Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG KHỐI đoàn kết dân tộc THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH ở đắk lắk HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.73 KB, 103 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

Chữ viết đầy đủ
Bộ chỉ huy quân sự
Cao uỷ Liên hiệp quốc về người tị nạn
Cam - pu - chia
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa xã hội
Dân tộc thiểu số
Đảng Cộng sản
Đoàn kết dân tộc
Hà Nội


Hội đồng nhân dân
Nhà xuất bản
Trang
Uỷ ban nhân dân
Vườn, ao, chuồng
Vườn, ao, chuồng, rừng
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BCHQS
UNHCR
CPC
CTQG
CNTB
CNXH
DTTS
ĐCS
ĐKDT
H
HĐND
Nxb
tr
UBND
VAC
VACR
XHCN


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
Chương

3
XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY -

1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN

11
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết dân
tộc và những vấn đề cơ bản trong xây dựng khối đoàn
kết dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay
1.2 Thực trạng xây dựng khối đoàn kết dân tộc theo tư

11

tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay và nguyên nhân
của thực trạng đó
Chương

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG

2

KHỐI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC THEO TƯ TƯỞNG HỒ


29

CHÍ MINH Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY

54
2.1 Yêu cầu xây dựng khối đoàn kết dân tộc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay

54

2.2 Giải pháp tiếp tục xây dựng khối đoàn kết dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay

64

KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

PHỤ LỤC

95


3
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKDT, xây dựng khối ĐKDT là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản về mối quan hệ tộc
người, vai trò, mục tiêu, nội dung, nguyên tắc, lực lượng, con đường, biện pháp
tăng cường hợp tác, gắn bó giữa các tộc người ở Việt Nam; là kết quả sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc, giải quyết vấn đề
dân tộc vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển những truyền
thống xây dựng khối đoàn kết tốt đẹp của dân tộc; tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho quá trình xây dựng khối ĐKDT của nhân dân ta, là tài sản tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta, là cơ sở, nền tảng lý luận trực tiếp quyết định tính
đúng đắn, khoa học của việc xây dựng khối ĐKDT trên cả nước nói chung ở
Đắk Lắk nói riêng.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc nên xây dựng khối ĐKDT - bộ phận của
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một truyền thống quý báu trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, khắc phục thiên tai, bảo vệ và xây dựng đất nước; là
nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Thực tiễn đã chứng minh lúc nào khối ĐKDT được xây dựng vững chắc thì lúc đó
đất nước cường thịnh, ngược lại, lúc nào khối ĐKDT bị chia rẽ thì đất nước suy yếu,
thậm chí tiêu vong. Do đó, xây dựng khối ĐKDT nói chung, xây dựng khối ĐKDT
theo tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, nơi có số lượng các dân tộc cao nhất cả
nước, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng,
an ninh của khu vực Tây Nguyên. Trong những năm qua, khối ĐKDT ở Đắk
Lắk ngày càng được xây dựng vững chắc, tình hình kinh tế - xã hội đã có những
chuyển biến quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc
ngày càng được nâng cao, chính trị ổn định, xã hội từng bước phát triển, quốc


4

phòng - an ninh được giữ vững. Tuy vậy, quan hệ dân tộc ở đây vẫn còn những
tồn tại, hạn chế nhất định, đang tiềm ẩn những vấn đề phức tạp ảnh hưởng tiêu
cực đến xây dựng khối ĐKDT, các thế lực thù địch núp dưới danh nghĩa cái gọi
là “Tin Lành Đề ga” đang ra sức lợi dụng những khó khăn, bức xúc của đồng
bào các dân tộc nhằm kích động tư tưởng kỳ thị dân tộc, chia rẽ các tộc người,
các cộng đồng dân tộc, gây mâu thuẫn, chia rẽ, mất ổn định an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, phá hoại khối ĐKDT trên địa bàn. Do đó, xây dựng khối
ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay có vị trí, vai trò rất quan
trọng góp phần phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng khối đoàn kết dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học vừa có tính lý luận, vừa có ý
nghĩa thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, ĐKDT nói riêng là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn mới hiện nay; là
chiến lược tập hợp các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nhằm hợp
thành sức mạnh to lớn để đấu tranh với kẻ thù của dân tộc, giai cấp, với đói
nghèo, lạc hậu. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết khoa
học đề cập dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau, khá toàn diện và sâu sắc, tập
trung chủ yếu trên các vấn đề:
* Về chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc
Đây là vấn đề lớn, mang tính chiến lược nên có nhiều công trình, đề tài,
bài viết đề cập khá sâu sắc, tiêu biểu như các công trình sau:


5
Trong sách: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Phùng Hữu Phú, (chủ

biên), Nxb CTQG, H, 1995, các tác giả đã nêu lên quá trình hình thành chiến lược
đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN;
phân tích một số nội dung cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Bằng
những lập luận khoa học, kết hợp với kiểm chứng của lịch sử các tác giả đã khẳng
định: trong suốt hơn nửa thế kỷ qua tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ tư
tưởng của ĐCS Việt Nam, đã thấm vào trong suy nghĩ, hành động của tất cả người
Việt Nam yêu nước và hoá thành sức mạnh, thành động lực phát triển của cả dân
tộc. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận trong đường lối
chiến lược của Đảng, nguồn sức mạnh vật chất đảm bảo thắng lợi cho cách mạng,
vượt ra khỏi khuôn khổ tư tưởng thuần tuý, thực sự trở thành chiến lược cách mạng
- chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
* Về quan điểm, chính sách dân tộc, đoàn kết dân tộc
Các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này, trong đó có những
công trình nghiên cứu chuyên sâu:
Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Phan Xuân
Sơn, Lưu Văn Quảng (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, H, 2006. Các tác giả đã
đưa ra quan niệm về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc; trình bày chính sách
dân tộc, ĐKDT của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng; nêu lên những vấn đề
nổi cộm trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc như: vấn đề đất đai, định
canh, định cư, nghèo đói, y tế và giáo dục, hệ thống chính trị ở vùng DTTS, chống
phá của các thế lực thù địch ở vùng đồng bào DTTS… Đồng thời, đề xuất một số
biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc, ĐKDT hiện nay.
Trong công trình “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam” (2004),
GS. TS Phan Hữu Dật đã đưa ra cách tiếp cận hợp lý về khái niệm dân tộc,
nguồn gốc, quá trình hình thành một số dân tộc ở Việt Nam, đặc điểm kinh tế xã hội của một số vùng dân tộc thiểu số, quan hệ dân tộc ở nước ta… Đây là


6
những vấn đề nghiên cứu góp phần làm cơ sở cho Đảng, Nhà nước ta tham khảo
để hoạch định chính sách dân tộc, xây dựng khối ĐKDT.

Đề án: “Một số chính sách phát triển kinh tế trang trại” giai đoạn 2010 2015 của UBND tỉnh Đắk Lắk (2009) đã khái quát tình hình phát triển kinh tế trang
trại, chỉ ra một số tồn tại, khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế trang trại hiện
nay; xác định quan điểm, mục tiêu phát triển kinh tế trang trại cùng một số giải
pháp, chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 - 2015,
những cơ sở để góp phần xây dựng khối ĐKDT ở Đắk Lắk hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay,
của Nguyễn Sỹ Họa luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quân sự,
2006, tác giả đã bàn tới tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng dân tộc,
đề cập đến ĐKDT, tương trợ giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, đánh giá thực
trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước ta, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn sự
bình đẳng dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, góp
phần phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thành công CNXH
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bài báo “Vấn đề dân tộc và đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”, của Nguyễn Anh Tuấn, Tạp chí Cộng sản số 13
(181) năm 2009, đã khái quát một số khó khăn cần tiếp tục giải quyết, một số
giải pháp trước mắt cần tiếp tục thực hiện trong quá trình xây dựng khối đoàn
kết dân tộc ở Đắk Lắk; trong đó thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội ở các huyện biên giới khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp
cơ bản, lâu dài và có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện chính sách dân
tộc trên địa bàn tỉnh. Khẳng định vấn đề dân tộc và đấu tranh chống địch lợi


7
dụng vấn đề dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là một nhiệm vụ trọng tâm, then
chốt, vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài, đòi hỏi cần có sự
tỉnh táo, sáng suốt với những biện pháp đồng bộ trong quá trình thực hiện. Đây
là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay.

Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương Bảy (Khoá IX) tháng 3 năm 2003, lần
đầu tiên Đảng ta ra Nghị quyết chuyên đề “Về công tác dân tộc”, nhằm khẳng
định vị trí vai trò chiến lược cơ bản, lâu dài về vấn đề dân tộc, ĐKDT, thành tựu,
hạn chế công tác dân tộc trong thời gian qua, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân của thực trạng đó; đồng thời, xác định những quan điểm, nguyên
tắc, mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện công tác dân tộc trong thời gian tới.
Các công trình khoa học trên đã đề cập đến những khía cạnh, với những
đối tượng, ở phạm vi khác nhau, là những tài liệu quan trọng để tác giả tham
khảo, kế thừa trong nghiên cứu luận văn này. Nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội một cách căn bản, hệ thống ở một
địa bàn cụ thể về vấn đề: Xây dựng khối đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay. Vì vậy đề tài luận văn không trùng lắp với
các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng khối ĐKDT, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng
của Người trong xây dựng khối ĐKDT ở tỉnh Đắk Lắk; đề xuất những yêu
cầu, giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng khối ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở Đắk Lắk hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối ĐKDT.
- Đánh giá thực trạng xây dựng khối ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
Đắk Lắk những năm qua và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất những yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng khối ĐKDT theo
tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay.


8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng:

Xây dựng khối ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Các số liệu nghiên cứu, điều tra lấy từ năm 2003 (khi có Nghị quyết
Trung ương 7 khoá IX) nhưng chủ yếu lấy từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận:
Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc, xây dựng
khối ĐKDT.
Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn sự nghiệp xây dựng khối ĐKDT ở Đắk Lắk từ năm 2003 đến
nay, thông qua các số liệu tổng kết, đánh giá trong các văn kiện nghị quyết, chỉ
thị của Đảng; số liệu đánh giá của Ban Dân tộc tỉnh; các chỉ thị của Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh Đắk Lắk và kết quả điều tra, khảo sát của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn,
với các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh - thống kê,
điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa nghiên cứu của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng khối ĐKDT; đánh giá thực trạng và xác định những yêu
cầu, giải pháp chủ yếu xây dựng khối ĐKDT ở Đắk Lắk hiện nay góp thêm cơ
sở cho lãnh đạo, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Đắk Lắk trong
xây dựng khối ĐKDT hiện nay.


9
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu

tham khảo và phụ lục.

Chương 1
XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết dân tộc và
những vấn đề cơ bản trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Đắk Lắk hiện
nay
Ở Việt Nam dân tộc được hiểu theo 2 nghĩa chính:
Theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát
triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có chung nguồn gốc nhân chủng,
ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác dân tộc.
Theo nghĩa thứ hai, dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội, được chỉ
đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định - quốc gia dân tộc.
Ngoài ra theo Từ điển Tiếng Việt dân tộc còn được nói tắt, với hàm ý chỉ
các DTTS, như chúng ta thường nói ai đó là người dân tộc, quan tâm đồng bào
dân tộc… và ngay cả chính sách dân tộc cũng nhằm chủ yếu hướng đến đối
tượng thụ hưởng là đồng bào các DTTS, người DTTS.
Như vậy, với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận trong quốc gia đa dân
tộc; với nghĩa thứ hai dân tộc bao hàm toàn bộ nhân dân của quốc gia đó. Đề tài
luận văn này tiếp cận vấn đề ĐKDT theo nghĩa đoàn kết các tộc người ở Đắk Lắk.


10
Theo Từ điển Chính trị vắn tắt: Đoàn kết là hợp nhiều người thành một
khối vững chắc, cùng một lòng một dạ nhất trí với nhau; sự ủng hộ các phong
trào, các tổ chức, cá nhân trên cơ sở quan điểm và lợi ích gần nhau hoặc thống
nhất; sự phối hợp hoạt động và hành động vì một mục đích chung [48, tr.232].
Trong phạm vi luận văn, tác giả chủ yếu đề cập vấn đề xây dựng khối

ĐKDT theo nghĩa đoàn kết tộc người, theo đó, ĐKDT là sự kết hợp, gắn bó tất cả
các tộc người trong cộng đồng dân tộc không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số,
trình độ phát triển cao hay thấp, nguồn gốc dân tộc và địa vực cư trú... thành một
khối vững chắc, ổn định, lâu dài trên cơ sở thống nhất về mục tiêu và những lợi ích
chung căn bản, để góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng do ĐCS Việt Nam lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối ĐKDT là một bộ phận trong tư
tưởng ĐKDT của Người, hình thành trên cơ sở kế thừa, phát triển truyền thống
ĐKDT; sự tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết và tập hợp
lực lượng cách mạng, phản ánh đặc điểm dân tộc Việt Nam; là những yêu cầu, đòi
hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam, là kết quả đúc kết từ cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì hạnh phúc cho nhân
dân; đó là hệ thống những vấn đề có tính nguyên tắc chỉ rõ mục tiêu, nội dung, lực
lượng, biện pháp tập hợp gắn bó tất cả các tộc người trong cộng đồng dân tộc
không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, trình độ phát triển cao hay
thấp, nguồn gốc dân tộc và địa vực cư trú... thành một khối vững chắc, ổn định,
lâu dài trên cơ sở thống nhất về mục tiêu và những lợi ích chung căn bản, để góp
phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng do ĐCS Việt Nam lãnh đạo. Cùng với quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin về dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng khối ĐKDT là nền tảng, kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta nói chung, cấp
bộ Đảng, chính quyền các cấp nói riêng hoạch định và thực thi chính sách ĐKDT.


11
Dưới đây, tác giả sẽ tập trung làm rõ những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí
Minh về xây dựng khối ĐKDT và những vấn đề chính trong xây dựng khối
ĐKDT ở Đắk Lắk hiện nay.
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết dân tộc
Tư tưởng xây dựng khối ĐKDT của Hồ Chí Minh có nội hàm rộng lớn,

phong phú, sinh động, nhiều góc độ, có thể khái quát trên một số vấn đề cơ bản sau:
* Xây dựng khối đoàn kết dân tộc có vai trò rất quan trọng, vừa là mục
tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐKDT có vai trò rất quan trọng. Xuất phát
từ đặc điểm nước ta là một nước gồm nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, lại
chịu tác động của chính sách “chia để trị” của các thế lực thù địch xâm lược, do đó
ngay khi còn hoạt động ở nước ngoài Người đã chỉ rõ: “nguyên nhân đầu tiên gây
ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là SỰ BIỆT LẬP” [20, tr.263].
Nghiên cứu thực tiễn đấu tranh cách mạng thế giới và trong nước, Người
khẳng định ĐKDT là điều kiện quan trọng để đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc: “Hiện thời, muốn đánh Pháp, Nhật ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết”
[21, tr.198], trong đó có đoàn kết các dân tộc.
Từ đó, dưới sự chỉ đạo của Người, ĐCS Việt Nam đã ra sức lôi kéo, tập
hợp, động viên nhân dân các dân tộc cả nước đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc
thống nhất, một lòng đi theo Đảng vùng lên đấu tranh giành độc lập hoàn toàn.
Cách mạng tháng Tám thành công đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ
nguyên mới “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Lần đầu tiên nhân
dân các dân tộc Việt Nam từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả của nhiều nguyên nhân trong đó
có nguyên nhân quan trọng là sự đoàn kết nhất trí của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chính là sự đoàn kết, đoàn kết hoàn toàn và không gì phá vỡ nổi của toàn thể


12
nhân dân chúng ta đã khai sinh ra nước Cộng hoà của mình” [26, tr.283]. Người
cho rằng: “Có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được độc lập,
tự do” [22, tr.553], trong khối đoàn kết đó có sự đoàn kết giữa các dân tộc.
Đoàn kết dân tộc có vai trò rất quan trọng, Người viết: “Nhờ sức đoàn kết
tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc

lập, các DTTS được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh em
trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước
kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập
càng cần đoàn kết hơn nữa” [23, tr.110].
Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các dân tộc không phân biệt là dân
tộc lớn hay dân tộc nhỏ phải đoàn kết chặt chẽ, phải thương yêu, quý mến nhau
như anh em trong một nhà để đánh thắng kẻ thù xâm lăng, giữ gìn độc lập tự do
cho toàn dân tộc, Tổ quốc Việt Nam có được giải phóng thì các dân tộc trong đại
gia đình dân tộc Việt Nam cũng mới được giải phóng. Người căn dặn: “Trước
kia bọn thực dân phong kiến chia rẽ chúng ta, chia rẽ các dân tộc, xúi dục dân
tộc này hiềm khích, oán ghét dân tộc khác để chúng áp bức, bóc lột chúng ta.
Nay chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ” [30, tr.226].
Trong các bài nói và viết của mình về vấn đề dân tộc, bao giờ Hồ Chí Minh
cũng nhắc đến vai trò của ĐKDT, đồng thời yêu cầu của mọi cán bộ đảng viên
phải thực sự gương mẫu xây dựng khối ĐKDT: “Muốn làm tốt công tác này, cán
bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động phải gương mẫu” [33, tr.418].
Xây dựng khối ĐKDT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành: “Mỗi ngành, mỗi bộ ở trung ương cần nhận rõ phần trách nhiệm của mình
đối với miền núi và chú trọng hơn nữa công tác ở miền núi” [34, tr.612].
* Xây dựng khối ĐKDT phải dựa trên cơ sở khách quan là: các dân tộc
đều có chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ bản là chủ quyền quốc gia,
độc lập dân tộc thống nhất đất nước, có chung chính phủ thống nhất đại diện
cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam


13
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khối ĐKDT được hình thành và phát triển
trên cơ sở tất cả các dân tộc không phân biệt địa vực cư trú, ngôn ngữ, văn hoá,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội v.v. đều có chung cội nguồn sâu xa là con Lạc,
cháu Hồng, từ “bọc đẻ trăm trứng” do Mẹ Âu cơ sinh ra, đều là con dân nước

Việt, gắn bó với những truyền thống tốt đẹp lâu đời trong lịch sử đấu tranh dựng
và giữ nước của dân tộc. Qua thời gian và những thử thách cam go, các thế hệ
dân tộc Việt Nam ngày càng sinh sôi, không ngừng khai phá, mở rộng lãnh thổ,
đoàn kết cùng nhau đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm
bảo tồn nòi giống, phát triển quốc gia dân tộc. Do đó, trong tư tưởng của mình
về ĐKDT Hồ Chí Minh luôn khẳng định 54 dân tộc sinh sống trên đất nước Việt
Nam đều là anh em một nhà, là thành viên không thể chia cắt của đại gia đình
các dân tộc Việt Nam. Trong thư gửi Đại hội các DTTS miền Nam tại Plâycu
ngày 19/4/1946 Người chỉ rõ: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Giarai hay Êđê, Xê đăng hay Bana và các DTTS khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau,
no đói giúp nhau” [24, tr.217].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐKDT phải được xây dựng vững chắc trên
cơ sở những lợi ích chung và vận mệnh của tất cả các dân tộc.
Lợi ích chung là vấn đề cốt lõi, là động cơ, là chất kết dính toàn dân tộc
thành một khối thống nhất cùng đồng tâm, hiệp lực thực hiện những nhiệm vụ
của dân tộc. Lợi ích chung của toàn thể dân tộc Việt Nam là chủ quyền quốc gia,
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Do thống nhất được những lợi ích cơ bản
đó mà trong hàng ngàn năm lịch sử, các dân tộc Việt Nam đã đoàn kết keo sơn,
kề vai sát cánh, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vững mạnh.
Người nói: “Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do.
Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ” [27, tr.485].
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Chính phủ chung của các dân
tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam, là cơ sở vật chất, thiết chế quan trọng để


14
hoạch định, thực thi ĐKDT, xây dựng và phát triển đất nước. Hồ Chí Minh khẳng
định:
“Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta.

Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để
ủng hộ Chính phủ ta...
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ
giảm bớt [24, tr.217].
Trong điều kiện ĐCS Việt Nam lãnh đạo xây dựng chính quyền, Nhà nước
là thiết chế quan trọng giúp nâng cao đời sống mọi mặt cho các dân tộc. Người
viết: Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ
đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “Nha dân tộc thiểu số” để chăm sóc cho tất
cả đồng bào. Hồ Chí Minh khẳng định phải xây dựng một nhà nước của toàn dân
đoàn kết, thống nhất trong toàn quốc, mang tính liên hiệp, tính thực tế, liêm khiết,
hiệu quả: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ của toàn dân đoàn kết và tập
hợp nhân tài không đảng phái.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng khối ĐKDT được đặt
trên cơ sở vững chắc của những điểm tương đồng về nguồn gốc, nòi giống,
chung vận mệnh quốc gia dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã biết cách khơi dậy, đánh thức và tôn trọng các cơ sở chung
đó nên đã tập hợp, xây dựng được khối ĐKDT tạo nên sức mạnh to lớn, đưa sự
nghiệp cách mạng nước ta tới bến bờ thắng lợi.
* Xây dựng khối ĐKDT hướng đến mục tiêu chung phù hợp với các dân tộc
ở Việt Nam: tạo sức mạnh tổng hợp cho dân tộc Việt Nam nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng con người, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - XHCN trên đất
nước ta, đưa các dân tộc đi lên con đường phồn vinh, văn minh hạnh phúc
Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Người viết: “Bốn năm trước đây, tôi
có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực
lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO...
Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập” [22, tr.553 - 554].


15
Để thực hiện được mục tiêu đó, Người đã làm hết sức mình, tuyên truyền,

vận động các dân tộc phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam, xây
dựng, củng cố khối ĐKDT; chỉ đạo, tổ chức ra các mặt trận, các hội để tập hợp,
đoàn kết mọi dân tộc không phân biệt già, trẻ, gái, trai, vùng, miền cùng đồng
tâm hiệp lực, chung sức chung lòng, đánh thực dân phong kiến, giành độc lập, tự
do cho dân tộc.
Việt Nam là quốc gia gồm nhiều dân tộc sinh sống, luôn kề vai sát cánh
trong lịch sử dựng và giữ nước; đứng trước âm mưu của kẻ thù luôn tìm cách
thôn tính, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các dân tộc không phân biệt DTTS hay
dân tộc đa số phải đoàn kết chặt chẽ, yêu thương quý mến nhau như anh em
trong một nhà để cùng nhau đánh giặc, giữ gìn độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc. Tổ quốc Việt Nam được giải phóng thì các dân tộc trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam mới được giải phóng, vì vậy, đồng bào các dân tộc phải đoàn
kết chặt chẽ tạo sức mạnh to lớn để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ vững quyền
độc lập cho đất nước và cho các dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng khối ĐKDT không chỉ để tạo nên
sức mạnh vô địch chiến thắng kẻ thù, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
mà còn nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp cách mạng của Đảng:
đưa nước ta trở thành nước XHCN. Bởi theo Hồ Chí Minh, xây dựng khối
ĐKDT là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng, vừa là yêu cầu, là thuộc
tính đặc trưng của CNXH; xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng khác hẳn về
chất so với các xã hội bóc lột trước đó, là xã hội duy nhất có thể đem lại hạnh
phúc, ấm no và tình đoàn kết gắn bó thật sự cho các dân tộc, mọi người dân.
Trong xã hội mới này, các dân tộc cùng có cuộc sống hạnh phúc, đoàn kết, vui
vẻ, không có sự kỳ thị, phân biệt; không còn cảnh dân tộc lớn đè nén, “ăn hiếp”,
áp bức dân tộc bé theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Người chỉ rõ: “Đồng bào tất cả
các dân tộc, không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải
đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung,


16

xây dựng CNXH làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no” [32,
tr.282].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng khối ĐKDT để tạo sức
mạnh to lớn của toàn dân tộc, đánh thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc,
giải phóng nhân dân khỏi chế độ áp bức, bóc lột, bất công; đồng thời còn nhằm
xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Đây là mục tiêu xuyên suốt trong
quá trình lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.
* Xây dựng khối ĐKDT phải tuân thủ các nguyên tắc: giữ vững độc lập
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng khối ĐKDT phải chặt chẽ, rộng
rãi, lâu dài trên cơ sở lợi ích chung thống nhất của quốc gia và lợi ích của các
dân tộc; đoàn kết gắn liền với thực hiện quan hệ dân tộc bình đẳng, tôn trọng,
thương yêu, giúp đỡ; đoàn kết trên cơ sở tôn trọng văn hoá, phong tục, tập
quán; kiên quyết chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi
Giữ vững độc lập dân tộc do Đảng lãnh đạo là nguyên tắc thể hiện tư duy
biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa ĐKDT với độc lập dân tộc
dưới sự lãnh đạo cách mạng của ĐCS. Theo Người: Tổ quốc là Tổ quốc chung.
Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu nước mất thì ai cũng phải làm nô lệ.
Chỉ khi nào giữ vững được độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng thì
khối ĐKDT mới được xây dựng vững chắc, trở thành nguồn động lực to lớn
thúc đẩy thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta. Vì
vậy, Người khẳng định tính thống nhất, đa dạng nhưng luôn gắn bó chặt chẽ
nhau của các dân tộc ở Việt Nam: “Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều
dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một
lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh
để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp” [31, tr.587].


17
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của

giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam mà còn là đội tiên phong, lãnh tụ
chính trị của các dân tộc Việt Nam; mục tiêu, lợi ích của Đảng cũng chính là mục
tiêu, lợi ích của các dân tộc Việt Nam nên xây dựng khối ĐKDT phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Người viết: “Đảng và Chính phủ ta luôn luôn kêu gọi các dân
tộc xoá bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt
chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [31, tr.587].
Đây chính là nguyên tắc bất di, bất dịch của Hồ Chí Minh trong xây dựng
khối ĐKDT, đảm bảo khối ĐKDT luôn lấy độc lập dân tộc làm ngọn cờ để quy
tụ, lôi cuốn tập hợp lực lượng đông đảo các dân tộc thành một khối vững chắc.
Xây dựng khối ĐKDT phải chặt chẽ, rộng rãi, lâu dài trên cơ sở lợi ích
chung thống nhất của quốc gia và lợi ích của các dân tộc
Lợi ích chung thống nhất của quốc gia dân tộc và lợi ích của các dân tộc
chính là mẫu số chung, là điểm tương đồng, là cái đích để xây dựng khối ĐKDT
vững mạnh, từ đó mà chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích
chung cơ bản.
Trong nhiều bài nói chuyện với đồng bào DTTS các tỉnh miền núi, Hồ Chí
Minh thường nhấn mạnh đến nguyên tắc phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi, nhằm
đem lại cuộc sống ấm no cho tất cả các dân tộc. Người thường nhắc: Đồng bào tất
cả các dân tộc, không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải
đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung,
xây dựng CNXH, làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc ấm no.
Thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào lợi ích chung thống nhất của quốc gia và
lợi ích của các dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau thì khối ĐKDT mới trở nên bền
chặt. Nguyên tắc này phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân các dân
tộc, trở thành tư tưởng chỉ đạo cho Đảng ta trong xây dựng khối ĐKDT trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.


18
Xây dựng khối ĐKDT phải trên cơ sở tôn trọng văn hoá, phong tục, tập

quán; kiên quyết chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, chia rẽ dân tộc
Mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có đặc điểm, bản sắc văn
hoá, phong tục, tập quán riêng. Do đó để xây dựng khối ĐKDT Hồ Chí
Minh yêu cầu phải tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc, tránh thái độ miệt
thị, coi thường văn hoá, phong tục, tập quán của dân tộc khác; lấy việc xoá
bỏ thành kiến do lịch sử để lại, thực hiện bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc làm nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây
dựng khối ĐKDT ở nước ta. Người viết: “Ngày nay, các dân tộc anh em
chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hoá của mình thì chúng ta phải
tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp
đỡ nhau như anh em một nhà” [29, tr.496].
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ trong xây dựng khối ĐKDT phải chủ động,
tích cực đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành động chia rẽ dân tộc: “Nếu kẻ
nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó” [30, tr.226].
Những nguy cơ gây mất ĐKDT xuất phát từ nhiều phía và thường biểu
hiện ở tư tưởng dân tộc lớn, xem thường dân tộc nhỏ, sô vanh dân tộc hoặc tư
tưởng dân tộc hẹp hòi, cục bộ, kỳ thị, miệt thị dân tộc; nhất là biểu hiện chia
rẽ, gây hận thù dân tộc. Hồ Chí Minh nhắc nhở: Đảng và Chính phủ ta luôn
kêu gọi các dân tộc xoá bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng
nhau đoàn kết chặt chẽ.
Những nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKDT là cơ sở để
ĐCS Việt Nam đề ra đường lối, phương pháp đúng đắn, có trọng tâm, trọng
điểm trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng khối ĐKDT; khắc phục được tư
tưởng đoàn kết một chiều, đoàn kết vô nguyên tắc. Trong thực tế, rất ít trường
hợp trong một bài nói và viết của Người chứa đựng đầy đủ những nguyên tắc cơ
bản về vấn đề dân tộc của Đảng ta, nhưng nguyên tắc ĐKDT thì không bao giờ


19
thiếu và được đặt ở vị trí hàng đầu. Thậm chí có khi Người chỉ nhắc đến nguyên

tắc xây dựng khối ĐKDT.
Xây dựng khối ĐKDT phải gắn liền với xây dựng quan hệ dân tộc bình
đẳng, tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, coi nhau như anh em ruột thịt
Trong các bài nói, bài viết của mình Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các dân tộc
dù đa số hay thiểu số, đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán... đều nên phải
bình đẳng, đoàn kết tôn trọng, giúp đỡ, thương yêu nhau như anh em một nhà.
Người cho rằng để xứng đáng là người chủ tốt thì: Trước hết, tất cả các dân tộc, bất
kỳ lớn hay là nhỏ đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em
một nhà. Do đó phải tẩy trừ thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà.
Đồng thời, Người cũng thường xuyên nhắc nhở phải kiên quyết đấu tranh
chống mọi hành động phá hoại khối ĐKDT như: khuynh hướng cô độc, hẹp hòi
hoặc đoàn kết một chiều, kỳ thị dân tộc.
Người viết: “Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ nhau như anh em trong
nhà. Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân tộc ít người…Hai bên phải giúp
được lẫn nhau. Dân tộc đông người không phải giúp qua loa, cũng như dân
tộc ít người không nên ngồi chờ giúp. Một bên ra sức giúp, một bên ra sức
làm. Giúp nhau thì việc gì cũng nhất định làm được” [30, tr.227].
Xuất phát từ tầm quan trọng của ĐKDT, Hồ Chí Minh yêu cầu cần phát
huy lòng yêu nước, tinh thần hăng hái của tất cả mọi người. Đối với các DTTS
vai trò của những người đứng đầu buôn, bản; của các vị già làng, các vị lang đạo
rất quan trọng, do đó thư gửi đồng bào thiểu số tỉnh Thanh Hoá ngày 21/2/1947
của Người có đoạn viết: “Việc dìu dắt đồng bào Thượng du, tôi trông cậy lòng ái
quốc và sự hăng hái của các vị lang đạo” [28, tr.64].


20
Để xây dựng khối ĐKDT thật sự, theo Hồ Chí Minh không phải dùng thủ
đoạn để lừa mị, lôi kéo đồng bào mà phải đoàn kết thật thà, chân thành, chặt chẽ,
không áp đặt, bắt buộc mà phải phát huy dân chủ thật sự. ĐKDT không phải là

sách lược mà là chiến lược nằm trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc.
* Xây dựng khối ĐKDT phải toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Về kinh tế: theo Hồ Chí Minh, CNXH là mọi người dân được ăn no mặc ấm,
sung sướng tự do, nhà ở tử tế, được học hành; muốn vậy phải thi đua tăng gia sản
xuất phát triển kinh tế. Người yêu cầu phải tích cực hợp tác gắn bó trong sản xuất,
nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc, tạo điều kiện để các DTTS nâng cao năng
suất lao động, giảm dần chênh lệch đời sống vật chất... Trong rất nhiều bài nói
chuyện với đồng bào DTTS của các tỉnh miền núi, Hồ Chí Minh thường xuyên căn
dặn: mọi dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm, làm tròn nghĩa vụ đối với Tổ quốc, xây dựng CNXH.
Hồ Chí Minh thường nhắc: sản xuất phải toàn diện, chú trọng cả trồng cây
lương thực và cây công nghiệp, phát triển nghề rừng, chú trọng đẩy mạnh chăn
nuôi... miễn có lợi cho phát triển kinh tế quốc dân; phải tạo điều kiện thuận lợi để
các DTTS phát triển sản xuất như: tạo cơ sở hạ tầng, vốn, phát triển khoa học kỹ
thuật... cùng với tăng gia sản xuất phải triệt để thực hành tiết kiệm, coi tiết kiệm là
yêu cầu quan trọng để phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS.
Về chính trị: trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11
Quốc hội khoá I Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều
dân tộc. Các dân dân tộc trên đất nước ta đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Do
đó, phải tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc phát huy dân chủ, đoàn kết, tạo nên sự
gắn bó quyền lợi giữa các dân tộc trong tham gia vào những vấn đề chung của đất
nước, vào quản lý Nhà nước, làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc ấm no.
Đồng thời Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: phải tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ người DTTS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chú trọng đào tạo, cất nhắc cán bộ miền


21
núi. Theo Người đây là nhiệm vụ quan trọng nhưng: “phải làm sao cho cán bộ địa
phương tiến bộ, để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải

là bao biện làm thay” [33, tr.418].
Về văn hoá - xã hội: Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải tôn trọng văn hoá
truyền thống các dân tộc, tăng cường giao lưu văn hoá giữa các dân tộc; tạo điều
kiện phát triển toàn diện đời sống vật chất tinh thần đồng bào DTTS, chú ý phát
triển văn hoá giáo dục nâng cao trình độ học thức cho đồng bào các dân tộc, bãi bỏ
hết những điều hủ tệ cũ; mở mang đường sá, phòng bệnh. Người khẳng định:
“Ngày nay, các dân tộc anh em chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hoá của
mình thì chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết,
thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em một nhà” [29, tr.496]. Chống áp đặt, coi
thường, miệt thị, kỳ thị văn hoá của các DTTS hoặc những biểu hiện ban ơn, hiềm
khích, phân biệt đối xử trong quan hệ tộc người.
Về quốc phòng - an ninh: theo Hồ Chí Minh, miền núi đối với quốc phòng
rất quan trọng nên phải động viên tập hợp đồng bào các dân tộc tham gia bảo vệ an
ninh quốc phòng, giữ vững biên cương Tổ quốc. Người nhắc nhở: “Toàn thể đồng
bào miền núi phải nâng cao tinh thần cảnh giác, giữ gìn trật tự trị an… ngăn chặn
bọn phản cách mạng âm mưu phá hoại [36, tr.215]. Phải có chủ trương phát triển
vùng dân tộc thiểu số toàn diện để giữ vững quốc phòng, an ninh.
* Xây dựng khối ĐKDT phải xác định rõ lực lượng và phương pháp đoàn
kết
Theo Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước phải luôn tập hợp, đoàn kết đồng
bào tất cả các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển
cao hay thấp trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Đây là lực lượng
to lớn không gì có thể lay chuyển được; nên phải đoàn kết đồng bào tất cả các
dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.


22
Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ Người viết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn
kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn
dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế

khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ” [25, tr.246].
Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp được đồng bào vào khối đoàn kết thì phải
có phương pháp đoàn kết tốt, chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục, vận động,
thuyết phục, cảm hoá để mọi người thấy sự cần thiết phải đoàn kết lại, tự giác
thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Người yêu cầu: Phải tăng cường ĐKDT, vì đây
là một công tác rất quan trọng, có nội dung mới và rộng hơn... Muốn làm tốt
công tác này, cán bộ, đảng viên và đoàn viên lao động phải gương mẫu.
Như vậy, có thể khái quát nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng khối ĐKDT là: ĐKDT có vai trò rất quan trọng, vừa là
mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, nên Đảng, Nhà nước
phải quan tâm xây dựng khối ĐKDT. Xây dựng khối ĐKDT phải dựa trên
cơ sở khách quan: các dân tộc đều có chung vận mệnh dân tộc, chung lợi
ích cơ bản là chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc thống nhất đất nước, có
chung chính phủ thống nhất đại diện cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt
Nam. Xây dựng khối ĐKDT phải hướng đến mục tiêu chung phù hợp với
các dân tộc ở Việt Nam: tạo sức mạnh tổng hợp cho dân tộc Việt Nam
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người, cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới - XHCN trên đất nước ta, đưa các dân tộc đi lên con đường
phồn vinh, văn minh hạnh phúc. Xây dựng khối ĐKDT phải tuân thủ các
nguyên tắc: giữ vững độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng
khối ĐKDT phải chặt chẽ, rộng rãi, lâu dài trên cơ sở lợi ích chung thống
nhất của quốc gia và lợi ích của các dân tộc; đoàn kết gắn liền với thực


23
hiện quan hệ dân tộc bình đẳng, tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ; đoàn kết
trên cơ sở tôn trọng văn hoá, phong tục, tập quán; kiên quyết chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi. Xây dựng khối ĐKDT phải toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng khối ĐKDT phải xác

định rõ lực lượng và phương pháp đoàn kết.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối ĐKDT là cơ sở khoa học trực
tiếp để Đảng, Nhà nước ta đề ra quan điểm đoàn kết dân tộc và xây dựng khối
ĐKDT vững mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về lý luận trong xây dựng khối đoàn kết
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay
Đắk Lắk là tỉnh miền núi có vị trí chiến lược về kinh tế - chính trị, quốc
phòng - an ninh ở khu vực Tây Nguyên. Đắk Lắk có 73 km đường biên giới giáp
tỉnh Mon Đun ki ri của Cam Pu Chia, diện tích tự nhiên là 13.125,37km 2. Có 13
huyện, 1 thị xã và 1 thành phố với 184 xã, phường, thị trấn, 2.384 thôn, buôn, tổ
dân phố; có các trục đường Quốc lộ 14, 26, 27 nối liền với các tỉnh Gia Lai, Đăk
Nông, Phú Yên, Khánh Hoà ... Dân số trên 1,7 triệu người, với 45 dân tộc anh em
cùng sinh sống, trong đó DTTS chiếm 32,97% dân số toàn tỉnh; DTTS tại chỗ là
322.031 khẩu với 57.118 hộ, chiếm 18,54% trong tổng số DTTS của tỉnh, trong đó
có 11 dân tộc dưới 10 người, 3 dân tộc chỉ có 1 người (La Hủ, La Ha, Si La) [3].
Đắk Lắk là hình ảnh thu nhỏ của Tây Nguyên nơi có đầy đủ các dân tộc thiểu số
đang sống ở Tây Nguyên và vẫn đang là điểm đến của làn sóng di cư tự do. Điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng khối ĐKDT ở Đắk Lắk hiện nay.
Đồng bào các dân tộc Đắk Lắk có truyền thống anh hùng, bất khuất trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm giữ đất, bảo vệ buôn làng. Từ sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, nhiều vùng đồng bào dân tộc đã trở thành những căn cứ địa
cách mạng vững chắc như: xã Dliê ya huyện Krông Năng; xã Cư Pui, Cư DRăm,


24
Yang Mao huyện Krông Bông; xã DurKMăn huyện Krông Ana; xã Nam Nung
huyện Krông Nô; xã ĐăkPhơi huyện Lắc; xã Cư Pơng huyện Krông Buk... Đồng
bào các dân tộc ở Đắk Lắk luôn đoàn kết, hết lòng che chở, đùm bọc cách mạng;
có những vùng đồng bào phải nhịn ăn, nhịn mặc, bán trâu bò, mặc khố bằng vỏ cây,

đốt cỏ tranh ăn thay muối để đóng góp sức người sức của cho cách mạng, góp phần
quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Truyền
thống này là động lực quan trọng trong xây dựng khối ĐKDT ở Đắk Lắk hiện nay.
Đắk Lắk là địa phương có sự biến động dân tộc hết sức phức tạp, có sự
phân biệt tương đối rõ khối cư dân tại chỗ và dân cư mới di cư đến. Trước kia,
các DTTS tại chỗ là cư dân chính chiếm đa số, thì nay chỉ còn là bộ phận nhỏ
của tỉnh. Năm 1936 các dân tộc tại chỗ chiếm khoảng 95% dân số, đến năm
1975 giảm còn khoảng 50%, hiện nay chỉ còn 18,54% [3]. Cộng đồng các dân
tộc sinh sống đan xen, trình độ phát triển không đồng đều, dân tộc Kinh có trình
độ phát triển khá cao, các DTTS về cơ bản còn ở trình độ phát triển thấp, cuộc
sống của đồng bào còn nhiều khó khăn. Biến động cơ cấu dân số này chi phối rất
lớn, cần lưu ý trong quá trình xây dựng khối ĐKDT ở Đắk Lắk.
Trước kia, đặc trưng kinh tế của Đắk Lắk là “nương rẫy” canh tác trên đất đỏ
ba zan kết hợp với săn bắt, hái lượm, mang đậm tính tự cung, tự cấp; lực lượng sản
xuất ở trình độ thấp với công cụ thô sơ, canh tác lạc hậu, lao động chân tay là chủ
yếu. Ngày nay, tuy đã có nhiều tiến bộ trong việc đưa máy móc, khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nhưng kinh tế hàng hoá vẫn chưa phát triển; mức sống của đồng bào
nhất là đồng bào DTTS tại chỗ còn rất thấp, bộ phận đồng bào sinh sống ở những
nơi đặc biệt khó khăn thường thiếu đói quanh năm. Đây là nhân tố tiềm ẩn dễ dẫn
đến xích mích, va chạm, xung đột dân tộc nếu Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính
trị xã hội không có chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội đúng.
Các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên nói chung,
Đắk Lắk nói riêng để chống phá khối ĐKDT. Hiện nay, tuy khối ĐKDT ở Tây


25
Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng tương đối ổn định, nhưng các thế lực thù
địch luôn lợi dụng những nguy cơ, những nhân tố tiềm ẩn gây mất ổn định như: đời
sống đồng bào các dân tộc còn khó khăn, vấn đề dân di cư tự do, nạn chặt phá rừng,
vấn đề tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên... để kích động, lôi kéo đồng

bào các dân tộc vào các hoạt động gây rối, biểu tình, vượt biên trái phép, gây mất an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... làm cho quá trình xây dựng khối ĐKDT ở
Đắk Lắk phần nào gặp khó khăn.
Trong những năm gần đây, khối ĐKDT ở Đắk Lắk tương đối vững chắc,
nhưng vẫn còn những yếu kém, bất cập nhất định, các thế lực thù địch đang ráo
riết lợi dụng những yếu kém, bất cập đó để chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc
trên địa bàn tỉnh.
Từ những vấn đề đó, có thể quan niệm xây dựng khối ĐKDT theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay là toàn bộ hoạt động của hệ thống chính
trị nói chung và nhân dân ở Đắk Lắk nói riêng trong quán triệt, vận dụng, phát
triển sáng tạo và hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối ĐKDT
phù hợp với điều kiện lịch sử, địa lý - tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội và con
người ở đây nhằm củng cố, tăng cường mối liên kết, gắn bó, hợp tác chặt chẽ giữa
đồng bào các dân tộc trên địa bàn Tỉnh thành một khối vững chắc.
Từ quan niệm xây dựng khối ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk
Lắk hiện nay cho thấy:
Chủ thể tiến hành xây dựng khối đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
Đắk Lắk hiện nay bao gồm: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội mà
trực tiếp là hệ thống chính trị và đồng bào các dân tộc của tỉnh, trong đó lực
lượng vũ trang giữ vai trò quan trọng.
Tất cả các dân tộc ở Đắk Lắk vừa là chủ thể vừa là khách thể được tập
hợp vào trong khối ĐKDT, phải khắc phục các tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, tự ti, mặc cảm dân tộc để vươn lên nắm bắt khoa học kỹ thuật, tận dụng các


×