Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng hồ chí minh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.62 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, tư tưởng của
Người luôn soi sáng trong mỗi chặng đường lịch sử. Nhờ có tư tưởng của
Người, Đảng và nhân dân ta đã tập hợp được khối đoàn kết đông đảo tạo ra
sức mạnh để làm nên những thắng lợi vẻ vang, giành lại độc lập, tự do cho đất
nước. Xuất phát từ truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và từ bản
chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với sự nhậy cảm
chính trị, tư duy khoa học, phẩm chất đạo đức trong sáng của mình. Hồ Chí
Minh đã xây nên tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và nâng nó lên tầm cao mới.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người không ngừng chăm lo, vun
trồng cho rừng cây đại đoàn kết ngày một nở hoa kết trái.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được Đảng, nhân dân
ta quán triệt và thực hiện thành công trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trở thành một nội dung mang tính
chiến lược quan trọng của Đảng cộng sản và cũng là một trong những yếu tố
quyết định sự thành bại của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân đang nỗ lực,
tích cực thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo tình thần Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần X với khẩu hiệu: "Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, mà
nguyên nhân chủ yếu của sự thành công đó chính là Đảng và nhân dân ta đã
biết quán triệt và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Bước sang thế kỷ 21, trong xu thế quốc tế hóa, hội nhập hóa ngày
càng mạnh mẽ, đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ mới rất thuận lợi,
đồng thời cũng phải đối mặt với không ít thách thức đó là: sự chống phá của
1



các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước ngày càng tinh vi, thâm độc, chúng
thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình" nhằm phân hóa, kích động và chia
rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta. Trước thực tế đó, việc xây dựng,
củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đang là nhiệm vụ cấp bách
của Đảng và nhân dân ta.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài: "Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay" làm tiểu
luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các đồng chí lãnh
đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học. Ðã có nhiều đề tài, công trình
nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt trong chương
trình khoa học cấp Nhà nước KX 02 (1991- 1995), có một đề tài KX 02- 07
"Tư tưởng, chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh" do PGS.TS Phùng Hữu Phú
làm chủ nhiệm đã trình bày một cách hệ thống về tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc. Các bài viết, nghiên cứu của các tác giả Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn
Đồng, Đặng Xuân Kỳ, Song Thành... đã tập trung làm rõ nội dung cơ bản của
tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn nhiều bài viết được đăng
trên các tạp chí... Điều đó chứng tỏ giá trị l› luận và thực tiễn to lớn của tư
tưởng Hồ Chính Minh về đại đoàn kết dân tộc. Kế thừa những thành quả
nghiên cứu đó, tôi tiếp tục làm rõ vấn đề này trong tiểu luận của minh
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích: Nhằm góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc, trên cơ sở phân tích sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta

2


trong giai đoạn hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm củng cố và phát
triển hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh bao
gồm một hệ thống những quan điểm về đại đoàn kết dân tộc, về đoàn kết quốc
tế, về xây dựng Mặt trận thống nhất, về đoàn kết toàn dân... Nhưng trong tiểu
luận này, tôi chỉ xin đi vào nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của đại đoàn kết dân
tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng tư tưởng đó trong giai
đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết dân tộc
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện tiểu luận, tác giả đã sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgic- lịch sử,
phương pháp phân tích- tổng hợp - so sánh nhằm làm rõ tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc Hồ Chí Minh.
5. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận gồm 2 chương, 5 tiết.

3


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

1.1. Những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc

Với khát vọng cháy bỏng là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho
nhân dân, cho nên ngay từ ngày đầu trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vị trí và vai trò của vấn đề đại đoàn kết dân
tộc đối với sự nghiệp cách mạng. Người nói: Muốn làm cách mạng phải có
lực lượng cách mạng và muốn có lực lượng cách mạng thì phải thực hiện
đoàn kết
1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược một
trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng
Đoàn kết là một truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc và của
nhân dân ta. Do thường xuyên phải chống những thế lực ngoại xâm mạnh hơn
mình gấp bội và cũng thường xuyên đương đầu với thiên tai, nên dân tộc Việt
Nam có truyền thống đoàn kết từ lâu đời. Truyền thống ấy được Hồ Chí Minh
kế thừa và nâng lên một tầm cao mới, trở thành tư tưởng, chiến lược cách
mạng Việt Nam.
Lịch sử cho thấy, khi nào dân tộc bị chia rẽ, bè phái thì đất nước bị suy
yếu và bị thôn tính. Khi nào trên dưới một lòng, cả nước chung sức thì khi đó
đất nước phồn thịnh, có sức mạnh vô địch đánh thắng những kẻ thù hung hãn
nhất. Chính vì vậy, những kẻ ngoại xâm, dù đến từ thời nào, phương nào cũng
đều thực hiện chính sách "chia để trị". Trong "Bản án chế độ thực dân Pháp",
Người viết: "chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn" chia
để trị" của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc,
chung một dòng máu, chung một tiếng nói đã bị chia năm sẻ bảy. Lợi dụng một
cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết,
4


nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa
anh em ruột thịt với nhau" [12, tr.116]
Trước âm mưu chia rẽ đó, để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam
phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối để chống lại quân xâm lược. Theo Hồ

Chí Minh: "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi" [21, tr. 22], "Đoàn kết
là sức mạnh, là then chốt của thành công" [21, tr. 154]. Người khẳng định: "Đoàn
kết là một chính sách dân tộc, không phải là thủ đoạn chính trị" [21, tr. 438].
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được nhận thức là vấn
đề sống còn của cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Người
khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết càng rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ
thì thắng lợi càng to, thành tích càng lớn. Tư tưởng trên của Người đã được
lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng ta
lãnh đạo chứng minh hoàn toàn đúng đắn.
1.1.2 . Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm hàng đầu của
cách mạng
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng này phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Nói cách
khác, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải hướng vào việc xây dựng
và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Trong "Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng
lao động Việt Nam tháng 3-1951", Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố
trước toàn thể dân tộc: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam đại thể gồm
5


8 chữ là: Đoàn kết, toàn dân, phụng sự Tổ quốc" [16, tr.183]. Đoàn kết toàn
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Bởi vì, muốn
chiến thắng kẻ thù thì phải có đường lối, lực lượng đó phải đủ mạnh. Muốn có

lực lượng thì phải đoàn kết, đoàn kết tạo sức mạnh để chiến thắng kẻ thù và
xây dựng xã hội mới. Chính vì vậy, đại đoàn kết luôn được coi là nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng. Ngày 31-8-1963, nói chuyện với cán bộ tuyên huấn
miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: "Trước Cách mạng
tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho
đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách
mạng hay kháng chiến để đòi độc lập, chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích
tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà" [21, tr. 130].
Trong quá trình hoạt động cách mạng, việc đầu tiên Hồ Chí Minh nghĩ
tới là đoàn kết: Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Trong "Di chúc" thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết
Người nhấn mạnh về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân. Sau đó, Người
nói về đoàn kết quốc tế và Người rất đau lòng "vì sự bất hòa giữa các đảng
anh em". Những dòng cuối cùng của "Di chúc", Người viết: "Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" [22, tr.512].
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Hồ Chí Minh
thường xuyên quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Người rất vui
mừng, phấn khởi khi khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố và
mở rộng. Tại Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-3-1951), Người đã
phát biểu: "Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc
của Đại hội Liên Việt - Việt Minh thống nhất. Lòng sung sướng ấy là chung cả
toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng tôi là một sự sung sướng không thể tả. Một
người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm qua cho khối đại đoàn kết
6



toàn dân. Hôm nay, trong rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc
dễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai "trường
xuân bất lão". Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng" [16, tr.181]
Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của Mặt
trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố mặt
trận, cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân
tộc lâu dài về sau.
1.1.3 . Đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn
dân. Khái niệm "dân", "nhân dân" có nội hàm rất rộng. Người dùng khái niệm
này chỉ "mọi con dân nước Việt", "mỗi một con người con Rồng, cháu Tiên",
không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với
người không ngưỡng tín, không phân biệt "già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý
tiện". Như vậy, "dân", "nhân dân" vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng,
vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả đều là chủ thể của đại
đoàn kết dân tộc. Trong quan niệm của Hồ Chí MInh: Dân là chủ thể, là gốc
rễ của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của đại đoàn kết.
Dân là nền tảng của đại đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng cộng
sản và hệ thống chính trị. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập
hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã
nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì đoàn kết với họ" [17, tr.438].
Ta ở đây vừa là Đảng, vừa là mọi người dân của Tổ quốc Việt Nam, với tinh
thần đoàn kết rộng rãi. Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định
hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam.
Vì vậy, muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì phải kế
thừa truyền thống yêu nước - đoàn kết - nhân nghĩa của dân tộc, phải có tấm
7



lòng khoan dung, đại độ với con người. Hồ Chí Minh cho rằng, ngay đối với
những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về
phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu
cách biệt. Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng
nay không chống nữa, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn mở rộng tiếp đón
họ. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn dặn: cần xóa bỏ hết thành kiến,
cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ
nhân dân.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một
cách rộng rãi như nêu trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong
mỗi người, "ai cũng có ít nhiều tấm lòng yêu nước" tiềm ẩn bên trong. Tấm
lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri
con người thì lòng yêu nước lại bộc lộ.
1.1.4. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có
tổ chức thể hiện ra là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng,
để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn
kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu
gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất,
thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành
sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ
chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị
đúng đắn; nếu không, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con
người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh.
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó,

chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao
8


động. Và sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh
đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước
phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa
tuổi, từng tôn giáo. Đó là các già làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ,
công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội
phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, các nghiệp đoàn, v.v.,
bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ
mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không
chỉ ở trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước,
về Tổ quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
Các tổ chức Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập
hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ
chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn,
theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên
cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên
minh công - nông - lao động trí óc.

Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
9


Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng
lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích riêng mà là gắn liền với
lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không
phải chỉ vì lợi ích của giai cấp mình mà vì "phải trở thành dân tộc" mới có thể
giải phóng được dân tộc và giai cấp.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
là một thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng
lãnh đạo Mặt trận. Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không
phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Người
nói: "Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình,
mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng
mới giành được địa vị lãnh đạo" [13, tr.139]
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách
Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.
Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương,
lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự
nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết
trong Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa
Đảng với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi
khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
1.2 Những nguyên tắc và phương pháp thực hiện đại đoàn kết dân

tộc trong tư tưởng Hồ Chi Minh
1.2.1 Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải được thực
hiện theo các nguyên tắc sau:
10


Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên cơ sở bảo
đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân
nhân lao động.
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh. Hạt nhân của nguyên tắc này là phải giải quyết đúng đắn mối
quan hệ dân tộc và giai cấp.
Những bài học, kinh nghiệm lịch sử cho thấy: Khi nào mà không nắm
vững và xử lý tốt mối quan hệ này thì cách mạng rất dễ sai lầm trong việc xác
định đường lối chiến lược và rất dễ gây ra những tổn thất lớn cho cách mạng.
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng và phát triển quan
điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh
đã khẳng định: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước" [11, tr.466].
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua
hàng nghìn năm lịch sử, là động lực tinh thần vô giá trong cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước. Người còn
nói rõ: "Người ta sẽ không thể làm gì được người An Nam nếu không dựa trên
các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ" [11, tr.467], tức là
chủ nghĩa dân tộc bản xứ. Từ đó, Người đặt vấn đề phải khai thác triệt để yếu
tố dân tộc, sức mạnh tinh thần dân tộc trong đấu tranh giải phóng của các dân
tộc thuộc địa dưới ngọc cờ của Quốc tế cộng sản.
Khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, trong Cương lĩnh của Đảng,

tư tưởng kết hợp vấn đề giai cấp và dân tộc của Hồ Chí Minh thấy rõ. Người
xác định: cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địch cách mạng, đồng thời được biểu hiện ở ngay
trong cách mạng dân tộc dân chủ là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và giai
cấp phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
11


Thực tiễn trong chỉ đạo đấu tranh giành chính quyền cách mạng tháng
Tám năm 1945 và trong suốt tiến trình cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn
giải quyết tốt vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Trong khi đặt lợi ích của dân
tộc lên trên hết thì đồng thời cũng là giải quyết tốt vấn đề giai cấp. Bởi vì theo
Người "nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập
ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì" [14, tr.56].
"Không có gì quý hơn độc lập tự do" là chân lý, là mẫu số chung của
khối đại đoàn kết toàn dân, đó là cơ sở tập hợp sức mạnh toàn dân trong sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh đánh giá: "Trong suốt cả thời gian bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân
Việt Nam từ Nam chí Bắc đã bền bỉ đấu tranh để giành tự do độc lập. Nhờ lực
lượng đoàn kết, nhân dân Việt Nam đã làm cách mạng tháng Tám thành công.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời" [19, tr.347].
Thứ hai: Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của
nhân dân
Hồ Chí Minh quan niệm, dân là chủ thể của đoàn kết, dân là nền tảng
của đoàn kết, dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết,
quyết định thắng lợi của cách mạng và dân cũng là chỗ dựa vững chắc nhất
của Đảng cộng sản, của cả hệ thống chính trị. Với quan điểm đúng đắn về dân
như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những luận điểm về nguyên tắc tin vào dân,
dựa vào dân, vì dân với cách trình bày giản dị và sâu sắc: "Đại đoàn kết trước
hết là phải đoàn kết đa số nhân dân, mà đại đa số dân ta là công nhân, nông

dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết.
Nó cũng như cái "nền nhà, gốc của cây". Nhưng đã có nền vững, gốc tốt còn
phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác" [17, tr.438]
Nguyên tắc này còn là sự quán triệt sâu sắc cả trong nhận thức và
hành động của nguyên lý mác xít: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì
dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt trong tư duy chiến lược và hoạt động
12


thực tiễn của Người. Nguyên tắc sống còn đó được Người khái quát rất ngắn
gọn và sâu sắc: "Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân" [18, tr.276] hay "Gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân" [15. tr.410].
Có thể nói, mọi tư tưởng, mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh đều bắt
nguồn từ lòng thương yêu, kính trọng và tin tưởng sâu sắc ở nơi dân. Như Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận xét: "Trong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi lực lượng của nhân dân, của dân tộc là lực
lượng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Chiến lược của Người là đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc" [26, tr.31].
Ba là: Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, đoàn
kết rộng rãi, lâu dài và bền vững
Hồ Chí Minh luôn luôn nhất quán trong nhận thức đó là: đại đoàn kết
không phải là một tập hợp ngẫu nhiên nhất thời mà phải là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội, có tổ chức, có lãnh đạo.
Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết theo lập
trường vô sản, theo ngọn cờ của chủ nghĩa Mác- Lênin. Người cho rằng:
"đoàn kết là một chính sách dân tộc chứ không phải là thủ đoạn chính trị", cho
nên đoàn kết là mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất Tổ quốc và để xây

dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Người thì lực lượng đại đoàn kết dân tộc bao gồm tất cả mọi
tầng lớp xã hội, các giới tính, các lứa tuổi, các dân tộc, các tôn giáo...tổ chức
trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người nói: Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Hồ Chí
Minh cũng khẳng định: "Đảng cộng sản là người lãnh đạo khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, nhưng Đảng cộng sản cũng là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất của Mặt trận" [13, tr.139].
13


Đảng ta là một đảng vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân,
của dân tộc thì Đảng không có lợi ích nào khác. Vì vậy, sứ mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam là: Trong nước thì tập hợp, đoàn kết các lực lượng yêu nước tiến
bộ, ngoài nước thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Thực hiện nguyên tắc đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, chặt chẽ và có tổ
chức, Hồ Chí Minh đã giải quyết thỏa đáng và thành công mối quan hệ giữa
liên minh công - nông với Mặt trận dân tộc thống nhất. Người nói: "Đoàn kết
rộng rãi, lâu dài, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố: "Nền có vững thì nhà mới
chắc, gốc có bền thì cây mới tươi". Người cũng vạch ra: "Trong chính sách
đoàn kết cần chống hai khuynh hướng: cô độc hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên
tắc. Phải lấy công tác mà củng cố đoàn kết. Phải lấy đoàn kết để đẩy mạnh
công tác" [17, tr.238]. Theo Người, có thực hiện được như thế thì mới phát
triển được các lực lượng cách mạng và mới tạo được khối đại đoàn kết dân
tộc vững chắc.
Trong khi nhấn mạnh đến đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh không
chỉ bó hẹp trong phạm vi dân tộc để rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mà
chính Người đã đấu tranh không mệt mỏi cho sự đoàn kết của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế cũng như sự đoàn kết của các dân tộc bị áp

bức trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Từ đại đoàn kết dân tộc Việt Nam,
Hồ Chí Minh chỉ ra là cần phải phát triển thành đại đoàn kết giữa nhân dân ta
và nhân dân các nước bạn, với toàn thể nhân dân yêu chuộng hòa bình, dân
chủ và tiến bộ thế giới. Phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và sức mạnh
thời đại để chiến thắng kẻ thù, chiến thắng đói nghèo, lạc hậu và để xây dựng
xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư: Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên
tắc tự phê bình, phê bình vì sự thống nhất bền vững của khối đại đoàn kết
dân tộc.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn dân tộc, bên cạnh những luận
điểm tương đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con
14


đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích
cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần khắc phục. Người nói: "đồng bào ta có
những ưu điểm cần phát triển, khuyết điểm chúng ta cùng nhau sửa
chữa...phải đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc kinh và thiểu số, đoàn kết
Nam - Bắc, đoàn kết quân dân,... bất kỳ khó khăn gì, bất công việc to mấy ta
đoàn kết đều làm được hết cả" [18, tr. 403]. Để giải quyết vấn đề này, một mặt
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm "cầu đồng tồn dị", lấy cái chung để
hạn chế những cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải
gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết, "đấu tranh chống
khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức
trong nội bộ mặt trận" [20, tr.18]. Người nêu cao tinh thần phê bình và tự phê
bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết:
"đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất
trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt
của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái,
vì nước, vì dân" [19, tr.137].

Thái độ tự phê bình phê bình: chân thành, thắng thắn, thân ái, có tình
yêu thương giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Luôn giữ gìn và tăng cường sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng.
1.2.2 Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh không cứng nhắc,
không nhất thành bất biến mà rất mềm dẻo, linh hoạt và phát triển thích ứng
với tình hình thực tiễn cách mạng đặt ra.
Thứ nhất, phương pháp tuyên truyền giáo dục, vận động quần
chúng một cách thiệt thực và khoa học
Phương pháp tuyên truyền giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, cho nên cần phải có phương pháp
tuyên truyền, vận động quần chúng thực sự khoa học để mọi người tự mình nhận
thức được sự cần thiết phải tập hợp lại, từ đó tham gia công việc cách mạng
15


Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng là cả một vấn
đề khoa học, là nghệ thuật cách mạng. Cho nên phải tìm tòi, lựa chọn các nội
dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp với nguyện vọng của quần
chúng, phù hợp với quyền lợi thiết thực của quần chúng. Phương pháp này
làm cho mọi người nhận thức được sự cần thiết phải tập hợp nhau lại, từ đó
mà tự giác tham gia vào việc tổ chức đoàn kết cách mạng trong Mặt trận dân
tộc thống nhất.
Trong khối đại đoàn kết dân tộc, có nhiều giai tầng xã hội khác nhau
do đó cũng có những quyền lợi chung nhưng cũng có những quyền lợi riêng.
Vì vậy nội dung tuyên truyền, giáo dục phải đáp ứng được cả hai yêu cầu đó.
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc vấn đề này và Người luôn có phương pháp
tuyên truyền, giáo dục thành công trong công tác vận động quần chúng.
Tùy theo yêu cầu trực tiếp để tập hợp lực lượng cách mạng, Hồ Chí
Minh đưa ra các nội dung tuyên truyền, vận động thích hợp. Trong đấu tranh

giành chính quyền thì Người nêu những mục tiêu chiến lược như: "độc lập
dân tộc, người cày có ruộng" hay "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải cương quyết giành cho được độc lập"...
Ngay sau khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Hồ Chí Minh đã viết thư
kính cáo đồng bào, kêu gọi 20 triệu con Lạc, cháu Hồng nêu cao truyền thống
yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất, đoàn kết toàn dân đánh đuổi Pháp
- Nhật. Người chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng
cứu nòi giống ra khỏi nước sôi lửa bỏng" [13, tr.198].
Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
Người nhấn mạnh mục tiêu "dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết" và "không có
gì quý hơn độc lập tự do". Khi miền Bắc đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người nêu mục tiêu "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh"; mục tiêu "ai cũng có cơm ăn, ai cũng được học
hành"... Đó chính là những nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động cách
16


mạng thấm sâu vào lòng người, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Vì thế mà Người
luôn tập hợp được đông đảo mọi giai cấp, tầng lớp trong thực hiện các nhiệm
vụ cách mạng của đất nước.
Đối từng đối tượng, Hồ Chí Minh cũng rất sáng suốt và tài tình trong
việc chỉ ra những nội dung tuyên truyền, giáo dục và vận động đúng và phù
hợp. trong công cuộc kháng chiến, Người từng nói với các đối tượng như: Với
giai cấp công nhân là: chế nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và để
cung cấp cho nhân dân. Hợp tác với chuyên viên để cải tiến kỹ thuật và điều
kiện sản xuất, bảo vệ nhà máy, phá kinh tế địch bằng mọi cách. Với giai cấp
nông dân thì Người nói: Trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều bông để quân và
dân đủ ăn, đủ mặc, đủ dùng; bảo vệ mùa màng, cất giấu thóc lúa, sẵn sàng
tiếp tế lương thực cho quân đội và các cơ quan; tổ chức làng kháng chiến; chủ

ruộng giảm tô cho đúng, tá điền nộp tô cho đủ. Hoặc là với bộ đội: "Giết
nhiều giặc, cướp nhiều đồn, dụ nhiều hàng binh, đoạt nhiều vũ khí, hăng hái
tham gia cuộc vận động rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội" [15, tr.590591]. Hồ Chí Minh thấu hiểu tất cả, cảm thông tất cả, phấn đấu, hy sinh, vì tất
cả những ước mơ, khát vọng sâu lắng của dân tộc và của mỗi con người Việt
Nam. Chính vì vậy mà tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh có sức
mạnh vô địch, sức sống bất diệt đối với sự phát triển của cách mạng nước ta.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết thục quần chúng
đòi hỏi không những chỉ phương pháp thích hợp, mà còn phải có cách thức
thể hiện khoa học, cách sử dụng ngôn từ, cách trình bày, tác phong, đạo
đức...Không ai khác, chính Hồ Chí Minh là một mẫu mực, là tấm gương sáng
ngời trong việc sử dụng những cách thức đó. Người thường dùng những ngôn
từ dễ hiểu, cách viết ngắn gọn, súc tích, vừa rất bình dị nhưng cũng rất sâu
sắc. Nó gần gũi, thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của con người nên ai
cũng hiểu và làm theo một cách tự giác.
Hồ Chí Minh là bậc thầy trong công tác vận động quần chúng. Bản
thân Người tỏa sáng một mãnh lực tập hợp, nâng đỡ và dìu dắt nhân dân.
Đồng thời, Người cũng luôn hết lòng chăm lo bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ
17


cán bộ cách mạng kiểu mới có đủ năng lực và phẩm chất làm hạt nhân của
khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, phương pháp tổ chức có hiệu quả.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị, để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Trước hết Người
quan tâm kiện toàn không ngừng phát triển hệ thống chính trị "Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng". Sự thống nhất và bền vững của hệ thống
chính trị là yếu tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc. Quá trình xây dựng hệ thống chính trị gồm những nội dung cơ bản:
Về xây dựng Đảng cộng sản

Với vai trò là linh hồn của khối đại đoàn kết, Đảng cộng sản Việt Nam
vừa là một bộ phận trong khối đại đoàn kết, vừa là người lãnh đạo khối đại
đoàn kết dân tộc. Vì vậy, Người chỉ rõ, xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững
mạnh là yêu cầu trước hết để xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu, trước hết phải xây dựng Đảng
thật sự là một Đảng trí tuệ, "là đạo đức, là văn minh", Đảng phải là người địa
diện cao nhất cho trí tuệ của cả dân tộc. Hơn nữa, Đảng còn phải có đủ năng
lực tổng kết lý luận và thực tiễn, đề ra được đường lối chiến lược, sách lược
khoa học, phù hợp, "Đảng phải là một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn,
trong sạch và triệt để nhất".
Hồ Chí Minh cho rằng: "Đảng phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên
quyết, trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của cả dân
tộc Việt Nam, để đoàn kết và lãnh đạo dân tộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn, để thực hiện dân chủ mới" [16, tr.174-175].
Mục đích của Đảng có thể tựu lại trong tám chữ: "Đoàn kết toàn dân,
phụng sự Tổ quốc" [16, tr.83]. Để làm tốt vai trò hạt nhân đoàn kết, hạt nhân
đoàn kết, phải tiến hành xây dựng Đảng đảm bảo đoàn kết, thống nhất ý chí
cao, thống nhất cả trong tư tưởng và hành động, thống nhất từ trên xuống
dưới. Muốn vậy, phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên
18


tắc tự phê bình trong Đảng và tổ chức tốt công tác phê bình của nhân dân đối
với đảng viên và các tổ chức Đảng. Hồ Chí Minh luôn đề cao và cho rằng tự
phê bình và phê bình là một phương thức hữu hiệu nhất đảm bảo cho Đảng
khỏe mạnh. Đó cũng là bài học kinh nghiệm quý báu của mọi thành công,
Người nói: "Nội bộ ta phải đoàn kết, đoàn kết chặt chẽ, do đoàn kết chặt chẽ
trong Đảng mà đoàn kết ngoài Đảng, đoàn kết với nhân dân. Có như thế, khó
khăn gì cũng vượt qua, việc gì cũng làm được" [18, tr.397]. Người cũng chỉ ra
rằng: "Từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí

trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [22, tr.497].
Về xây dựng chính quyền cách mạng
Sau khi giành được chính quyền cách mạng thì khối đại đoàn kết dân
tộc phụ thuộc rất lớn vào vai trò của Nhà nước. Là cơ quan quản lý, tổ chức
và điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội, cho nên các chủ trương,
chính sách, việc làm của Nhà nước đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến tình cảm và lợi ích của nhân dân. Nhà nước là người cụ thế hóa đường lối
của Đảng vào cuộc sống, gắn kết nhân dân thành một khối để thực hiện mục
tiêu chiến lược của Đảng. Do vậy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến xây dựng
Nhà nước vững mạnh, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo
Người: "Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu
không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ
phải đoàn kết thành một khối" [14, tr.56]. Và Nhà nước muốn thực hiện được
chức năng của mình cần phải có đội ngũ cán bộ công chức. Cho nên việc xây
dựng đội ngũ công chức Nhà nước cả về trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức
là rất quan trọng. Hồ Chí Minh đã thấy rõ điều đó, nên Người thường xuyên
chăm lo tới công tác giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là giáo dục
lòng trung thành, tinh thần tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, thực sự là đầy
tớ, công bộc của dân. Chỉ có như vậy nhà nước mới thực sự là công cụ của
Đảng, là tổ chức đại diện cho quyền lực của nhân dân, mới được nhân dân tin
tưởng và ủng hộ.
19


Về xây dựng, hoàn thiện các tổ chức chính trị, các đoàn thể quần
chúng và các tổ chức xã hội
Một tổ chức rộng rãi nhất và có liên quan trực tiếp đến việc tập hợp,
đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là tổ chức tập hợp
các tổ chức chính, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Cho nên,
xây dựng Mặt trận càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất thì khối đại đoàn kết

dân tộc càng mạnh mẽ và bền chặt. Do vậy, việc xây dựng và củng cố các
đoàn thể và Mặt trận dân tộc thống nhất là vấn đề chiến lược của cách mạng.
Người khẳng định: "Chính sách Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong
toàn bộ công tác cách mạng...Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn
là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam" [20, tr.6065].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức rèn luyện và chăm lo xây
dựng Mặt trận cũng như sáng tạo nên các hình thức tập hợp quần chúng, theo
Người thì cần phải: xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng từ thấp đến
cao phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của quần chúng. Đa dạng hóa
các hình thức tổ chức sao cho phù hợp với đặc điểm từng lứa tuổi, nghề
nghiệp, giới tính.. của quần chúng. Có cương lĩnh, chương trình hành động rõ
ràng, thiết thực, nội dung hoạt động phải phong phú, phản ánh đúng nguyện
vọng và yêu cầu của nhân dân.
Thứ ba, phương pháp xử lý các mối quan hệ nhằm mở rộng trận
tuyến cách mạng và thu hẹp trận tuyến thù địch
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp này là sự kết hợp đồng bộ,
hiệu quả giải pháp ứng xử sao cho có thể mở rộng đến mức cao nhất trận
tuyến cách mạng và thu hẹp tới mức tối đa trận tuyến thù địch. Phương pháp
này hướng vào việc xử lý mối quan hệ: Cách mạng - trung gian - phản cách
mạng. Phương pháp này bao hàm sự kết hợp giữa chiến lược và sách lược, sự
cắn rắn về nguyên tắc và sự mềm dẻo, linh hoạt trong các giải pháp, biện pháp
tình thế tùy theo tình hình của từng giai đoạn.
20


Với lực lượng nòng cốt là giai cấp nông dân và giai cấp công nhân.
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là khai thác, phát huy sự
thống nhất, tương đồng, hạn chế, khắc phục và xóa bỏ dần những khác biệt
trong mục tiêu lợi ích. Đoàn kết, thống nhất lực lượng này là điều kiện trước

hết cho việc thu hút, tập hợp lực lượng vào trận tuyến cách mạng và cô lập
lực lượng thù địch. Hồ Chí Minh xác định lực lượng trung gian bao gồm:
những trí thức yêu nước, nhân sĩ yêu nước, tầng lớp quan lại, địa chủ phong
kiến. Người chỉ ra phương pháp là phải hết sức tranh thủ, lôi kéo, xóa bỏ
thành kiến, trọng tài năng của họ để khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức dân
tộc và trọng dụng họ. Chính nhờ vậy mà lực lượng cách mạng càng thêm
đông đảo và từng bước cô lập các lực lượng thù địch.
Đối với các thế lực thù địch, các lực lượng phản cách mạng: Phương
pháp Hồ Chí Minh rất rõ ràng. Với bọn đế quốc xâm lược thì Người chỉ ra cần
phải "kiên quyết, không ngừng thế tấn công", "hễ còn một tên nào trên đất
nước ta thì phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi". Với bọn quan lại, binh
lính và những kẻ lầm đường lạc lối, nếu biết ăn năn hối cải thì Người đưa ra
chính sách khoan hồng, đại độ và Người cho rằng dù sao họ cũng là dòng dõi
tổ tiên ta, là con dân nước Việt.
Như vậy phương pháp Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa chiến lược và
sách lược, là "dĩ bất biến, ứng vạn biến", vừa thể hiện sự cứng rắn, vừa mềm
dẻo, linh hoạt tùy tình hình của mỗi giai đoạn cụ thể của cách mạng. Đại đoàn
kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập làm suy
yếu kẻ thù. Phương pháp đó đã giúp Đảng ta thu nhiều thành công trong xây
dựng, củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng như
giành được nhiều thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam.

21


Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Khái quát tình hình và đặc điểm của khối đại đoàn kết dân tộc

2.1.1 Tình hình trong nước và quốc tế
Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006 -2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức
đều lớn, đan xen nhau.
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo;
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh; đầu tư, lưu
chuyển hàng hóa, dịch vụ lao động và vốn ngày càng mở rộng. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và
sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế
tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực ngày càng mở rộng tạo
thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố
phức tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động
khủng bố quốc tế có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới.
Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào
cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển. Thị trường tài
chính, tiền tệ và giá cả thế giới còn diễn biến phức tạp. Các vấn đề mang tính
toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng
lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo... sẽ càng trở nên gay gắt hơn.
Ở trong nước, chúng ta có nhiều thuận lợi rất cơ bản là những thành
tựu to lớn và những bài học kinh nghiệm quan trọng sau 20 năm đổi mới,
22


nhưng cũng còn nhiều yếu kém, đặc biệt là nền kinh tế đang ở trình độ phát
triển thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu, còn tụt hậu khá xa so với nhiều
trong khu vực, chưa vượt ra khỏi nhóm các nước đang phát triển có thu nhập
thấp; trong khi nhu cầu về phát triển nhanh và bền vững rất cấp bách, yêu cầu

về hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng khẩn trương và sâu
rộng hơn.
Tình hình trên đây đặt ra cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta trong các năm tiếp theo nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân phải có quyết tâm cao với các giải pháp thật quyết liệt mới có
thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 đã đề ra.
2.1.2. Đặc điểm của khối đại đoàn kết
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta đang đứng trước thời cơ và vận
hội mới, cùng đan xen khó khăn và thách thức mới. Vấn đề dân tộc và quan
hệ dân tộc đã và đang có những diễn biến phức tạp và gay gắt ở nhiều quốc
gia trên thế giới, xung đột dân tộc trở nên phổ biến và nhạy cảm ở nhiều quốc
gia, khu vực
Đối với Việt Nam, trong vấn đề đại đoàn kết toàn dân, các vấn đề dân
tộc và tôn giáo có tính đặc thù quan trọng. Nước ta có 54 dân tộc anh em,
trong đó có nhiều dân tộc thiểu số sống xen kẽ nhau trên nhiều vùng rộng lớn
và là địa bàn trọng yếu. Nước ta cũng có nhiều tôn giáo lớn, với khoảng hơn
1/4 số dân theo đạo. Giải quyết tốt và có chính sách đứng đắn về các vấn đề
dân tộc và tôn giáo sẽ là một đóng góp lớn vào việc mở rộng và tăng cường
hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới. Để phát huy được sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì chúng ta cần phải
thấy rõ những nguy cơ thách thức đối với khối đại đoàn kết dân tộc ở nước
ta hiện nay.
23


Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và
đang đứng trước nhiều thách thức. Các vụ kiện đông người vẫn còn nhiều,

thậm chí gay gắt và tình hình phức tạp còn biểu hiện ở nhiều nới, số vụ đình
công của công nhân ngày một gia tăng. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn
chưa hoàn toàn lôi kéo được mọi người dân, tình trạng đứng ngoài đoàn thể
vẫn còn phổ biến. Hơn 60% công nhân lao động khu vực tư nhân, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài chưa vào công đoàn, hơn 1/3 số hộ nông dân chưa vào
Hội Nông dân. Tỷ lệ thanh niên được tập hợp trong các tổ chức do Đoàn
thanh niên làm nòng cốt còn qua thấp. Chất lượng hoạt động của các tổ chức
quần chúng vẫn còn nhiều yếu kém.
2.2. Thực trạng của khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay
2.2.1 Những thành tựu đã đạt được
Trong những năm qua, đặc biệt là từ khi đất nước ta thực hiện đường
lối đổi mới đất nước(Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 - 1986),
vấn đề đại đoàn kết dân tộc luôn được Đảng quan tâm tại các Đại hội địa biểu
toàn quốc, ngoài ra Đảng còn ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị trực tiếp
bàn về đại đoàn kết dân tộc, về Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đồng thời
các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhanh
chóng được triển khai có hiệu quả trên thực tế, Quốc hội đã ban hành nhiều
bộ luật và các văn bản pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết.
Trong các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thì Đại hội IX năm
2001 có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc, với chủ đề
"phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Sự quan tâm này gắn liền với quá trình Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc
hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng đại đoàn kết dân tộc.
Ngoài các nghị quyết Đại hội còn có rất nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng
chuyên bàn về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Điển
24



hình là Nghị quyết 8B BCH Trung ương khóa VI ban hành ngày 27/3/1990,
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị ban hành ngày 17/11/1993 "Về đại đoàn kết
dân tộc và tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất", Nghị quyết Hội nghị làn
thứ bảy Trung ương khóa IX ngày 12/3/2003 "Về phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Dưới ánh sáng của tư tưởng đó, cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng
sản Việt Nam, nhân dân ta đa thực hiện và phát huy tốt vấn đề đại đoàn kết
dân tộc trong công cuộc đổi mới với nhiều thành tựu to lớn. Qua nghiên cứu
có thể khái quát như sau:
Trong lĩnh vực kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, toàn
dân ta đã phát huy tốt sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để tiến hành sự nghiệp
CNH - HĐH đất nước. Đánh giá chung từ thực hiện đổi mới, về cơ bản nước
ta đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo, khủng hoảng kinh tế được khắc phục,
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có bước
phát triển mạnh mẽ, kinh tế đối ngoại được mở rộng...đời sống của nhân dân
được nâng lên rõ rệt. Cụ thể, theo đánh giá của Đại hội X, mức tăng trưởng
kinh tế hàng năm trung bình đạt 7,5% thu nhập bình quân đầu người tính đến
nay đã đạt hơn 10 triệu đồng mỗi người mỗi năm (khoảng 640 USD), tỉ lệ hộ
nghèo giảm xuống còn 7%. Sự chênh lệch giữa thành thị, nông thôn và miền
núi được rút ngắn. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh, phong phú, đa dạng tạo
ra nhiều chủng loại hàng hóa đáp ứng tiêu dùng của nhân dân. Tỉ trọng xuất
nhập khẩu tăng nhanh. Chúng ta đã có nhiều ngành, nhiều mặt hàng xuất khẩu
có giá trị cao góp phần nâng cao tổng thu nhập quốc dân. Tất cả những thành
công đó đều là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của việc phát huy khối đại
đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về chính trị - xã hội thì những năm đổi mới vừa qua, Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta luôn nêu cao ngọn cờ độc lập và đại đoàn kết dân tộc, cho nên
chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo điều kiện thuận lợi để đất
nước phát triển. Nền dân chủ được phát huy rộng rãi, nhân dân thực sự đã
tham gia vào công việc quản lý điều hành Nhà nước thông qua quyền bầu cử,

25


×