Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nghiên cứu hành vi lệch chuẩn của hs THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.88 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BỘ MÔN: HÀNH VI CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI

BÀI TIỂU LUẬN
NGHIÊN CỨU HÀNH VI LỆCH CHUẨN CỦA HỌC SINH THCS

Hà Nội, tháng 12/2017


MỤC LỤC


I.

MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự

phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và nhịp sống sôi động của thời kỳ mở
cửa đang ảnh hưởng tới mỗi người trong xã hội. Sự chuyển biến và phát triển của thời
đại đã đặt ra nhiều thách thức cho xã hội, đặc biệt là công tác giáo dục thế hệ trẻ, đó là:
“Làm thế nào để hình thành nhân cách ở thế hệ trẻ đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của
xã hội”. Đó là vấn đề tưởng chừng như đơn giản, nhưng thực tế không dễ thực hiện
một cách hoàn chỉnh. Song song với việc mang đến những điều kiện cho con người
học tập và phát triển thì xã hội hiện đại cũng mang đến cho con người nhiều áp lực, và
cả những cám dỗ mà bản thân họ không đủ khả năng từ chối, từ đó dễ làm cho con
người rơi vào trạng thái căng thẳng, lo âu, và có những hành vi không phù hợp với
chuẩn mực của xã hội.


Tuổi thiếu niên được xác định vào khoảng từ 12 đến 15 tuổi, tương ứng với
những năm học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường Trung học Cơ sở. Theo các nhà Tâm lý học
thì giai đoạn này là giai đoạn quá độ, chuyển từ trẻ em sang người lớn: “Trong thiếu
niên tồn tại song song cả tính trẻ con và tính người lớn”, đây là giai đoạn đặc biệt
trong cuộc sống của các em vì xảy ra đồng thời một loạt những biến đổi về sinh lý,
tâm lý. Đặc điểm nổi bật ở giai đoạn này là ý thức và tự ý thức của các em bắt đầu phát
triển, tính tích cực xã hội cũng tăng lên. Trong bản thân mỗi em đều xuất hiện một cảm
giác mới lạ, đó là cảm giác mình đã trở thành người lớn. Nguyện vọng độc lập của các
em phát triển mạnh. Các em muốn người khác nhìn nhận mình như là một người lớn,
muốn được bình đẳng trong quan hệ với người lớn, muốn được độc lập trong việc lĩnh
hội tri thức, kinh nghiệm, chuẩn mực đạo đức xã hội và phương thức hành vi. Tuy
nhiên nguyện vọng của các em thường mâu thuẫn với chính khả năng thực tế, mâu
thuẫn với quan điểm chưa thay đổi của người lớn về các em. Chính vì những mâu
thuẫn đó dẫn đến quan hệ giữa các em với người lớn dễ xảy ra căng thẳng. Nếu người
lớn cư xử không phù hợp thì mối quan hệ giữa các em và người lớn sẽ trở nên căng
thẳng, các em thể hiện sự chống đối với những yêu cầu của người lớn. Những yêu cầu
của cha mẹ, nhà trường, xã hội và thậm chí những yêu cầu của chính bản thân có thể
gây ra những áp lực đối với các em. Chính những yêu cầu đó lại là những nguyên nhân


gây ra trạnh thái căng thẳng, bất an và hành vi lệch chuẩn ở thiếu niên.
Chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ cần thiết và quan trọng hàng đầu “vì
trẻ em là tương lai của đất nước”. Nhiệm vụ này đã được Đảng và Bác Hồ xác định.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội, nhiệm vụ đó được cụ thể hoá cho
phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh xã hội. Lứa tuổi thiếu niên, là thời kỳ phát triển vô
cùng phức tạp, nhiều mâu thuẫn và cũng là giai đoạn nảy sinh nhiều hành vi lệch chuẩn
nhất so với các lứa tuổi khác vì đây là giai đoạn đang xảy ra những chuyển biến mạnh
mẽ về thể chất, tâm lý, xã hội. Tuy nhiên, nếu được người lớn, đặc biệt là cha mẹ và
giáo viên có những hiểu biết về đặc điểm phát triển tâm sinh lý của các em và có những
biện pháp giáo dục, cư xử phù hợp thì những khó khăn, căng thẳng của các em sẽ qua

đi một cách nhanh chóng. Ngược lại, sự thiếu hiểu biết kết hợp với cách giáo dục, cư xử
không khoa học của người lớn thường dẫn đến những hành vi chống đối của thiếu niên.
Có thể nhận định bước đầu là tỷ lệ hành vi lệch chuẩn nói chung và hành vi lệch
chuẩn xã hội nói riêng ngày càng có chiều hướng gia tăng. Hành vi lệch chuẩn xã hội
của thiếu niên ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ cũng như ảnh hưởng đến
hiệu quả và chất lượng giáo dục. Vì vậy, cần phải có biện pháp phát hiện, điều chỉnh
hành vi lệch chuẩn xã hội cho trẻ. Trên cơ sở đó, đề tài: “Nghiên cứu hành vi lệch
chuẩn ở học sinh THCS” được tiến hành nghiên cứu.
2.
này.

Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng hành vi và đề xuất một số giải pháp để giải quyết vấn đề


II.
1.

NỘI DUNG
Cơ sở lý luận

1.1. Khái niệm hành vi
Ở góc độ sinh học, hành vi là cách sống và hoạt động trong một môi trường
nhất định dựa trên sự cần thiết thích nghi tối thiểu của cơ thể đối với môi trường.
Chuẩn mực đánh giá hành vi chính là mức độ thích nghi của cơ thể với môi trường.
Hành vi nào phù hợp với môi trường bảo đảm sự chắc chắn của cơ thể có thể
coi là hành vi hợp chuẩn. Hành vi nào làm cho cơ thể không thích nghi được với môi
trường có thể coi là hành vi lệch chuẩn.
Ở góc độ ngôn ngữ học, theo Hoàng Phê, người ta hiểu hành vi là toàn bộ
những phản ứng, cách ứng xử ra bên ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ

thể nhất định.
Thuật ngữ hành vi thường được sử dụng trong các trường hợp nói về những
hành động ghi nhận quan sát của con người trong từng hoàn cảnh cụ thể và đặc biệt
chú ý đến những đặc trưng giá trị và kết quả hành vi đó.
Các nhà Phân tâm học cho rằng hành vi là cái hợp lực, cái thoả hiệp bắt nguồn
từ sự xung đột giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tế, là
những xung lực của “cái ấy” và cái cấm kỵ của “cái siêu tôi” được tổng hợp trong bản
thân “cái tôi”.
Trong cương lĩnh đầu tiên của thuyết hành vi, các tác giả cho rằng “Hành vi là
tổ hợp các phản ứng của cơ thể trả lời các kích thích tác động vào cơ thể: Hay hành vi
là những cử động của cơ thể phản ứng trực tiếp lại các kích thích của môi trường bên
ngoài nhằm thích ứng với nó.
Các nhà Sinh học xem xét hành vi trong mối liên hệ với môi trường, hành vi là
những phản ứng của cơ thể nhằm thích nghi với môi trường. Theo hướng này thì
chuẩn mực đánh giá hành vi là mức độ thích nghi của cơ thể đối với môi trường,
những hành vi được làm cho cơ thể xem là không thích nghi được với môi trường là
hành vi không hợp chuẩn hay hành vi lệch chuẩn.
Như vậy, ở một khía cạnh nhất định, các nhà hành vi và các nhà sinh học có
điểm tương đồng. Họ đều cho rằng hành vi là tất cả các phản ứng hay cách thức để con
người thích ứng với môi trường. Tuy nhiên sự khác nhau, thể hiện ở chỗ các nhà hành
vi cho rằng hành vi của con người không chỉ thích ứng với môi trường tự nhiên mà


thích ứng cả với môi trường xã hội. Các nhà hành vi mới sau này còn cho rằng con
người có sự lựa chọn kích thích, chỉ trả lời những kích thích nào có lợi cho cơ thể. Quá
trình sống là quá trình đáp lại các kích thích có lợi cho con người. Theo quan điểm này
thì chuẩn mực để đánh giá hành vi cũng vẫn là mức độ thích nghi của con người với
môi trường.
Hành vi của con người phần lớn mang tính xã hội. Đó là những hành vi được
hình thành trong xã hội, được thực hiện bởi con người trong môi trường xã hội, chịu

ảnh hưởng của người khác sống xung quanh và các yếu tố văn hoá xã hội cũng như
các hành vi của nhóm. Ngay cả những hành vi mang tính bản năng của con người như
tình dục, sinh sản, nuôi con… cũng chịu sự chế định của các yếu tố văn hoá xã hội.
Như vậy, hành vi trong đề tài này được hiểu là: hành vi bao gồm một chuỗi
hành động nối tiếp nhau một cách tương đối nhằm đạt được mục đích để thỏa mãn nhu
cầu của con người.
1.2. Khái niệm hành vi lệch chuẩn
Hành vi lệch chuẩn có hai mức độ về mặt tâm lý:
Một là, ở mức độ thấp và chỉ có ở một số hành vi. Cá nhân có những hành vi
không bình thường nhưng không ảnh hưởng đến hoạt động chung của cộng đồng, đến
đời sống cá nhân và gia đình họ. Mọi người xung quanh vẫn có thể chấp nhận, tuy
nhiên không thoải mái.
Hai là, ở mức độ cao và ở hầu hết các hành vi của cá nhân, từ hành vi trong sinh
hoạt đến hành vi lao động sản xuất, học tập, vui chơi. Những hành vi lệch chuẩn này
ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống cá nhân vì vậy cần được chẩn đoán và chữa trị.
1.3. Biểu hiện hành vi lệch chuẩn
Theo bảng phân loại bệnh của Hội tâm thần học Hoa Kỳ (DSM - IV), các tiêu chí
dùng để biểu hiện hành vi lệch chuẩn được quy định bao gồm:
Thường bắt nạt, đe doạ hay uy hiếp người khác.
Thường khởi xướng đánh nhau.
Đã dùng vũ khí có thể gây hại nghiêm trọng về thể chất cho người khác.
Có hành vi độc ác về thể chất với người khác.
Có hành vi độc ác với súc vật.


Có hành vi ăn cắp trong khi đối mặt với nạn nhân.
Cưỡng bức hoặc có hành vi lạm dụng tình dục với người khác.
Có hành vi cố ý gây cháy với ý định gây thiệt hại nghiêm trọng.
Có hành vi cố ý phá hoại tài sản của người khác.
Có hành vi xông vào nhà, ô tô của người khác.

Thường nói dối để được đồ vật hay ân huệ, hay để tránh các nghĩa vụ.
Có hành vi ăn cắp các đồ vật có giá trị lớn không đối mặt với nạn nhân.
Thường sống qua đêm ở ngoài gia đình mặc dù bố mẹ cấm đoán, bắt đầu trước
13 tuổi.
Bỏ nhà đi qua đêm ít nhất hai lần trong khi đang sống với bố mẹ hay nhà bố mẹ
nuôi (hoặc một lần không trở về trong thời gian dài).
Thường bỏ học, trốn tiết bắt đầu trước 13 tuổi. (trong độ tuổi THCS)
Cũng theo bảng phân loại của Hội Tâm thần học Hoa kỳ thì ở trẻ có ít nhất ba
trong số mười lăm biểu hiện trên đây hoặc là có ít nhất một biểu hiện hành vi xuất hiện
trong sáu tháng thì có thể chẩn đoán trẻ có biểu hiện hành vi lệch chuẩn. Nếu trẻ trên
18 tuổi thì không xếp vào diện chẩn đoán này.
Hành vi lệch chuẩn không thể quy vào một hành động mà là một hệ thống hành
động, hoạt động, đường lối ứng xử, lối sống của con người. Như vậy, việc nghiên cứu
những tiêu chí và các quan niệm về hành vi lệch chuẩn ở trên cho phép chúng ta có thể
rút ra một số đặc trưng về hành vi lệch chuẩn như sau:
Về số lượng những hành động nào đó không phù hợp với những tiêu chuẩn quy
định lặp đi lặp lại nhiều lần.
Về mức độ và động thái của hành vi thường mạnh mẽ vượt quá giới hạn cho
phép.
Đó là những hành vi không thích hợp với tình huống trong đó diễn ra hành
động.
Hành vi không phù hợp với chuẩn mực đạo đức, văn hoá của nhóm, tập thể, xã
hội, môi trường cá thể sống và không phù hợp với lứa tuổi.
Những hành vi đó ảnh hưởng đến học tập, lao động, sinh hoạt của cá nhân cũng


như ảnh hưởng đến người khác và xã hội.
Tóm lại, khi nghiên cứu, chẩn đoán trẻ có biểu hiện hành vi lệch chuẩn cần phải
nghiên cứu, xem xét trên cả ba mặt: quan hệ xã hội, thể chất và tâm lý. Vì cả ba mặt
này cũng có thể là căn nguyên gây ra hành vi lệch chuẩn ở trẻ em.

2.

Thực trạng hành vi
So sánh tỷ lệ học sinh có hành vi lệch chuẩn xã hội giữa lớp 6 và lớp 9 tại một
trường THCS chọn ngẫu nhiên như sau:
Lớp
Lớp 9
Lớp 6
Tổng

Hành vi lệch chuẩn xã hội
Không

Độ 1

Độ 2

Độ 3

Tần số

96

37

28

19

Tổng

180

Tỷ lệ %

26,4%

10,2%

7,7%

5,2%

49,5%

Tần số

145

24

10

5

184

Tỷ lệ %

39,8%


6,6%

2,7%

1,4%

50,5%

Tần số

241

61

38

24

364

Tỷ lệ %

66,2%

16,8%

10,4%

6,6%


100%

Thông qua kết quả nghiên cứu so sánh tỷ lệ học sinh có hành vi lệch chuẩn xã
hội giữa lớp 6 và lớp 9 cho phép rút ra một kết luận khá thú vị đó là tỷ lệ học sinh có
hành vi lệch chuẩn xã hội ở hai khối lớp là khác nhau. Số liệu cho thấy tỷ lệ học sinh
có hành vi lệch chuẩn xã hội ở lớp 9 là 23,1%, còn tỷ lệ hành vi lệch chuẩn xã hội ở
lớp 6 là 10,7%. Mức độ chênh lệch của tỷ lệ hành vi lệch chuẩn xã hội giữa hai khối
lớp là 12,4% (23,1-10,7) là một con số đáng kể.
Có thể lý giải về tỷ lệ học sinh có hành vi lệch chuẩn xã hội cao ở lớp 9 (gần
1/4 mẫu nghiên cứu có hành vi lệch chuẩn xã hội) là học sinh ở độ tuổi này, đã thực sự
dậy thì, có sự thay đổi lớn về tâm lý, sinh lý, hơn nữa, các em phải chịu đựng những
sức ép, căng thẳng từ phía gia đình, nhà trường và xã hội là cao hơn so với độ tuổi
nhỏ. Đặc điểm này cho thấy cũng cần có sự can thiệp kịp thời, sự giúp đỡ của người
lớn, đặc biệt là cha mẹ và giáo viên để các em có thể bước vào giai đoạn thanh niên
thuận lợi hơn.
So sánh tỷ lệ học sinh có hành vi lệch chuẩn xã hội giữa nam và nữ.
Giới tính
Nam

Hành vi lệch chuẩn xã hội
Không

Độ 1

Độ 2

Độ 3

Tần số


113

30

28

15

Tổng
186

Tỷ lệ %

31%

8,2%

7,7%

4,1%

51,1%


Nữ
Tổng

Tần số

128


31

10

9

178

Tỷ lệ %

35,2%

8,5%

2,7%

2,5%

48,9%

Tần số

241

61

38

24


364

Tỷ lệ %

66,2%

16,8%

10,4%

6,6%

100%

Ở bảng trên cho thấy có 20% học sinh nam có hành vi lệch chuẩn xã hội, trong
khi đó ở học sinh nữ thấp hơn với con số (13,8%). Ở mức độ thấp (độ 1), mức độ này
có thể xếp là mức độ trẻ có nguy cơ bị lệch chuẩn xã hội, thì tỷ lệ giữa nam và nữ
không có sự chênh lệch nhiều (nam 8,2%, nữ 8,5%), nhưng càng lên mức độ cao, mức
độ có nhiều hành vi lệch chuẩn xã hội hoặc hành vi lệch chuẩn xã hội diễn ra thường
xuyên thì tỷ lệ ở nam cao hơn nhiều so với nữ (độ 2 và độ 3 nam 11,8%, nữ 5,2%). Có
thể lý giải sự chênh lệch về tỷ lệ hành vi lệch chuẩn xã hội giữa nam và nữ này là do
đặc điểm tâm lý của học sinh nam và học sinh nữ khác nhau, học sinh nam có xu
hướng hướng ngoại, hoạt động nhiều hơn, thích phưu lưu, mạo hiểm hơn, và có những
hành vi thể hiện mình mạnh mẽ hơn… chính những điều đó dẫn đến học sinh nam có
xu hướng “quậy” hơn so với học sinh nữ.
Từ kết quả nghiên cứu ở các bảng trên cho phép rút ra kết luận là học sinh lớp 9
có biểu hiện hành vi lệch chuẩn xã hội với tỷ lệ cao hơn học sinh lớp 6, học sinh nam
có biểu hiện hành vi lệch chuẩn xã hội với tỷ lệ cao hơn và có biểu hiện ở mức độ
nhỉnh hơn so với học sinh nữ. Đây thực sự là con số báo động và cần được tiếp tục

nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng này, có như vậy mới có
thể tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và điều chỉnh những hành vi
lệch chuẩn đã xảy ra và có thể xảy ra ở học sinh.
Kết hợp kết quả tự đánh giá của học sinh về một số hành vi cụ thể của học sinh
trong sáu tháng gần đây và kết quả đánh giá của giáo viên về học sinh cho thấy có
những nhận xét rất thú vị. Số liệu về sự đánh giá của giáo viên thể hiện ở bảng 2.17
sau đây:
Đánh giá của giáo viên về các hành vi lệch chuẩn xã hội của học sinh có trong
sáu tháng gần đây:
Rất thường Thường
Hành vi
Cãi cọ, trêu chọc bạn

xuyên
Tần Tỷ
số
6

xuyên
Tần Tỷ

lệ % số
12,5 12

lệ %
25

Thỉnh
thoảng
Tần Tỷ

số
30

lệ %
62,5

Không
Tần

Tỷ

số
0

lệ %
0

Hoàn toàn
không
Tần Tỷ
số
0

lệ %
0


Phá đồ đạc của người
khác
Không nghe lời thầy cô,

cha mẹ
Đánh nhau
Trốn nhà để đi chơi
Đi học muộn, nghỉ học
không xin phép
Không học bài, làm bài
tập
Nói dối cha mẹ, thầy
cô, bạn bè
Gian lận khi kiểm tra,
thi cử
Đọc truyện, làm việc

0

0

2

4,2

20

41,1

26

54,2

0


0

2

4,2

12

25

30

62,5

4

8,3

0

0

0
0

0
0

2

6

4,2
12,5

24
36

50
75

18
6

37,5
12,5

4
0

8,3
0

0

0

2

4,2


40

83,3

6

12,5

0

0

2

4,2

14

29,2

32

66,7

0

0

0


0

0

0

8

16,8

31

64,6

9

18,8

0

0

0

0

6

12,5


26

54,2

16

33,3

0

0

0

0

4

8,3

42

87,5

2

4,2

0


0

0

0

2

4,2

12

25

34

70,8

0

0

0

0

0

0


12

25

29

60,4

7

14,6

0

0

8

26,7

35

72,9

5

10,4

0


0

0

0

0

0

10

20,8

33

68,8

5

10,4

0

0

0

0


30

62,5

17

35,4

1

2,1

2

4,2

4

8,3

28

58,3

13

27,1

1


2,1

0

0

0

0

8

16,7

38

79,2

2

4,2

riêng trong lớp
Xem chuyện, phim có
nội dung bạo lực hoặc
đồi trụy
Lấy cắp của nhà hoặc
của người khác
Chửi thề, nói tục


Hút thuốc hoặc uống
rượu
Sợ đi học, muốn trốn
học
Chán học, không còn
hứng thú
Đánh bài trong lớp

Theo đánh giá của giáo viên thì hành vi cãi cọ, trêu chọc bạn là có nhiều nhất ở
học sinh với tỷ lệ 37,5% cho rằng nó xảy ra ở mức rất thường xuyên và mức thường


xuyên. Nói khác đi, hành vi này có tới hơn 1/3 giáo viên đánh giá nó đang tồn tại. Kết
quả này phù hợp với sự tự đánh giá của học sinh. Điều này thực sự chứng tỏ hành vi
lệch chuẩn xã hội này ở học sinh là có thực.
Tiếp đến là hành vi không học bài, làm bài tập, cũng có 1/3 số giáo viên trong
mẫu nghiên cứu đánh giá nó tồn tại ở mức thường xuyên và rất thường xuyên (mức độ
rất thường xuyên 4,2% ý kiến, mức thường xuyên 29,2%), thỉnh thoảng là 66,7% và
không có ý kiến nào đánh giá là không có hành vi này ở học sinh. Như vậy, cũng có
thể khẳng định hành vi lệch chuẩn xã hội loại này cũng xuất hiện ở học sinh với tỉ lệ
xấp xỉ 1/3 mẫu nghiên cứu.
Sau đó là hành vi không vâng lời thầy cô, cha mẹ cũng có gầm 1/3 số giáo viên
trong mẫu nghiên cứu cho rằng xảy ra thường xuyên và rất thường xuyên, chỉ có 8,3%
ý kiến cho là không có. Kết quả này cũng tương ứng với kết quả khảo sát ở học sinh.
Bên cạnh đó, cho thấy các hành vi lệch chuẩn xã hội đưa ra khảo sát đều có tồn tại ở
học sinh Trung học cơ sở và dao động từ 105% đến 30% mẫu.
Hành vi trốn nhà để đi chơi, có 12,5% ý kiến của giáo viên trong mẫu cho rằng
thưởng xuyên xảy ra đi học muộn, nghỉ không xin phép có gần 90% ý kiến của giáo
viên trong mẫu cho rằng thỉnh thoảng tồn tại.

Kết quả phỏng vấn ban giám hiệu nhà trường và các giáo viên chủ nhiệm về
tình hình hành vi lệch chuẩn xã hội đang tồn tại ở học sinh cũng cho thấy những nhận
định tương tự. Đây không phải là một trường hợp duy nhất trong số học sinh được
chúng tôi khảo sát, hiện tượng học sinh nghỉ học, trốn học là có thật xảy ra khá nhiều.
Điều này phản ánh sự hợp tác quá lỏng lẻo giữa gia đình và nhà trường trong công tác
giáo dục học sinh, đồng thời cũng cho thấy được sự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với
việc học tập của con em họ.
Hành vi hút thuốc, uống rượu mặc dù chỉ có 20,8% ý kiến cho là thỉnh thoảng
xảy ra. Mặc dù, với tỷ lệ không phải là nhiều, tuy nhiên, học sinh ở lứa tuổi này đang
còn nhỏ mà đã tập tành hút thuốc, uống rượu, đua đòi với bạn bè, điều này sẽ ảnh
hưởng không tốt tới sự phát triển nhân cách của trẻ sau này.
3.

Tác động của môi trường xã hội đến hành vi
Trường hợp gia đình không hạnh phúc, cha mẹ bỏ nhau hoặc hay cãi nhau sẽ dẫn

tới cha mẹ thường không quan tâm đến con cái, thậm chí mâu thuẫn của cha mẹ cũng
đổ lên con cái làm cho trẻ bất an, khi trẻ không cảm thấy hạnh phúc thì sẽ có những


hành vi chống đối, phá phách, thậm chí trẻ còn học ngay những thói xấu từ cha mẹ mà
cha mẹ. Từ đó dẫn đến trẻ có những hành vi lệch chuẩn xã hội. Hoặc cũng do cha mẹ
lo kiếm tiền không quan tâm đến trẻ, giao phó mọi trách nhiệm dạy dỗ cho nhà trường,
nhưng nhà trường chỉ có thể quản lý trẻ trong thời gian lên lớp, dẫn đến thời gian còn
lại trẻ muốn làm gì thì làm không có sự kiểm soát. Chính điều này cũng dẫn tới trẻ có
những hành vi lệch chuẩn xã hội. Thêm vào nữa, một số cha mẹ quá khắt khe với con
cái, hay đánh đập chửi rủa con cái cũng dẫn đến trẻ có hành vi phản kháng như quậy
phá, bỏ học, trốn học… Do vậy, có thể khẳng định rằng cách giáo dục của gia đình,
mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, cách sống của cha mẹ có ảnh hưởng nhiều nhất
đến trẻ.

Đánh giá của học sinh về những nguyên nhân dẫn đến học sinh có hành vi lệch
chuẩn xã hội
Xếp thứ Xếp thứ 2
Hành vi

1
Tần Tỷ Tần
số

lệ % số

Tỷ
lệ %

Xếp thứ Xếp thứ Xếp thứ Xếp thứ
3
4
5
6
Tần Tỷ Tần Tỷ Tần Tỷ Tần Tỷ
số lệ % số lệ % số lệ % số lệ %

Cha mẹ lo kiếm
tiền, không
quan tâm đến

11030,2

78 21,4


7420,3

4712,9

3810,4

17 4,7

12734,9

85 23,4

46 12,6

5013,7

4211,5

14 38,8

39 10,7

103 28,3

95 26,1

3810,4

4813,2


41 11,3

6818,7

12 34,3

4211,5

64 17,6

bạn.
Gia đình không
hạnh phúc, cha
mẹ bỏ nhau
hoặc
hay cãi nhau.
Cha mẹ quá
khắt khe, hay
đánh đập
chửi rủa bạn.
Do thầy cô giáo
ở trường không
hiểu HS, không
quan tâm đến

29 8

36

9,9



học sinh.

5

Do chơi với bạn
bè xấu,
Do học qua

51 14

35

9,6

58 15,9

6016,5

11832,4

42 11,5

33 9,1

31

8,5


4412,1

32 8,8

6016,5

164 45,1

sách truyện,
phim ảnh,
internet có nội
dung xấu
Từ đó chúng ta thấy rằng những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến học sinh có hành
vi lệch chuẩn xã hội là những nguyên nhân xuất phát từ phía gia đình la nổi trội.
4.

Vai trò của nhân viên công tác xã hội
Nhân viên công tác xã hội nên đưa ra các kiến nghị, truyền thông các ý kiến đến

các đối tượng bao gồm phụ huynh, giáo viên và bản thân học sinh THCS.
Để phòng ngừa và điều chỉnh những hành vi lệch chuẩn xã hội cho học sinh
trước hết phụ huynh học sinh cần trang bị cho mình những hiểu biết về đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi, về cách chăm sóc và nuôi dưỡng con cái, đồng thời phải trang bị cho
mình những hiểu biết nhất định về hành vi lệch chuẩn xã hội có thể xảy ra ở học sinh.
Trên cơ sở đó điều chỉnh những quan điểm, lối sống, cách ứng xử của mình sao cho
phù hợp với con cái. Cụ thể:
Cha mẹ cần quan tâm đến nhu cầu của con em mình, vì trẻ không chỉ có những
nhu cầu vật chất mà các em còn có những nhu cầu về tình cảm, nhu cầu tình thần. Để
có thể đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cần thiết của trẻ, cha mẹ cần chủ động sắp
xếp công việc để có thể dành nhiều thời gian chăm sóc, quan tâm đến con cái, đặc biệt

khi con đang ở giai đoạn ấu thơ.
Trong chăm sóc, dạy dỗ trẻ phải có thái độ tích cực. Luôn tìm thấy ở trẻ mặt tích
cực để tìm cách phát huy nó, ngay cả đối với trẻ ngang bướng, khó dạy. Cha mẹ luôn
luôn phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và yêu cầu cao trong việc chăm sóc và dạy dỗ
con cái.
Khi trẻ mắc lỗi, cha mẹ phải tìm hiểu rõ nguyên nhân để có hình thức xử lý hay


khuyên bảo hợp lý, không nên mắng chửi hay đánh đập, sỉ nhục trẻ. Vì những hành vi
thô bạo của cha mẹ thường làm cho con cái không kính trọng họ hoặc làm cho các em
lo lắng, đôi khi làm cho trẻ có những hành động thái quá mà người lớn không thể
lường trước được.
Mỗi người cha, người mẹ phải có trách nhiệm trong việc xây dựng hạnh phúc gia
đình cũng như trong việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Bầu không khí ấm cúng, đầy tình
thương yêu là điều kiện cần thiết đối với đời sống tâm lý của mỗi thành viên trong gia
đình, là chỗ dựa vững chắc và an toàn cho trẻ lớn lên và trưởng thành.
Mỗi người lớn như cha mẹ, anh chị… phải là những tấm gương sáng cho trẻ noi
theo.
Với các giáo viên Trung học cơ sở và ban giám hiệu Thầy cô giáo cần:
Hiểu tâm lý và gần gũi với học sinh.
Luôn thiết kế và tổ chức các hoạt động học tập và vui chơi phong phú, đa dạng,
bổ ích, hấp dẫn nhằm thu hút các em tích cực tham gia, để tránh cho các em có thể bị
lôi kéo bởi các thế lực xấu.
Mỗi giáo viên cần phải được trang bị và tự trang bị cho mình những hiểu biết cần
thiết về tâm, sinh lý học sinh cũng như những hiểu biết về các chuẩn mực xã hội và
nguyên nhân có thể gây ra hành vi lệch chuẩn xã hội để có cách giáo dục và cư xử phù
hợp.
Mỗi giáo viên đóng vai trò là nhà tư vấn tin cậy, giúp học sinh tháo gỡ những
vướng mắc trong quan hệ của các em với mọi người và với bạn bè.
Với bản thân học sinh THCS

Tích cực tìm hiểu những tri thức về những chuẩn mực xã hội thông qua gia đình,
nhà trường và xã hội, sách vở, từ đó hình thành niềm tin, hứng thú đối với các chuẩn
mực xã hội.
Tích cực tham gia vào các hoạt động mà ở đó có thể thực hiện những hành vi phù
hợp với chuẩn mực xã hội (có sự theo dõi của người lớn), để từ đó hình thành thói
quen thực hiện những hành vi hợp chuẩn.
Khi tiếp xúc, hoạt động trong môi trường xã hội cần phải biết đánh giá hoạt động
nào là đúng, là sai, có phù hợp với chuẩn mực hay không, để có hướng thực hiện hành
vi đúng.


Hình thành thái độ tích cực ủng hộ các hành vi phù hợp, lên án các hành vi lệch
chuẩn mực xã hội (hình thành dư luận xã hội lành mạnh).
Hướng dẫn những hành vi chuẩn mực, phù hợp với xã hội cho các bạn bè. Tích
cực đấu tranh loại bỏ các hành vi sai lệch.
Tự nhận thức được sai lệch của mình và tự nguyện sửa chữa, tự rèn luyện, tự
điều chỉnh, hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
5.

Phân tích trường hợp cụ thể
Bà N. T. N mẹ của cháu Đ.T.L (là học sinh lớp 9 có hành vi lệch chuẩn xã hội

mức độ hai), khi chúng tôi hỏi tình hình của con gái bà về những vấn đề liên quan đến
những biểu hiện hành vi lệch chuẩn xã hội thì nhận được câu trả lời: “Con tôi không
có những vấn đề như vậy. Nó là đứa ngoan ngoãn, hiền lành, chịu khó học hành và
thường xuyên giúp đỡ bố mẹ công việc gia đình”. Nhưng khi chúng tôi hỏi “Nếu L
gặp phải những vấn đề gì ở lớp hoặc trong quan hệ bạn bè, anh chị em thì em có hay
tâm sự với cha mẹ hay không?” Mẹ của em trả lời: “Cháu thích gì thì tôi đáp ứng cái
đó. Nhưng tâm sự à, không biết cháu có hay tâm sự với cha không, chứ còn tôi bận
bán hàng cả ngày, khách ra khách vào, có thời gian đâu mà cho nó tâm sự ”. Thực tế,

chúng tôi đã tìm hiểu về em L qua giáo viên chủ nhiệm B.T.L.H và được cô cho biết
em L là một trường hợp đặc biệt của lớp có quan hệ yêu đương rất sớm (từ năm học
lớp 8). Em thường xuyên bỏ bê việc học tập, cô giáo chủ nhiệm đã nhiều lần mời cha
mẹ em đến để trao đổi về việc này nhưng em không hề thay đổi, em rất ít chơi với các
bạn cùng lớp mà hay chơi với những người lớn tuổi ở ngoài trường. Càng ngày em L
càng tỏ ra kém thân thiện với mọi người nhất là cô giáo và các bạn cùng lớp, em
không tâm sự bất cứ chuyện gì với cô giáo chủ nhiệm và theo lời tâm sự của cô thì “L
đề phòng và cảnh giác ngay cả khi cô nhìn và gọi lên trả lời câu hỏi”. Cô giáo cũng
cho biết cha mẹ em rất nuông chiều em, em muốn cái gì là được cái đó, khi được biết
em vướng vào chuyện yêu đương cha mẹ em chửi em rất nhiều, thậm chí còn doạ đuổi
đi nếu không chấm dứt. Cô cũng gặp em và khuyên em rất nhiều nhưng em không hề
thay đổi mà ngày càng tỏ ra lầm lì. Còn khi hỏi trực tiếp em L về mong muốn nguyện
vọng của em thì em nói rằng: “Em chỉ có một mong muốn duy nhất là mọi người, nhất
là giáo viên và cha mẹ không nên can thiệp quá sâu về chuyện tình cảm, quan hệ bạn
bè của mình”.
Từ đó chúng ta thấy rằng những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến học sinh có hành


vi lệch chuẩn xã hội là việc gia đình quả mải làm ăn, thiếu quan tâm đến tâm lý con
cái. Nếu không can thiệp kịp thời sẽ dẫn đến một số hậu quả em L vì yêu đương sớm
sẽ dễ dẫn đến tình trạng quan hệ tình dục quá sớm, ảnh hưởng tâm lý thậm chí là có
thai ngoài ý muốn, cản trở việc học tập và cuộc sống của em.
III. KẾT LUẬN
Một số hành vi lệch chuẩn xuất hiện ngày càng nhiều như sử dụng chất kích thích (hút
thuốc, uống rượu…), bạo lực học đường, bỏ học…đặc biệt là có những hành vi bạo
lực với thầy/cô giáo. Nếu những người làm công tác giáo dục không điều chỉnh và uốn
nắn kịp thời thì có thể dẫn đến khủng hoảng và lệch lạc về hành vi ở các em. Nhưng
thế nào là hành vi lệch chuẩn, nguyên nhân cũng như các biện pháp phòng ngừa và can
thiệp như thế nào là hiệu quả thì không phải thầy cô giáo, nhà quản lý giáo dục nào
cũng hiểu rõ. Bài tiểu luận này đã phần nào làm rõ khái niệm, biểu hiện, các yếu tố tác

động cũng như đề xuất một số biện pháp phòng ngừa và can thiệp đối với hành vi lệch chuẩn của
học sinh trong trường học.


Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Adele Faber - Elaine Mazlish - Hãy lắng nghe và hiểu con bạn (2001) NXB Phụ nữ.

2.

Đào Thị Vân Anh - Tìm hiểu nhận thức về lối sống và hành vi đạo đức của
học sinh trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay (2006) - Thư viện trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

3.

Nguyễn Bá Đạt - Vai trò của nhà tâm lý học lâm sàng trong trường học Tạp chí Tâm lý học số 2/2003.

4.

Ngô Công Hoàn - Tâm lý học gia đình (1993) - Trường ĐHSP Hà Nội I.

5.

Phạm Minh Hạc - Hành vi và hoạt động (1989) - NXB Giáo dục

6.

Ngô Công Hoàn - Tâm lý học gia đình (1993) - Trường ĐHSP Hà Nội I.


7.

Trang báo điện tử: Báo dân trí, Báo giáo dục thời đại…
/> /> />


×