Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về phát triển nông nghiệp ở hà tĩnh trong quá trình đổi mới - luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.12 KB, 66 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp (NN), nông dân (ND), nông thôn (NT) có vị trí hết sức
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất
nước, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững,
giữ vững và ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Là một vị lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã khẳng
định vị trí, vai trò hết sức to lớn của sản xuất NN đối với việc phát triển kinh
tế và cải thiện đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước và đưa
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Ngay từ những ngày đầu cách
mạng tháng Tám thành công, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày
01/01/1946, Hồ Chí Minh viết "Việt Nam là một nước sống vì nông nghiệp".
Nền kinh tế canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính
phủ trông mong vào ND, trông cậy vào NN một phần lớn. ND ta giàu thì
nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh [22, tr. 215], từ đó Người
khẳng định "Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải
lấy việc phát triển NN làm gốc, làm chính" [22, tr. 180]. Chính vì vậy, Người
rất quan tâm dành nhiều công sức để nghiên cứu và chỉ đạo phát triển sản xuất
NN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về NN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
tư tưởng phát triển kinh tế của Người. Những quan điểm chỉ đạo về vị trí, vai
trò của NN, về sản xuất NN toàn diện, thực hiện CNH, HĐH, phát triển kinh
tế tập thể xã hội hóa NN, xây dựng quan hệ sản xuất trong NN của Hồ Chí
Minh là sự mẫu mực vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin và những qui luật kinh tế khách quan hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của Việt Nam, không những có ý nghĩa thực tiễn to lớn mà còn



2

là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng đã và đang được Đảng, Nhà nước vận
dụng để xây dựng và phát triển nền kinh tế NN nước ta theo định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN).
Sau gần 26 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn. Tuy vậy, những thành tựu đạt được trong NN chưa tương
xứng với tiềm năng lợi thế. NN chưa bền vững, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân NT còn thấp.
Hà Tĩnh là một tỉnh có nền kinh tế NN thuần nông lạc hậu, manh mún,
có 85,1% dân sống ở khu vực NT và 64,19% lực lượng lao động xã hội là
NN. Vì vậy, quan tâm phát triển NN ở Hà Tĩnh theo chủ trương chung của
Đảng là yêu cầu phát triển đúng với qui luật, là yêu cầu khách quan để phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX lại nay, NN và kinh tế
NT Hà Tĩnh đã có những khởi sắc, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nền NN
đã và đang từng bước chuyển từ sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp sang nền sản
xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Tiến bộ khoa học - kỹ thuật về giống,
thâm canh được tích cực áp dụng, năng suất cây trồng vật nuôi không ngừng
được nâng lên. Tuy vậy, sản xuất NN ở Hà Tĩnh trong những năm qua cũng
đang bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém, hiệu quả sản xuất đạt chưa tương xứng
với tiềm năng và lợi thế vốn có của tỉnh. Nhìn chung, sự phát triển của NN
chưa có được sự chuyển biến tích cực nhiều về chất, chưa tạo ra tiền đề vững
chắc cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh để thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH
và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Những hạn chế, yếu kém của sản xuất NN nói chung, Hà Tĩnh nói
riêng có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân do
chưa nhận thức hết được những giá trị sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về
NN và vận dụng những tư tưởng đó vào hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc tiếp



3

tục nghiên cứu, làm sáng tỏ và vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng của Hồ
Chí Minh về kinh tế nói chung là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất
quan trọng đồng thời là yêu cầu hết sức bức thiết.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài "Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp ở Hà Tĩnh trong quá trình đổi mới"
làm đề tài tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị - hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ sau Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII, việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
tập thể và cá nhân các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Riêng tư tưởng của Người về kinh tế nói chung và NN nói riêng chưa được
nghiên cứu nhiều. Trong thực tế, nhiều quan điểm và cách làm của Người
chưa được quan tâm đúng mức, một số quan điểm được vận dụng nhưng còn
chung chung. Một số quan điểm cách làm được vận dụng sai. Trong khi đó,
các quan điểm, cách làm kinh tế của Hồ Chí Minh nếu quán triệt, vận dụng tốt
sẽ có tác dụng định hướng tích cực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, giải quyết
được hàng loạt vấn đề kinh tế mới do công cuộc xây dựng CNXH trong điều
kiện nước có nền NN lạc hậu đặt ra. Tuy vậy, cũng có nhiều nhà khoa học,
nhà nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu của mình đã nhận thấy được vai
trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nói chung và tư tưởng về NN
nói riêng đã có những công trình nghiên cứu thành công liên quan đến nội
dung của luận văn này, có một số công trình nghiên cứu khoa học, các sách
chuyên khảo và các bài báo quan trọng đã được công bố như:
- Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, của TS. Phạm
Ngọc Anh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Tư tưởng Hồ Chí minh về nông dân, của TS. Nguyễn Khánh Bật

(chủ biên), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.


4

- Đảng, Bác Hồ với vấn đề tam nông, của TS Nguyễn Huy Tuấn (sưu
tầm tuyển chọn), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp, của Nguyễn Đăng
Nam, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 1, 2009.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí khác nhau.
Những công trình, bài viết kể trên nhìn chung đã tập trung nghiên cứu phân
tích tư tưởng Hồ Chí Minh về NN và việc vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn
ở những mức độ phạm vi khác nhau, hoặc chỉ đi vào nghiên cứu một nội
dung, hay một vấn đề nào đó hoặc nghiên cứu có hệ thống các nội dung cơ
bản của tư tưởng. Điển hình đó là công trình khoa học:
Cuốn: Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế của TS. Phạm
Ngọc Anh (chủ biên) đã giúp cho người đọc bước đầu hiểu về tư tưởng kinh
tế Hồ Chí Minh nói chung qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam. Trong đó tác
giả đã đi sâu tìm hiểu phân tích ba nội dung quan trọng:
Thứ nhất, quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm bản chất của tư
tưởng kinh tế Hồ Chí Minh;
Thứ hai, những nội dung chủ yếu của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh;
Thứ ba, vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung những vấn đề về vai trò, về xây dựng và phát triển NN
theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được bàn đến một cách xuyên suốt trong các
nội dung này. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí minh
về NN chủ yếu được trình bày ở mục IV của cuốn sách "Quan điểm của Hồ
Chí Minh về lựa chọn cơ cấu kinh tế". Khi bàn về quan điểm của Hồ Chí
Minh về lựa chọn cơ cấu kinh tế ngành trong chiến lược phát triển kinh tế, các

tác giả đã khẳng định: "Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vị trí
hết sức đặc biệt đối với xã hội. Phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là


5

cội nguồn của mọi vấn đề xã hội" [1, tr. 89]. Vai trò, vị trí của NN trong tư
tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được các tác giả trình bày trên nhiều phương diện
khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Cả trong thời kỳ chiến tranh và
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Bên cạnh đó, những vấn đề về
CNH, HĐH NN, NT, vấn đề xây dựng hợp tác xã (HTX) NN, vấn đề quản lý
kinh tế NN, NT cũng đã được trình bày khá chi tiết trong cuốn sách. Mặc dù
như tinh thần đầu đề của cuốn sách: "Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế", Nnhưng đây là một công trình có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, công trình đã góp phần phê phán các luận điệu sai trái và nền
tảng tư tưởng của xã hội ta, về tính tất yếu kinh tế của con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam [1, tr. 11].
Nhìn chung, những công trình bài viết kể trên đã giúp cho luận văn
của tôi có thể chọn lọc được những quan điểm, những nhận thức chung về lý
luận và thực tiễn, cũng như tham khảo được nhiều tài liệu cần thiết trong quá
trình thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
+ Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống những quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh về NN; trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển NN ở Hà
Tĩnh từ sau năm 2001, nêu ra những phương hướng và một số giải pháp cơ
bản phát triển NN bền vững ở Hà Tĩnh theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm tiếp tục tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân Hà
Tĩnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Trình bày, luận giải làm sáng tỏ những quan điểm của Hồ Chí Minh
về vị trí, vai trò của NN, về xây dựng và phát triển nền NN toàn diện bền
vững ở nước ta, về các điều kiện xây dựng và phát triển NN.


6

+ Khẳng định những giá trị lý luận và giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về NN.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển NN ở Hà Tĩnh, khẳng định
những thành tựu đã đạt được, chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của thành
tựu và hạn chế.
+ Nêu ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
quá trình xây dựng và phát triển NN ở tỉnh Hà Tĩnh theo hướng bền vững trên
tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về NN được thể hiện qua
các bài viết, bài nói; quá trình phát triển kinh tế NN Hà Tĩnh thời kỳ đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các bài nói bài viết của Hồ Chí Minh về NN chủ yếu từ sau năm
1945, khảo sát thực trạng phát triển NN tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2001 lại nay.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước ta, của
Đảng bộ và chính quyền Hà Tĩnh về phát triển NN.
- Luận văn kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các
công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lôgíc kết


7

hợp với phương pháp lịch sử là phương pháp chủ yếu để nghiên cứu; các
phương pháp liên ngành và các phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân
tích kinh tế, so sánh, tổng hợp, văn bản học v.v... được vận dụng để nghiên
cứu; quán triệt quan điểm thực tiễn, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào nghiên cứu, lý giải làm sáng tỏ những nội
dung cơ bản, đồng thời khẳng định các giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về NN.
- Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng và phát triển NN trong quá trình đổi mới và đặc biệt là vai trò của NN
trong quá trình xây dựng NT mới của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Tĩnh.
- Luận văn đã nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần vào
thúc đẩy NN Hà Tĩnh phát triển mạnh, bền vững dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.


8

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG NGHỆP


1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

Trong tư tưởng của mình, khi bản về lĩnh vực NN, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường gắn liền với vấn đề ND và NT; giữa NN, ND và NT có mối
quan hệ mật thiết với nhau, biện chứng không thể tách rời nhau. Do vậy, kết
hợp hài hòa và giải quyết tốt các vấn đề NN, ND, NT trong quá trình CNH,
HĐH đất nước theo định hướng XHCN là vấn đề có ý nghĩa to lớn và là yêu
cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình đó, NN, ND, NT luôn
giữ vị trí và vai trò quan trọng; NN là cơ sở, NT là địa bàn, ND là lực lượng
lao động đông đảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ổn định
chính trị xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng.
1.1.1. Khái niệm về nông nghiệp
Theo cuốn từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa thì
NN là nghề nông.
Hiểu một cách đầy đủ hơn, NN là ngành sản xuất vật chất cơ bản của
xã hội sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng, vật nuôi
làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm
và một số nguyên liệu công nghiệp. NN là một ngành sản xuất lớn, bao gồm
nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng
bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản.
Nông nghiệp có vai trò quan trọng và to lớn: NN cung cấp các yếu tố
đầu vào cho công nghiệp và khu vực thành thị. NN và NT còn được coi là thị
trường tiêu thụ của công nghiệp, thúc đẩy công nghiệp phát triển; NN còn
được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tế lớn: các loại nông, lâm,


9

thủy sản có thể dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế lớn hơn so với hàng hóa
công nghiệp. Nông nghiệp là ngành ít chịu ảnh hưởng của tình hình biến động

lạm phát thế giới. Tuy vậy, NN cũng là ngành sử dụng nhiều loại hóa chất độc
hại. Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất NN cần tìm những giải pháp
thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường.
1.1.2. Khái niệm nông dân
Theo từ điển Tiếng Việt, ND là dân làm ruộng.
Nông dân là người lao động cư trú ở NT, tham gia sản xuất NN; ND
sống chủ yếu bằng ruộng vườn, chăn nuôi, sau đó đến các ngành nghề mà tư
liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy thuộc vào từng quốc gia, từng thời kỳ lịch
sử, người ND có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất, họ hình thành nên giai
cấp công nhân có vị trí vai trò nhất định trong xã hội.
Ngày nay, ND tham gia sinh hoạt vào hộ ND, nhưng phần lớn là hộ
thuần nông, lao động nặng nhọc năng suất lao động thấp. Tuy vậy, trong quá
trình công nghiệp hóa, những hộ ND có xu hướng chuyển sang sản xuất NN
kết hợp với phi NN tỷ trọng thu nhập NN trong tổng thu nhập của hộ ở NT
giảm nhiều nhưng họ vẫn sống ở NT.
1.1.3. Khái niệm về nông thôn
Theo tác giả Đặng Kim Sơn trong cuốn "Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau" thì: Định nghĩa về NT có thể khác
nhau ở các quốc gia khác nhau. Vùng NT có thể được định nghĩa bởi qui mô
định cư, mật độ dân số, khoảng cách đến vùng thành thị, phân chia hành chính
và tầm quan trọng của ngành công nghiệp.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nông thôn nói chung là thôn làng, nơi làm
ruộng. Hay nói cách khác, NT là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ
của các quốc gia, khu vực, ở đó nguồn dân sinh sống chủ yếu bằng NN.


10

1.1.4. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta khẳng

định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh "là một hệt thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam". Trong đó, có tư tưởng
của Người về phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của người dân.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về NN là một bộ phận hợp thành hệ thống
tư tưởng kinh tế của Người, bao gồm hệ thống những luận điểm lý luận toàn
diện và sâu sắc được rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển
những kinh nghiệm, truyền thống đặc sắc của dân tộc và trí tuệ của thời đại
mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng và phát triển nền NN
Việt Nam từ sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu tiến đến nền NN hiện đại, khoa
học - kỹ thuật phát triển, có khả năng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về NN không những có ý nghĩa thực tiễn
to lớn mà còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng đã và đang được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng để xây dựng và phát triển nền kinh tế NN ở nước ta
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 CƠ SỞ CHỦ YẾU HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NÔNG NGHIỆP

1.2.1. Thực tiễn và truyền thống của Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia khu vực Đông Nam Á với khí hậu nhiệt đới
gió mùa ấm ẩm nhiều mưa, đất đai rất thuận lợi cho phát triển NN. Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân ta đã đấu tranh vật lộn với thiên nhiên lao
động sản xuất tạo nên "nền văn minh nông nghiệp Việt Nam" với nhiều kinh


11


nghiệm trong quá trình lao động sản xuất NN. Nền văn minh đó đã tạo nên
sức sống mãnh liệt giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách gian lao, chiến
thắng mọi kẻ thù trong quá trình dựng nước và giữ nước trước đây cũng như
trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nhiều thập kỷ gần đây.
Vào thời văn hóa Hòa Bình (cách đây 12.000 - 16.000 năm), Việt Nam
bây giờ đã thuộc một trong bốn trung tâm NN đầu tiên của loài người và trở
thành những chủ nhân đầu tiên có công lao sáng tạo nền NN đầu tiên của loài
người. Thời kỳ Vua Hùng dựng nước, NN nước ta phát triển với đỉnh cao là
"Văn minh nông nghiệp sông hồng". Sau khi Nhà nước Âu Lạc của Vua An
Dương Vương được thành lập với bước phát triển mới của NN, người dân Âu
Lạc đã làm thêm vụ lúa thứ hai trong năm ngoài vụ lúa chính để trở thành
nước tăng vụ lúa sớm nhất ở Đông Nam Á. Thời kỳ Bắc thuộc, NN là ngành
sản xuất chính ở nước ta. Ông cha ta với tinh thần độc lập tự chủ, kiên trì đấu
tranh và sáng tạo, trên cơ sở kỹ thuật bản địa, có tiếp thu chọn lọc những kỹ
thuật tiến bộ, có sự gắn bó hữu cơ giữa NN và ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp đa dạng, tiến bộ mang những đặc thù của vùng nhiệt đới và sắc thái
rừng của dân tộc Việt Nam. Kế thừa nâng cao và phát triển nền văn minh NN
Sông hồng, nhân dân ta đã không ngừng bổ sung, phát triển xây dựng một nền
NN Việt Nam đạt được nhiều thành tựu mới trong sản xuất NN.
Hồ Chí Minh tiếp thu và kế thừa, phát huy, phát triển những tinh hoa văn
hóa nhân loại, những quan điểm truyền thống Việt Nam, trong đó có truyền
thống và kinh nghiệm làm NN. Với tư duy và phương pháp làm việc biện chứng
khoa học, Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng về NN và từng bước phát triển lên,
nhất là quan điểm về xây dựng nền NN Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nông nghiệp
Vấn đề NN cùng với ND và NT là một bộ phận quan trọng trong lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng quyết
định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về NN.



12

Trong quá trình tổ chức, động viên và tập hợp lực lượng, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều nhận thức rõ vị trí, vai trò và khả năng
cách mạng to lớn của giai cấp trong sự nghiệp cách mạng do giai cấp công
nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong quá trình đó, cả
C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin đều có những nghiên cứu rất có giá trị về NN,
đặc biệt là về chỉ đạo tổ chức phát triển kinh tế hợp tác trong NN.
Trong quá trình nghiên cứu, cả C.Mác và Ph Ăngghen đều khẳng định
vai trò của NN trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thông qua việc khảo
sát thực trạng kinh tế NN và xu hướng vận động các lĩnh vực kinh tế trong
giai đoạn chuyển đổi từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa và chế
độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ XHCN. C.Mác đã khẳng định khi năng suất
lao động chưa nuôi đủ con người thì người ta chưa thể lo đến công nghiệp,
thương nghiệp. Trong học thuyết địa tô, C.Mác chỉ ra tính chất nhiều vẻ của
NN trong những điều kiện khác nhau đồng thời dẫu vì một nền NN phát triển
không chỉ tăng qui mô diện tích mà bằng cả thâm canh cao. Đặc biệt trong tác
phẩm "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức", lần đầu tiên Ph. Ăngghen đã phác
thảo một chương trình phát triển NN, NT toàn diện. Ông đã đề cập đến những
vấn đề có giá trị lớn như chính sách NN của Nhà nước, các hình thức khoán
thuế trong NN. Ông viết: NN, ND, NT bao giờ cũng là vấn đề cơ bản của
chính quyền nhà nước, một nội dung trọng yếu trong cương lĩnh hoạt động
của các Đảng Cộng sản. Ph.Ăngghen còn đặt ra yêu cầu: Xã phải mua máy
mới NN rồi cho nhân dân thuê theo giá vốn, lập HTX NN phục vụ cho nhân
dân sản xuất, lập những trang trại thí nghiệm NN.
Về kinh tế hợp tác trong NN, C.Mác và Ph.Ăngghen đều thấy được
triển vọng của hình thức kinh tế này và xem đó là bước quá độ trong thời gian
từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Các ông đánh giá cao hình thức hợp tác theo
kiểu "Vòng tay gia đình" không dùng lao động làm thuê mà coi hình thức này
là ưu việt hơn hẳn so với kiểu "Đại điền trang" NN tư bản chủ nghĩa, sử dụng

lao động làm thuê.


13

Kế tục sự nghiệp và phát triển tư tưởng của Mác, Ăngghen trong giai
đoạn lịch sử mới, V.I. Lênin đã góp phần làm sáng tỏ qui luật vận động của
nền kinh tế tiểu nông lên sản xuất lớn XHCN, chỉ rõ vai trò của NN trong quá
trình xây dựng CNXH, đặc biệt là những nước NN lạc hậu quá độ lên CNXH
không qua tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng tháng Mười (1917) thành công sau ba năm thực hiện
"Chính sách Cộng sản thời chiến" nền kinh tế nước Nga không mang lại hiệu
quả năm 1921 V I. Lênin quyết định thực hiện "Chính sách kinh tế mới".
Bằng phương pháp phân tích khoa học nguyên nhân khách quan và
chủ quan của cuộc khủng hoảng chính trị sau nội chiến, Lênin đưa ra quan
điểm là phải bắt đầu từ ND, phải chấn hưng NN. Người chỉ ra giải pháp phải
khôi phục NN. Để khôi phục NN, cải thiện đời sống nhân dân, Lênin đề ra
chính sách thuế lương thực, khôi phục kinh tế hàng hòa trong NN, mở rộng
hàng hóa công nghiệp với NN và đặc biệt chú trọng đến phát triển kinh tế
HTX trong NN. Đồng thời, do tính chất phức tạp trong sản xuất NN, Lênin
cũng cho rằng các hình thức tổ chức HTX phải đa dạng, phong phú và có
bước đi thích hợp. Nếu như trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế "Cộng
sản thời chiến" Lênin chủ trương trong lĩnh vực lưu thông thành lập HTX tiêu
dùng để trưng thu, trưng mua lương thực và phân phối sản phẩm, còn trong
lĩnh vực sản xuất, tổ chức các nông trường quốc doanh, các công xã NN, các
hiệp hội canh tác tập thể thì đến khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin
chủ trương phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở sản xuất hàng hóa và trao đổi
hàng hóa. Theo Lênin thì hợp tác phải bắt đầu từ khâu lưu thông, vì ông cho
rằng thương nghiệp buôn bán có thể liên kết hàng triệu người ND lại với
nhau, từ đó dẫn đến hợp tác trong các lĩnh vực sản xuất và hình thành các

HTX trong lĩnh vực sản xuất.
Như vậy, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về NN thể hiện
giá trị hết sức sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn mà chính trong quá trình


14

vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung vào thực tiễn Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp bước cả những quan điểm này, điều đặc biệt hơn
nữa là chính Hồ Chí Minh còn được trực tiếp chứng kiến về những chủ
trương và thực tế của nước Nga trong thời kỳ NEP được thực hiện khi Người
có mặt tại nước này (năm 1923 - 1924). Tất cả điều đó cho thấy tư tưởng Hồ
Chí Minh về NN có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG NGHIỆP

1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông nghiệp
Mục tiêu hàng đầu trong xây dựng CNXH ở Việt Nam theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh là nhằm "không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
người dân trước hết là nhân dân lao động" [28, tr. 271]. Người từng khẳng
định rằng: Nếu được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chế rét thì tự do,
độc lập cũng chẳng làm được gì. Dân chúng số đông chỉ thực sự thấy được
giá trị và ý nghĩa của độc lập, tự do. Chính vì vậy sau ngày đất nước giành
được độc lập trong nhiều phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch
kiến quốc, Người đã yêu cầu:
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn;
2. Làm cho dân có mặc;
3. Làm cho dân có chữ;
4. Làm cho dân được học hành.
Cái đích của ta đi đến là bốn điều đó [22, tr. 152].

Đây cũng chính là mục đích mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
ngày từ những ngày đầu làm cách mạng và đã phấn đấu, hiến dâng cả cuộc
đời mình: "Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc; là làm sao cho nước ta hoàn
toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm


15

ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [22, tr. 161] và khi sắp sửa đi vào thế giới
vĩnh hằng, Người vẫn không quên dặn lại trong di chúc: "Đảng phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân" [30, tr. 511].
Là một nhà lãnh đạo chiến lược giàu kinh nghiệm, Hồ chí minh sớm
thấy được rằng: Muốn nâng cao đời sống của nhân dân trước hết phải không
ngừng ra sức phát triển nền kinh tế quốc gia; mà vấn đề cơ bản hàng đầu để
phát triển Hồ Chí Minh xác định đó chính là bắt đầu từ NN.
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội cũng như trong việc nâng cao
đời sống của nhân dân. Với Người: NN là gốc, NN là chính, NN là mặt trận
hàng đầu, NN là mặt trận cơ bản, NN là quan trọng nhất. Người cho rằng Việt
Nam là một nước sống về NN, nền kinh tế lấy canh nông làm gốc, do vậy
"Nông dân ta giàu thì nước ta giàu; nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh".
Từ đó, Người coi việc tập trung phát triển NN là nhiệm vụ trọng tâm của toàn
Đảng, toàn dân và yêu cầu các ngành khác phải lấy việc phục vụ NN làm
trọng tâm.
Hồ Chí Minh coi việc phát triển NN là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn
giải quyết mọi vấn đề xã hội, NN giải quyết nhu cầu quan trọng nhất, cơ bản nhất,
cấp thiết nhất của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở, trong đó, ăn là nhu cầu đầu
tiên. Chỉ khi thỏa mãn được nhu cầu ăn, mặc, ở trên một mức độ nhất định thì
người ta nghỉ đến nhu cầu cao hơn. Hồ Chí Minh viết: "Sản xuất nông nghiệp

trước hết là sản xuất lương thực, là việc cần thiết nhất cho đời sống nhân dân,
là bộ phận cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước" [9, tr. 5].
Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, ngày 07/12/1945, Hồ Chí
Minh đã viết tên báo "Tấc đất" số đầu tiên:
Loài người ai cũng "Dĩ thực vi tiên" (nghĩa là trước cần phải
ăn) nước ta thì "Dĩ nông vi bản" (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân


16

muốn ăn no phải trồng trọt cho nhiều, nước muốn giàu thì phải phát
triển NN. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết,
chúng ta phải quí mỗi tấc đất như mỗi tấc vàng [22, tr. 114].
Người đã chính thức sử dụng thuật ngữ "Khuyến nông" [22, tr. 102] sau
ngày Cách mạng tháng Tám thành công và coi khuyến nông là một nội dung
hợp thành trong chính sách NN của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc, vị trí, vai trò của NN càng được
Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng và nhất quán hơn. Ngày 13/6/1955, tại Hội nghị
sản xuất cứu đói, Người nhấn mạnh: "Tục ngữ có câu: "Dân dĩ thực vi thiên"
nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn thì không có trời" [25, tr, 572],
ăn là một nhu cầu thiết yếu. Rõ ràng, không có ăn con người không thể duy trì
được ngày cả sự sinh tồn chứ chưa nói đến hoạt động sản xuất, hoạt động
nghiên cứu sáng tạo, hoặc hoạt động chính trị. Trong Hội nghị này, Người nói
rất giản dị ý đó: "Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính
phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện: Nếu dân đói rét, dốt, bệnh thì chính sách của
ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được" [25, tr. 572]. Trong cách noi rất
dung dị của Hồ Chí Minh chứa đựng một triết lý vô cùng đơn giản, vô cùng
cụ thể. Không có ăn, không sống được do đó không xây dựng CNXH được.
Người dạy cán bộ rằng: "Phải rất chú ý đến tăng gia sản xuất. Các cô, các chú
có khi công tác, vì trình độ một phần nên chưa nghiên cứu được về chủ nghĩa

Mác - Lênin. Bác chỉ nói một điểm rất đơn giản: " Có thực mới vực được
đạo" đó là duy vật, đó là gốc căn của chủ nghĩa Mác - Lênin" [26, tr. 420].
Người căn dặn: "Nhân dân ta phải bám lấy ruộng đồng. Ruộng là chính,
nông nghiệp là chính. Phải thấy xa đừng chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà
quên lợi sau, đừng có thấy cây mà chẳng thấy đường" [27, tr. 12], "có gì sung
sướng bằng góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp - nền tảng
để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa" [29, tr. 612].


17

Trong sự nghiệp cách mạng, theo Hồ Chí Minh, phát triển NN để sản
xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm là một mặt trận quan trọng liên quan đến
sự thành bại của chiến tranh. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở đến câu châm
ngôn Hán - Việt: "thực túc binh cường". Người cho rằng, hậu phương là chỗ
dựa vững chắc cho tiền phương, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho
quân đội, đó là nhân tố quyết định sự thành bại nơi chiến trường. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, năm 1949, trong bài "Việt Bắc quyết thắng",
Người viết: Lúc này quan trọng nhất là NN vì "Có thực mới vực được đạo".
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vai trò của NN
càng được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng. Năm 1967, Người lại viết: "Quân
và dân ta phải ăn no để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy sản xuất lương
thực và thực phẩm là rất quan trọng" [30, tr. 217].
Trong xây dựng CNXH thời kỳ đầu ở miền Bắc, NN vẫn được Hồ Chí
Minh coi như một mặt trận chủ yếu, là nền tảng của toàn bộ cơ cấu kinh tế
quốc dân.
Theo Hồ Chí Minh, trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia có ba
bộ phận quan trọng nhất là NN, công nghiệp và thương nghiệp. Ba bộ phận này
có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động và chi phối lẫn nhau. Nhưng trong
điều kiện Việt Nam thì NN luôn luôn là lĩnh vực quan trọng nhất và NN vẫn

là gốc. Và Người cho rằng NN có phát triển thì công nghiệp mới phát triển
dần. Khi về thăm và nói chuyện với nhân dân Thanh Hóa (ngày 19/7/1960),
Người nhắc nhở: "Nước ta là một nước nông nghiệp như Trung Quốc, Triều
Tiên. Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy phát
triển NN làm gốc, làm chính" [28, tr. 180 ]. Và ngay trong bài nói chuyện tại
Hội nghị Trung ương 7 (khóa III), Hội nghị chuyên bàn về phát triển công
nghiệp, Hồ Chí Minh lại nói về NN, nhấn rất mạnh vai trò của NN. Người nói:
Việt Nam ta có câu tục ngữ "Có thực mới vực được đạo".
Trung Quốc có câu tục ngữ "Dân dĩ thực vi thiên". Hai câu ấy tuy


18

đơn giản nhưng rất đúng. Vì lẽ: Muốn nâng cao đời sống nhân dân
thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ăn rồi đến vấn đề mặc và các
vấn đề khác. Muốn giải quyết vấn đề ăn thì làm thế nào để có đủ
lương thực. Mà lương thực do NN sản xuất ra. Vì vậy sản xuất nông
nghiệp là việc cực kỳ quan trọng [28, tr. 544].
Không phải ngẫu nhiên mà trong Hội nghị của Trung ương bàn về
công nghiệp hóa, ngay đoạn mở đầu bài nói của mình, Hồ Chí Minh lại nói
đến vai trò quan trọng của NN và đặc biệt trong Hội nghị cán bộ Trung ương
về xã tham gia cải tiến quản lý HTX NN năm 1963, Hồ Chí Minh đã nêu lên
luận điểm mang tính tổng kết tầm quan trọng của NN trong nền kinh tế nước
tra nói chung và đối với ngành công nghiệp nói riêng: "Có gì sung sướng
bằng góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp - nền tảng để
phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa" [29, tr. 612].
Năm 1960, trong bài "Con đường phía trước", Hồ Chí Minh cũng cho
rằng nước ta là một nước NN lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta… Đời
sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi, dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong NN.

Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm lần,
nghìn lần, làm những việc phi thường. Muốn có máy móc thì phải mở mang
các ngành công ngiệp làm ra máy móc gang thép… Đó là con đường phải đi
của chúng ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà. Hiện nay, chúng ta lấy
sản xuất NN làm chính. Bì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương
thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa XHCN vẫn là mục tiêu phấn đấu
chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta [28, tr. 40-41].
Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt và tầm nhìn sâu rộng, Hồ Chí Minh
có quan điểm độc đáo sát hợp: Trong một nước NN như Việt Nam, cơ sở và
tiền đồ của công nghiệp hóa là NN, phải bắt đầu từ ND và lấy NN làm khâu
đột phá [1, tr. 198].


19

Theo Người, vai trò đột phá của NN tạo nền tảng trong công nghiệp
hóa tập trung trên các mặt: cung cấp lương thực và nguyên liệu, giải phóng
sức lao động NN để cung cấp cho công nghiệp, tạo ra nguồn tích lũy từ bản
thân nền kinh tế, là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, nâng cao sức
mua của toàn xã hội... NN tạo ra tiền đề cần thiết để công nghiệp hóa, kích
thích sản xuất hàng hóa công nghiệp. Vai trò được Hồ Chí Minh khẳng định:
Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát
triển NN làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển NN thì không có cơ sở để
phát triển công nghiệp. Vì NN cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công
nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra [28, tr. 180].
Nhưng Hồ Chí Minh cũng không cực đoan coi NN là lĩnh vực bao
quát toàn bộ quá trình này. Bởi, như Người khẳng định: "Muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì phải xây dựng công nghiệp nhà máy" [26, tr. 412]. Công
nghiệp phát triển thì NN mới phát triển. Nông nghiệp tự nó không thể đưa lại
năng suất cao, hàng hóa nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu không có sự tác

động trực tiếp, gắn bó giữa công nghiệp và NN.
Đối với thương nghiệp, theo Hồ Chí Minh, khi NN phát triển và có
nhiều sản phẩm dôi thừa thì thương nghiệp phát triển. NN phát triển thì có
nhiều hàng hóa đưa ra thị trường, như vậy, vai trò của thương nghiệp được
phát huy và cung cấp nhiều nguyên liệu, vật liệu để sản xuất hàng hóa buôn
bán ra nước ngoài. Thương nghiệp cũng chính là cầu nối giữa công nghiệp và
NN, do đó yêu cầu thương nghiệp phải thực hiện cho tốt.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, NN là cơ sở không chỉ đối với công
nghiệp và thương nghiệp mà còn đối với các ngành, các lĩnh vực như: tài
chính, ngân hàng, văn hóa, giáo dục, y tế,.. Các ngành này cũng phải coi phục
vụ NN và NT là nhiệm vụ trọng tâm. Hay nói cách khác, NN cũng là cơ sở để
phát triển các ngành, các lĩnh vực này.


20

Hồ Chí Minh kết luận: Ở nước ta, NN chiếm một bộ phận lớn trong
nền kinh tế, mà sản xuất nhỏ lại chiếm một bộ phận lớn trong NN. Vì NN là
nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là nguồn xuất khẩu
quan trọng, NT là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải tạo ra
phát triển NN thì mới có cơ sở để phát triển các ngành khác [28, tr. 14].
Ở đây, chúng ta cũng cần thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người
khẳng định các ngành khác phải lấy NN làm trung tâm thì ở mức độ nào đó,
các ngành phục vụ cho NN thì cũng chính là phục vụ cho sự phát triển của
bản thân mình.
Như vậy, trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực tế công cuộc xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ "Hồ Chí Minh đã thể hiện phẩm chất của
một nhà lãnh đạo hiểu sâu sắc thực tiễn của đất nước mình, nhuần nhuyễn lý
luận và thực tiễn, không câu nệ... lý thuyết gia thông thường". Điều đó cũng
cho thấy "trước một giai đoạn mới của sự phát triển đất nước, Hồ Chí Minh

đều có những chỉ dẫn định hướng trong đó nhẫn mạnh vai trò cực kỳ quan
trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta". Nếu đặt tư tưởng của Hồ
Chí Minh về NN là gốc, là chính trong bối cảnh chung của công cuộc xây
dựng kinh tế XHCN trên thế giới, cũng như ở nước ta tại những thời điểm lúc
bấy giờ với những thành công và không thành công mới thấy hết được những
giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng ấy. Đó là một tư tưởng vô cùng đáng
quí, đáng trân trọng. Suy cho cùng, tư tưởng về NN là, gốc là chính của Hồ
Chí Minh thấm đượm một tinh thần nhân đạo vì con người, thực sự coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của CNXH. Tư tưởng đó, trước hết và
trên hết là vì dân, vì lo cho cái ăn, cái mặc, hạnh phúc của nhân dân.
Xã hội chủ nghĩa mà Người đã lựa chọn cho dân tộc ta và lãnh đạo
nhân dân ta xây dựng là xã hội nhân đạo nhất, tiến bộ nhất, bởi xuất phát từ
bản chất khách quan của nó, như Người đã chỉ rõ "Chủ nghĩa xã hội là cái gì?
Là mọi người đều ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do" [26, tr. 396]. Mặc dù rất


21

khao khát một Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp, Hồ Chí Minh
vẫn nhắc nhở: "Lấy nông nghiệp là gốc, là chính" để giải quyết vấn đề động
lực CNXH. Điều này rát quan trọng đối với Việt Nam - một nước vốn là nước
NN lạc hậu mà đa số dân cư là ND.
Vấn đề đặt ra là tại sao Hồ Chí Minh lại coi trọng vị trí, vai trò của
NN trong nền kinh tế nước ta như vậy? Chúng ta có thể lý giải:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm to nhất của nước ta khi đi lên CNXH
theo Hồ Chí Minh "đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một
nước NN lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không kinh qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa" [28, tr. 13]. Do đó, không được nóng vội, chủ quan duy ý chí trong
thời kỳ đầu xây dựng CNXH ở nước ta và Hồ Chí Minh cũng cho rằng: Kỹ
thuật của CNXH đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH có công nghiệp và NN

hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây
dựng là nhiệm vụ then chốt và lâu dài [28, tr. 13].
Thứ hai, Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy được vai trò của NN trong phát
triển các ngành kinh tế khác của đất nước trước hết là NN.
Thứ ba, ở nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển NN.
Hồ Chí Minh chỉ rõ ba điều kiện đó là: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Nói chuyện tại Hội nghị Trung ương 7 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam (khóa III) Người nói rõ: Ở các xứ rét mỗi năm tuyết
giá dai dẳng, chỉ trồng được một mùa, khí hậu nước ta ấm áp cho phát triển
quanh năm trồng trọt thu hoạch 4 mùa. Như thế thiên thời rất thuận lợi ở vùng
đồng bằng miền Bắc tuy ít ruộng, người nhiều,nhưng chúng ta trồng xen, tăng
vụ thì một mẩu đất có thể hóa ra 2. Miền ngược thì có nhiều vùng đất rộng
mênh mông và màu mỡ, tha hồ cho chúng ta vỡ hoang. Như thế là địa lợi rất
tốt [28, tr. 544].


22

Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã luôn nhìn thẳng và tìm mọi cách huy động
điều kiện thiên thời địa lợi của đất nước để chủ trương phát triển NN. Tuy nhiên,
cũng theo Hồ Chí Minh trong các điều kiện thiên thời, địa lợi thì nhân hòa là
yếu tố quan trọng nhất. Do vậy, để phát triển NN, ngoài hai yếu tố thiên thời,
địa lợi thì yếu tố nhân hòa quan trọng nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Người, "nước ta là một nước nông nghiệp, hơn 9/10 dân ta là
nông dân" [23, tr. 710], đó là "Một lực lượng rất to lớn của dân tộc". Nhưng
cơ bản là ở chỗ: "Nhân dân tra rất cần cù, thông minh và khéo léo. Nhân dân
thì rất siêng năng chịu khó lại sẵn có truyền thống cần cù lao động và hăng
hái chiến đấu". Từ khi có Đảng lãnh đạo "nhân dân ta nói chung và nông dân
ta nói riêng rất yêu mến Đảng và nghe lời Đảng" và một khi nhân dân ta đã

thấm nhuần đường lối của Đảng, "thấm nhuần tinh thần của Nghị quyết của
Hội nghị Trung ương, chắc chắn nông dân ta rất phấn khởi và sẽ có chuyển
biến to lớn trong sản xuất nông nghiệp" [28, tr. 38]. Chính vì vậy, Đảng và
Chính phủ cần phải hết sức quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đồng thời phải biết phát huy những tiềm năng, sức mạnh vốn có của họ. Hồ
Chí Minh muốn nhấn mạnh: "Chúng ta cần phải làm cho mọi người nông dân
nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, quyết tâm thực hiện cần kiệm, xây dựng
hợp tác xã, ra sức cải tiến, quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật thì nông
nghiệp nhất định phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc" [29, tr. 613].
1.3.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền
nông nghiệp toàn diện ở nước ta
Là nhà chiến lược thiên tài của cách mạng Việt Nam trong xem xét
đánh giá sự vật hiện tượng, xã hội hay con người về phát triển kinh tế, Hồ Chí
Minh luôn luôn xem xét một cách toàn diện. Quan điểm của Người về phát
triển kinh tế NN cũng không ngoại lệ.
Với Hồ Chí Minh, nền NN Việt Nam phát triển phải là một nền NN
toàn diện, nền NN phát triển để càng không phải trong một nền kinh tế thuần


23

nông mà là trong một nền kinh tế bền vững hiện đại với sự phong phú về ngành
nghề, đa dạng hóa về sản phẩm. Theo Người: "Sản xuất phải toàn diện, sản xuất
thóc là chính, đồng thời phải coi trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp,
chăn nuôi thả cá và nghề phụ [28, tr. 397]. Người nhắc nhở: "Trung ương
thường nói nông nghiệp phải toàn diện. Mình không những cất gạo ngô, khoai
sắn, bông mà còn các thứ khác nữa. Cho nên phải toàn diện" [28, tr. 445]. Nói
chuyện với cán bộ miền núi ở Hội nghị tổng kết cuộc vận động hợp tác hóa
NN, phát triển sản xuất kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi,
Người cũng nói "Sản xuất phải toàn diện, trồng cây lương thực và cây công

nghiệp, phát triển chăn nuôi, phát triển nghề rừng, chú trọng đẩy mạnh chăn
nuôi vì miền núi có nhiều khả năng chăn nuôi".
Vậy cụ thể như thế nào là một nền NN toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí
Minh? Qua các tác phẩm, bài nói, bài viết của Người cho thấy quan điểm về
một nền NN toàn diện phải là:
Thứ nhất: Nền NN toàn diện trước hết phải là một nền NN có ngành trồng
trọt phát triển trong đó "trồng trọt cũng phải phát triển toàn diện" [28, tr. 478].
Thứ hai: Theo Hồ Chí Minh, nền NN toàn diện phải có ngành chăn
nuôi phát triển.
Thứ ba: NN toàn diện, theo Người phải phát triển lâm nghiệp, trồng
cây gây rừng, khai thác lâm - thủy sản có kế hoạch.
Thứ tư: NN toàn diện theo Hồ Chí Minh còn phải đặt trong mối quan
hệ với phát triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền với biển.
Thứ năm: Khi nói đến NN toàn diện, ngoài nông, lâm, ngư nghiệp, Hồ
Chí Minh cũng nói đến nghề phụ gia đình.
Cần nhấn mạnh một điều là Hồ Chí Minh quan niệm nền NN toàn
diện không phải theo lối manh mún, tự cấp tự túc mà có qui hoạch của nền
kinh tế hàng hóa phát triển theo qui mô lớn phù hợp với đòi hỏi quá trình NN


24

hóa. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nền NN toàn diện là nền NN bao
gồm cả NN, lâm nghiệp, ngư nghiệp và ngành nghề phụ, có cơ cấu kinh tế nội
bộ ngành hợp lý, cân đối, hài hòa, bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ
hiệu quả kinh tế cao và bền vững. Sự đa dạng hóa NN trong tư tưởng của
Người có một ý nghĩa lớn lao đối với sự hội nhập và thích nghi nhanh của các
sản phẩm NN đối với sự biến động nó chính là cái đệm giảm sốc khi có những
chấn động vì thiên tai, dịch họa, nó làm giảm bớt các hậu quả xấu do nền kinh
tế độc canh mang lại, giúp nhân dân có nhiều phương án lựa chọn tổ chức sản

xuất của mình, giúp họ nhanh nhạy và nâng cao hiệu quả sản xuất NN.
1.3.3. Các điều kiện cơ bản bảo đảm xây dựng và phát triển
nông nghiệp
Để thực hiện được những mục tiêu cao cả của CNXH, theo Hồ Chí
Minh, trước hết phải xây dựng và phát triển nền kinh tế XHCN, bảo đảm
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, mà trước
hết là nhân dân lao động. Trong phát triển kinh tế, vấn đề hàng đầu là "Chúng
ta phải phấn đấu cho nền nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững
chắc" nhưng để cho NN phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc điều đó
thật không phải là đơn giản. Vì vậy, Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo
xây dựng và phát triển kinh tế nói chung, nền kinh tế NN nói riêng, Người chỉ
ra các điều kiện cơ bản, để bảo đảm xây dựng và phát triển nền NN nước nhà.
Đây thực sự là những chỉ dẫn hết sức quan trọng thể hiện tâm huyết và quyết
tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đưa nền NN Việt Nam lên trình độ sản xuất
XHCN cũng như vì mục tiêu cao cả mà suốt cuộc đời Người phấn đấu hy sinh.
Những điều kiện cơ bản để xây dựng và phát triển nền NN trong tư
tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
Thứ nhất: Phải động viên khuyến khích ND hăng hái tăng gia sản xuất
phải, thực hành tiết kiệm trong xây dựng và phát triển NN.


25

Thứ hai: Công nghiệp phải giúp đỡ NN, phát triển ngành công nghiệp
hóa NN, nhằm trang bị máy cho NN, cơ khí hóa sản xuất. Công nghiệp phải
phục NN cho tốt phải làm máy bơm, máy cày, làm công cụ cải tiến, thuốc trừ
sâu cho NN. Hàng hóa phục vụ cho NN phải thật tốt.
Thứ ba: Cải tiến và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất NN.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nông nghiệp phải thực sự trở thành nền tảng
của mọi vấn đề xã hội, là cơ sở của công nghiệp và các ngành kinh tế khác.

Trong quá trình công nghiệp hóa XHCN, để NN hoàn thành được vai trò của
mình đó không thể là một nền NN lạc hậu, phân tán manh mún, sản xuất nhỏ
mà phải là nền NN hiện đại. Nền NN phải được áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào quá trình sản xuất.
Thứ tư: Hợp tác hóa trong NN là biện pháp quan trọng để đưa nền NN
phát triển, là con đường đưa nhân dân Việt Nam đi lên XHCN.
Khi tiến hành xây dựng mô hình hợp tác NN ở Việt Nam. Mặc dù có
cơ sở lý luận là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề HTX
NN, nhưng về mặt thực tiễn xây dựng HTX trong hoàn cảnh Việt Nam đi lên
CNXH từ xuất phát điểm là một nền NN lạc hậu, lại trong điều kiện nửa nước
có chiến tranh, miền Bắc phải làm hậu phương lớn cho miền Nam đánh Mỹ,
là chưa từng có một tiền lệ nào trong lịch sử để tham khảo. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cùng với đảng cộng sản Việt Nam vừa phải tìm tòi, vừa phải khảo
nghiệm trong thực tiễn để cùng lãnh đạo nhân dân thực hiện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX NN để lại cho chúng ta ngày nay
còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứa tìm hiểu để đánh giá và kế thừa
cho đúng trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy vậy, một số vấn đề
chúng ta nhận thấy đã rõ ràng và đó cũng là những đóng góp xuất sắc và quý
giá cả về mặt lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng HTX
Việt Nam.


×