007
%

+/-

%

30,51

1.198.802

34,85

65.050

31,18

81.212

29,68

CN – TTCN


1.367.989 1.713.681 2.256.835 345.629

25,27

543.154

31,69

TM - DV

1.058.765 1.452.068 2.026.504 393.303

37,15

574.436

39,56

Tổng giá trị sản xuất (GO)
Nông nghiệp

+/-

2009/2008

2.635.367 3.439.412 4.638.214 804.405
208.613

273.663


354.875

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Hương Thủy)

21


* Về nông nghiệp
Giá trị sản xuất mà ngành nông nghiệp đóng góp trong tổng giá trị sản xuất của
toàn huyện liên tục tăng qua các năm. Năm 2007 là 208.613 triệu đồng đến năm 2009
đã tăng lên 354.875 triệu đồng. Có được những kết quả như vậy là do:
- Huyện đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác giống, thủy lợi, chăm sóc, phòng trừ
sâu bệnh,...nhờ đó, tuy thời tiết diễn biến bất thường ảnh hưởng cho sản xuất, nhưng
tổng diện tích gieo trồng cả năm vẫn đạt là 7.997,35 ha, trong đó: lúa 6.443,1 ha, ngô
35 ha, sắn 305 ha, lạc 57 ha, khoai lang 285 ha, rau đậu các loại 696,35 ha, mè 60 ha,...
Cả 2 vụ lúa đều được mùa, năng suất bình quân toàn huyện đạt 59,22 tạ/ha/vụ (vụ
Đông - Xuân là 61,47 tạ/ha, vụ Hè - Thu là 56,9 tạ/ha), tổng sản lượng lương thực có
hạt 38.392,4 tấn (trong đó: lúa 38.148,4 tấn).
- Công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được chú trọng triển khai
thực hiện tốt, không để dịch bệnh nguy hiểm xảy ra. Tổng đàn trâu có 3.178 con; đàn
bò có 2.507 con; lợn: 32.111 con; gia cầm: 278.251 con.
- Diện tích nuôi cá nước ngọt thực hiện là 527 ha, nuôi cá lồng có 140 lồng; sản
lượng thu hoạch ước thực hiện 1.416 tấn. Sản lượng đánh bắt tự nhiên ước cả năm 92 tấn.
- Về lâm nghiệp, trồng mới được 420 ha rừng và 14,5 vạn cây phân tán. Hoạt
động của các HTX nông nghiệp có chuyển biến và hiệu quả hơn, một số HTX có cố
gắng mở rộng các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh tế hộ xã viên.
* Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Sản xuất CN - TTCN trên địa bàn cơ bản được duy trì và có những mặt phát triển
khá cả trong và ngoài Khu công nghiệp tỉnh và Cụm CN-TTCN huyện. Một số ngành
nghề TTCN truyền thống như: hàn gò, mộc, chổi đót, tăm hương,... được khuyến

khích, hỗ trợ để duy trì sản xuất. Ngoài ra, đã phối hợp với một số ngành cấp tỉnh triển
khai thực hiện tốt vốn khuyến công do Tỉnh hỗ trợ, chủ yếu là đào tạo nghề; hỗ trợ lãi
suất cho doanh nghiệp nâng cấp trang bị máy móc.
* Về thương mại – dịch vụ
Mạng lưới dịch vụ trên địa bàn huyện tiếp tục phát triển, góp phần tích cực vào
việc phát triển KT-XH, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là về dịch vụ thương mại;

22


nhà hàng, nhà nghỉ; vận tải; bưu chính, viễn thông... Chất lượng các loại hình dịch vụ
cũng được quan tâm hơn, nhiều cơ sở kinh doanh được đầu tư nâng cấp mở rộng. Một
số tổ chức trong và ngoài tỉnh đã và đang tiến hành xây dựng hoặc nghiên cứu khảo sát
đầu tư xây dựng cơ sở kinh doanh, dịch vụ như: khu du lịch sinh thái ở hồ Ba Cửa, hồ
Bầu Họ, đồi và hồ Châu Sơn; Trung tâm Thương mại, chợ Phú Bài...
* Về dân số và lao động
Cùng với sự phát triển về kinh tế, hạ tầng vấn đề dân số cũng được quan tâm.
Tính đến năm 2008, huyện Hương Thủy có 22.185 hộ với 96.525 nhân khẩu, mật độ
dân số 211 người/ km2. Tổng số lao động hiện có là 53.918 người chiếm 55,86% tổng
dân số. Trong đó số lao động đang có việc làm 44.427 người chiếm 82,40%, số người
trong độ tuổi lao động đang đi học và không có việc làm chiếm 17,60%. Như vậy,
trong những năm gần đây với tốc độ phát triển đô thị một phần diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi làm thay đổi cơ cấu lao động của huyện. Tuy chính quyền địa
phương đã có những chính sách nhằm giải quyết việc làm cho nhân dân cùng với
những giải pháp cụ thể nhưng một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn đang không có việc
làm. Thực trạng này đòi hỏi những cố gắng hơn nữa từ các cấp chính quyền cũng như
người dân nhằm giải quyết việc làm nâng cao đời sống cho người dân.
- Đã giải quyết việc làm cho 3.828 lao động, xuất khẩu lao động là 499 lao động,
chủ yếu là làm việc tại Lào. Tiến hành khảo sát lập kế hoạch đào tạo nghề cho các đối
tượng có nhu cầu học nghề như: trồng hoa, chăn nuôi thú y, may công nghiệp,…

Trong năm, đã tổ chức đào tạo nghề là 1.088 người; tiến hành điều tra nhu cầu sử dụng
lao động và việc làm tại 16 doanh nghiệp trên địa bàn huyện; có 167 hộ vay vốn giải
quyết việc làm hơn 2,2 tỷ đồng.
* Nhận xét chung
Với điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội của huyện Hương Thủy hiện nay có những thuận
lợi và khó khăn sau:
 Thuận lợi
- Hương Thủy nằm gần thành phố Huế là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hóa lớn, có hệ thống giao thông tương đối tốt và ngày càng hoàn thiện. Các yếu tố
đó đã cho phép mở rộng và tiếp cận thị trường khá thuận lợi.

23


- Bên cạnh đó, huyện nằm trên các trục đô thị Huế - Khu công nghiệp Phú Bài –
Lăng Cô – Đà Nẵng, do đó có điều kiện để phát triển kinh tế.
- Điều kiện tự nhiên, khí hậu, tài nguyên cho phép huyện có thể phát triển trên
nhiều lĩnh vực.
- Kinh tế của huyện tăng trưởng không ngừng trong những năm qua, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng, phù hợp với xu hướng đô thị hóa – công nghiệp
hóa – hiện đại hóa.
- Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật ngày càng được nâng cao, hệ thống giao thông
thuận lợi là yếu tố hết sức quan trong giúp đẩy nhanh quá trinh đô thị hóa- công nghiệp
hóa của địa phương.
- Được sự quan tâm đầu tư của các cấp, sự giúp đỡ và chỉ đạo đúng đắn, kịp thời
của địa phương, của các ban ngành và sự nổ lực phấn đấu của cán bộ và nhân dân trên
toàn huyện.
 Khó khăn
- Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa có tính thu hút mạnh, chưa có
tính du nhập vào các ngành nghề mới vào địa phương, thương mại và dịch vụ phát

triển chưa rộng, tư tưởng của tiểu thương còn dè chừng, chưa mạnh dạn đầu tư, sản
phẩm nông nghiệp chưa mang tính hàng hóa, không tập trung.
- Huyện chỉ mới phát triển trong những năm gần đây nên kinh tế còn chậm phát
triển và chủ yếu phát triển ở những khu vực trung tâm.
- Quy mô về dân số chưa cao, lao động đã qua đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của đô thị hiện nay.

24


CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐẾN
VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP CỦA LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN HUYỆN HƯƠNG THỦY

2.1. Khái quát chung về vấn đề thu hồi đất và việc làm của người dân huyện
Hương Thủy
2.1.1. Tình hình đất đai của huyện
2.1.1.1. Tình hình sử dụng đất của huyện Hương Thủy
Huyện Hương Thủy có tổng diện tích đất tự nhiên là 45.815,5 ha. Đất đang sử
dụng là 36.470,6 ha chiếm 79,60% tổng diện tích đất tự nhiên.
Trong tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp là 4.995,5 ha (năm
2008) chiếm 10,9%; đất lâm nghiệp là 24.294,9 ha chiếm 53,03%; đất chuyên dùng
5.377 ha chiếm 11,74%; đất khu dân cư 1.082,7 ha chiếm 3,93%; đất chưa sử dụng
9.346,9 ha chiếm 20,02%.
Nhìn vào bảng ta có thể thấy, diện tích đất nông nghiệp của huyện giảm qua 3 năm,
năm 2006 là 5.517,7 ha chiếm 12,04% tổng diện tích đất tự nhiên thì đến năm 2008
giảm xuống còn 4.995,5 ha (chiếm 10,9% tổng diện tích đất tự nhiên). Diện tích đất
nông nghiệp giảm do huyện đã chuyển đổi mục đích sử dụng từ nông nghiệp sang phi
nông nghiệp phục vụ cho quá trình CNH – HĐH và đô thị hóa trên địa bàn toàn huyện.
Trong cơ cấu diện tích đất ở bảng trên ta thấy diện tích đất phi nông nghiệp có xu

hướng tăng theo các năm. Năm 2006 là 6.124,6 ha chiếm 13,37% đến năm 2008 là
7.180,2 ha chiếm 15,76% như vậy qua 3 năm diện tích đất này đã tăng lên 1.055,6 ha.
Diện tích đất phi nông nghiệp của huyện tăng trong giai đoạn 2006 – 2008 do đây là
giai đoạn cao điểm thực hiện các dự án mà trước đó huyện tiến hành quy hoạch để xây
dựng đô thị và các công trình công cộng. Đất chuyên dùng là loại đất có diện tích tăng
cao trong cơ cấu đất phi nông nghiệp. Năm 2006 là 4.598,8 ha đến năm 2008 là
5.377,5 ha tăng lên 778,7 ha. Hầu hết diện tích đất chuyên dùng tăng chủ yếu phục vụ
cho nhu cầu xây dựng cơ bản, hạ tầng kinh tế - xã hội như trường học, trạm y tế, các
khu vực sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, cũng như việc mở rộng công trình
đường giao thông...

25


×